VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THÁI HÀ
PHÁP LUẬT
VỀ TỔ CHỨC TÀI CHÍNH VI MÔ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số
: 62.38.01.07
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Nguyễn Như Phát
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Như Phát. Các số liệu, trích dẫn được sử
dụng trong luận án đều có nguồn gốc rõ ràng, trung thực và đúng quy định.
Hà nội, tháng 9 năm 2015
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Thái Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÁC VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI CỦA LUẬN ÁN ................................................................ 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về tài chính vi mô và pháp luật về tổ chức tài
chính vi mô ....................................................................................................................... 6
1.2 Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của luận án ................................................................... 18
CHƯƠNG 2:CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC TÀI CHÍNH
VI MÔ ............................................................................................................................ 21
2.1 Khái quát chung về tài chính vi mô và tổ chức tài chính vi mô............................... 21
2.2 Khái quát chung về pháp luật về tổ chức tài chính vi mô ........................................ 39
2.3 Kinh nghiệm quốc tế trong việc sử dụng pháp luật điều chỉnh hoạt động tài
chính vi mô và tổ chức tài chính vi mô .......................................................................... 48
CHƯƠNG 3:THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC TÀI CHÍNH VI MÔ Ở
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ........................................................... 58
3.1. Thành lập, tổ chức lại, giải thể và phá sản tổ chức tài chính vi mô ........................ 58
3.2 Cơ cấu tổ chức và hoạt động quản trị, điều hành tổ chức tổ chức tài chính vi mô .. 77
3.3 Hoạt động kinh doanh cơ bản của tổ chức tài chính vi mô .................................... 102
3.4. Đánh giá thực trạng pháp luật về tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay ............................................................................................................... 115
CHƯƠNG 4:KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC TÀI
CHÍNH VI MÔ Ở VIÊT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ........................... 121
4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay ........................................................................................................ 121
4.2. Những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức tài chính vi mô ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay .............................................................................. 124
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ ............................................................................ 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 151
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
STT
SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
VIẾT ĐẦY ĐỦ
1
BKS
Ban kiểm soát
2
HĐTV
Hội đồng thành viên
3
NH
Ngân hàng
4
NHCSXH
Ngân hàng chính sách xã hội
5
NHHTX
Ngân hàng hợp tác xã
6
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
7
NHTM
Ngân hàng thương mại
8
NHTW
Ngân hàng Trung ương
9
TCQMN
Tài chính quy mô nhỏ
10
TCTD
Tổ chức tín dụng
11
TCVM
Tài chính vi mô
12
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật các tổ chức tín dụng 2010 ra đời đã chính thức ghi nhận tổ chức tài
chính vi mô là một loại hình tổ chức tín dụng, đồng thời giao trách nhiệm cho Ngân
hàng Nhà nước ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành một số điều quy định về
loại chủ thể này. Tính đến nay, Luật này đã có hiệu lực được hơn bốn năm song
chưa hề có một văn bản nào về tài chính vi mô được Ngân hàng Nhà nước ban hành
để hướng dẫn thi hành. Trên thực tế, tất cả các văn bản đang được sử dụng để điều
chỉnh đến các tổ chức tài chính vi mô đều được ban hành vào thời điểm trước năm
2010 và được dựa trên nền tảng của Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật
sửa đổi bổ sung một số điều Luật các tổ chức tín dụng năm 2004. Thực trạng pháp
luật này đã tạo ra những bất cập lớn trong việc điều chỉnh các vấn đề liên quan đến
tổ chức tài chính vi mô hiện nay - kể từ việc tạo lập tổ chức mới cho đến việc thực
hiện các hoạt động quản trị, điều hành cũng như hoạt động kinh doanh. Cũng chính
vì lý do này nên một trong những giải pháp được nêu lên trong “Đề án xây dựng và
phát triển hệ thống tài chính vi mô đến năm 2020” ban hành kèm theo Quyết định
số 2195/QĐ-Ttg ngày 6/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ là: “Xây dựng môi
trường pháp lý đồng bộ, phù hợp với đặc thù của hoạt động tài chính vi mô”.
Để có thể thực hiện được giải pháp trên, rất cần có những nghiên cứu chuyên
sâu dưới giác độ pháp lý về tài chính vi mô cũng như tổ chức tài chính vi mô nhằm tìm
ra những cơ sở lý luận cũng như cơ sở thực tiễn vững chắc làm nền tảng cho việc xây
dựng pháp luật. Trên thực tế, mặc dù đã du nhập vào Việt Nam từ vài chục năm trước
song tài chính vi mô ít nhận được sự quan tâm từ phía các nhà khoa học pháp lý, biểu
hiện ở việc có khá ít những công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này.
Với mong muốn tìm ra những bất cập của các pháp luật hiện hành về tổ chức
tài chính vi mô góp phần xây dựng cơ sở lý luận cũng như thực tiễn cho việc khắc
phục những bất cập đó, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về tổ chức tài
chính vi mô ở Việt Nam” để thực hiện Luận án tiến sĩ luật học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Trước thực trạng pháp luật về tổ chức tài chính vi mô và nhu cầu phát triển
1
ngành tài chính vi mô ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để phục vụ cho mục
tiêu xóa đói giảm nghèo một cách bền vững, nghiên cứu sinh xác định mục đích
nghiên cứu đề tài “Pháp luật về tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam” là nhằm:
Thứ nhất, Đánh giá mức độ phù hợp, chưa phù hợp của các quy định pháp
luật Việt Nam về tổ chức tài chính vi mô đối với tình hình thực tiễn của ngành tài
chính vi mô Việt Nam;
Thứ hai, Xác định rõ ràng cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn cho việc xây
dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức tài chính vi mô hiện hành,
tạo tiền đề cho việc xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay;
Thứ ba, với những điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam hiện nay, luận
án phải đề xuất được những giải pháp, kiến nghị có đủ cơ sở lý luận và cơ sở thực
tiễn để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam
hiện nay phù hợp với mục tiêu xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô ở
Việt Nam.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án có các nhiệm vụ cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, phân tích, đánh giá và làm rõ vai trò của tài chính vi mô nói chung
và tổ chức tài chính vi mô nói riêng đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay;
Thứ hai, làm rõ các khái niệm có liên quan như tài chính vi mô, tổ chức tài
chính vi mô, pháp luật về tài chính vi mô đồng thời xác định rõ sự cần thiết phải tồn
tại các quy định của pháp luật điều chỉnh đối với các hoạt động tài chính vi mô cũng
như các tổ chức tài chính vi mô;
Thứ ba, phân tích một cách khoa học, đầy đủ và có hệ thống các quy định
của pháp luật hiện hành điều chỉnh đến việc thành lập, giải thể, phá sản một tổ chức
tài chính vi mô nhằm tìm ra những điểm hạn chế, bất cập của các quy định này với
thực trạng hiện nay của ngành tài chính vi mô;
Thứ tư, xác định rõ ràng khung pháp luật cho hoạt động kinh doanh của các
tổ chức tài chính vi mô, so sánh khung pháp luật này với các hành vi kinh doanh
2
của các chương trình, dự án đang cung cấp dịch vụ tài chính vi mô để qua đó xác
định những hợp lý cũng như bất hợp lý của khung pháp luật này;
Thứ năm, trên cơ sở những bất cập của thực trạng pháp luật về tổ chức tài
chính vi mô hiện nay và thực tiễn ngành tài chính vi mô Việt Nam đòi hỏi, phải đề
xuất được những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật hiện
hành để điều chỉnh có hiệu quả hơn đối với các tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án được xác định là các văn bản pháp luật
hiện hành về tổ chức tài chính vi mô và thực tiễn tổ chức và hoạt động của các tổ
chức tài chính vi mô tại Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án được xác định là các vấn đề pháp lý đặt ra
đối với các tổ chức tài chính vi mô Việt Nam bao gồm: (i) vấn đề thành lập, tổ chức
lại; phá sản và giải thể tổ chức tài chính vi mô; (ii) vấn đề quản trị, điều hành tổ
chức tài chính vi mô và (iii) hoạt động kinh doanh của các tổ chức tài chính vi mô.
Thời gian nghiên cứu được xác định chủ yếu từ năm 2005 – thời điểm Việt
Nam chính thức có văn bản pháp luật đầu tiên điều chỉnh đến tổ chức tài chính vi
mô - đến nay (2015).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1 Phương pháp luận
Phương pháp luận được sử dụng để nghiên cứu là phương pháp luận Mác –
Lênin. Cụ thể, vấn đề nghiên cứu sẽ được xem xét dựa trên quan điểm của Chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật.
Bên cạnh đó, quan điểm đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
cũng được sử dụng làm phương pháp luận để tiếp cận vấn đề cần nghiên cứu.
4.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể của luận án
Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên, luận án sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích được sử dụng khi đánh giá, bình luận các quy định
pháp luật, các tình huống thực tiễn làm cơ sở cho những kết luận khoa học. Phương
3
pháp này được sử dụng chủ yếu tại chương 2 (nhằm làm rõ những cách hiểu về các
khái niệm mà luận án cần tìm hiểu và giải thích) và chương 3 (chủ yếu ở mục 3.3
nhằm đánh giá về thực trạng pháp luật về tổ chức TCVM ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay)
Phương pháp tổng hợp được sử dụng khi đánh giá nhằm rút ra những kết
luận tổng quan, những quan điểm mang tính cá nhân và là cơ sở để đưa ra các đề
xuất, kiến nghị. Phương pháp này cũng được sử dụng trải đều trong các chương của
luận án nhằm tổng hợp những nội dung đã phân tích nhằm đưa ra được những kiến
thức mang tính khái quát và cả những nhận định mang tính cá nhân về vấn đề
nghiên cứu.
Phương pháp luật học so sánh được sử dụng khi phân tích, đánh giá các quy
định của pháp luật hiện hành của Việt Nam trong mối tương quan với quy định
pháp luật của các nước nhằm làm sáng tỏ những điểm chung, sự khác biệt trong các
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Phương này chủ yếu được sử dụng ở
chương 2 (mục 2.3) nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi xây
dựng và thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức TCVM và chương 4 (mục
4.2) nhằm đưa ra những kiến nghị, giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật về tổ
chức TCVM ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Phương pháp phân tích logic quy phạm, được sử dụng khi đánh giá thực
trạng pháp luật, xem xét về tính thống nhất hoặc phát hiện mâu thuẫn trong nội
dung quy định pháp luật về TCVM. Phương pháp này được sử dụng ở chương 2
(mục 2.3) chương 3 nhằm phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành
nhằm tìm ra những điểm hợp lý và chưa hợp lý để tìm ra phương hướng khắc phục,
đề xuất giải pháp hoàn thiện.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành, được sử dụng khi nghiên cứu, đánh giá
về vai trò của tổ chức TCVM đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo tại các mục 2.1
và 2.2 (xã hội học – luật học); về xây dựng khung pháp luật cho hoạt động kinh
doanh của các tổ chức TCVM tại mục 3.3 (luật học –kinh tế học).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án đã làm rõ một số khái niệm vốn đang được tiếp cận rất
khác nhau trong thực tế như tài chính vi mô, tổ chức tài chính vi mô, pháp luật về
4
tài chính vi mô, pháp luật về tổ chức tài chính vi mô.
Thứ hai, làm rõ bản chất và nêu lên những đặc trưng pháp lý cơ bản của tài
chính vi mô và tổ chức tài chính vi mô;
Thứ ba, nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện pháp luật về tổ chức
tài chính vi mô ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay qua đó xây dựng cơ sở lý luận
của lĩnh vực pháp luật này;
Thứ tư, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về
tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Với tư cách là một nghiên cứu chuyên sâu dưới giác độ luật học, luận án đã
phân tích, đánh giá một cách đầy đủ và hệ thống đối với thực trạng pháp luật về tổ
chức tài chính vi mô ở Việt Nam qua đó, làm rõ cơ sở lý luận cũng như cơ sở thực
tiễn của lĩnh vực pháp luật này. Chính vì vậy, luận án đã thể hiện được ý nghĩa khoa
học của mình khi những kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho những nghiên cứu tiếp theo về lĩnh vực pháp luật này.
Ngoài ra, về mặt thực tiễn,những kiến nghị được đưa ra trong luận án được
xây dựng trên cơ sở lý luận chặt chẽ và có kiểm chứng thực tế nên hoàn toàn có thể
được sử dụng như một nguồn tham khảo tin cậy trong quá trình xây dựng, hoàn
thiện pháp luật về tài chính vi mô cũng như về tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
7. Cơ cấu của luận án
Để hoàn thành được nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, ngoài phần lời nói đầu,
phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận án sẽ được bố cục thành bốn
(04) chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận của pháp luật về tổ chức tài chính vi mô
Chương 3: Thực trạng pháp luật về tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay
Chương 4: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tổ chức tài chính vi mô ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI CỦA LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về tài chính vi mô và pháp luật về tổ chức
tài chính vi mô
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Thực tiễn thế giới đã cho thấy vai trò của TCVM trong công cuộc xóa đói giảm
nghèo là vô cùng to lớn. Vai trò này không chỉ thể hiện ở các nước đang phát triển mà
thậm chí còn ở cả các nước phát triển như Mỹ, Canada… Chính bởi tầm quan trọng
của lĩnh vực này đối với xã hội nên trong suốt thời gian vừa qua, có khá nhiều các công
trình nghiên cứu về TCVM đã được thực hiện ở khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, các
nghiên cứu này chủ yếu thực hiện theo hai hướng chính: (i) Các nghiên cứu nhằm tìm
các giải pháp phát triển hoạt động TCVM và (ii) các nghiên cứu về những đóng góp và
mức độ tác động của TCVM đối với hoạt động xóa đói, giảm nghèo. Qua khảo sát tình
hình nghiên cứu về TCVM có thể mô tả tổng quan tình hình nghiên cứu về lĩnh vực
này như sau:
1.1.1.1 Nhóm những nghiên cứu đánh giá mức độ ảnh hưởng của tài chính vi
mô đối với hoạt động xóa đói giảm nghèo.
Bên cạnh những nghiên cứu dưới góc độ kinh tế nêu trên, TCVM còn được
nghiên cứu dưới một góc độ khác, đó là góc độ xã hội. Điều này xuất phát từ đặc thù
của hoạt động TCVM không phải chỉ là hoạt động kinh doanh đơn thuần mà luôn có
hai mục đích song song tồn tại là: (i) tìm kiếm lợi nhuận để tồn tại bền vững và (ii)
tương trợ giúp đỡ những người có thu nhập thấp trong xã hội. Dưới góc độ này, có thể
kể đến các công trình nghiên cứu sau đây:
Trước hết, cần phải khẳng định rằng trong các nghiên cứu và báo cáo do ADB
thực hiện, bên cạnh những phân tích, đánh giá về việc thực hiện các nghiệp vụ TCVM
thì việc đánh giá về tác động của TCVM đối với công cuộc xóa đói, giảm nghèo cũng
đặc biệt được chú trọng. Cũng chính bởi vai trò này nên tổ chức này luôn dành những
nguồn lực tài chính nhất định cho các quốc gia đang phát triển – nơi mà tỷ lệ người
nghèo vẫn còn ở mức rất cao – để các quốc gia này có điều kiện xây dựng và phát triển
6
ngành TCVM1.
Các nghiên cứu của Meyer và Nagarajan năm 1992 “Đánh giá vai trò của tài
chính phi chính thức trong quá trình phát triển” (An assessment of the role of informal
finance in the development process) [92].
Nghiên cứu của Hulme D. và Mosley P. vào năm 1996 với tựa đề “Tài chính
cho người nghèo hay những người nghèo nhất? Đổi mới về tài chính cho người nghèo
và dễ tổn thương” (Finance for the poor or poorest? Financial Innovation, Poverty and
Vulnerability) đưa ra những phân tích, đánh giá về mức độ tiếp cận của TCVM đến đối
tượng nào trong xã hội, qua đó khẳng định tầm quan trọng của TCVM đối với những
đối tượng có thu nhập thấp trong xã hội [81].
M. Zeller và L. Meyer trong tác phẩm “Tam giác tài chính nông thôn: bền vững
tài chính, sự tiếp cận và tác động” (The triangle of rural finance: Financial
sustainability, outreach, and impact) [114] trong năm 2002 đã đưa ra khung tam giác
cho việc đánh giá sự phát triển hoạt động của các tổ chức TCVM nông thôn
Các nghiên cứu của Mohammat Yunus vào các năm 2003 về “Giảm phân nửa
nghèo đói vào năm 2015” [66] và năm 2005 “Mở rộng tài chính vi mô để đạt mục tiêu
phát triển thiên niên kỷ” (Expanding Microcredit to Reach the Millennium
Development Goal) [110] khẳng định thêm tầm quan trọng của TCVM nói chung và
tài chính nông thôn nói riêng đối với vấn đề giảm đói nghèo và đạt mục tiêu thiên niên
kỷ do Liên hiệp quốc đề ra.
Năm 2009, Chowdhury Annis khi thực hiện nghiên cứu “TCVM, một công cụ
giảm nghèo – Một phương pháp đánh giá” (Microfinance as a Poverty Reduction Tool
– A Critical Assesment) [74] đã đánh giá khá chi tiết và đầy đủ về vai trò của TCVM
với tính cách là một phương thức xóa đói, giảm nghèo hiện nay và qua đó, khẳng định
tầm quan trọng của lĩnh vực này đối với mỗi một quốc gia, đặc biệt là các quốc gia
đang phát triển.
Năm 2012, Olle Berggren có công trình: “Tác động của các tổ chức không
chính thức có cung cấp dịch vụ TCVM” (The Impact of Informal Institution on
Ví dụ, năm 2013 ADB dành cho Việt Nam khoản viện trợ trị giá 40 triệu USD để phát triển TCVM ở Việt
Nam. Nguồn: NH phát triển Châu Á, Chương trình phát triển TCVM đến năm 2015.
1
7
Microfinance Performance) [97], đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức không
được gọi là tổ chức TCVM nhưng có cung cấp dịch vụ TCVM đến thị trường TCVM
cũng như đến xã hội trong giai đoạn 2003 đến 2010 trên 72 quốc gia trên thế giới.
1.1.1.2 Nhóm nghiên cứu về các giải pháp phát triển hoạt động tài chính vi mô
Thực tế cho thấy, có khá nhiều những nghiên cứu đã được thực hiện theo hướng
đánh giá về thực trạng hoạt động của các tổ chức có cung ứng dịch vụ TCVM; phân
tích các yếu tố tác động đến sự tồn tại và phát triển của TCVM và trên cơ sở đó đưa ra
những giải pháp giúp hoạt động TCVM có thể phát triển hơn nữa, cả vể chiều rộng và
chiều sâu. Có thể kể ra đây một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:
Trước hết, cần phải kể đến các công trình nghiên cứu do NH phát triển Châu Á
(ADB) chủ trì trong suốt những năm vừa qua nhằm khuyến nghị những giải pháp phát
triển hoạt động TCVM ở các nước đang phát triển trong khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương. Có thể kể đến một vài công trình tiêu biểu như: “Tài chính cho người nghèo:
Chiến lược TCVM của ADB” (Finance for the poor: ADB Microfinance Strategies);
“Chính sách và tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật cho việc thực hiện chương trình phát triển
TCVM của Việt Nam” (Policy and Advisory Technical Assistance to Vietnam’s
Implementation of Microfinance Development Program) [69,71]. Những giải pháp
được đưa ra trong các nghiên cứu của ADB không chỉ dừng lại ở việc nâng cao nghiệp
vụ hoạt động, tìm kiếm các giải pháp nhằm làm giảm chi phí…mà còn là cả những giải
pháp dưới góc độ pháp lý – coi việc tạo dựng và duy trì một chính sách phù hợp, một
khung pháp luật ổn định là điều kiện cần cho việc phát triển TCVM ở các nước đang
phát triển trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Năm 1994, Rhyne E. và Otero M. có tác phẩm “Những dịch vụ tài chính cho
các doanh nghiệp siêu nhỏ: Những nguyên tắc và tổ chức” (Financian Services For
Microenterprises: Principles and Institutions) [100]. Nghiên cứu này đã chỉ ra sự cần
thiết phải tồn tại hoạt động TCVM để cung cấp các dịch vụ tài chính cho những người
nghèo, người có thua nhập thấp và các doanh nghiệp siêu nhỏ. Bên cạnh đó, các tác giả
cũng nêu ra những nguyên tắc căn bản trong việc xây dựng tổ chức và tiến hành các
hoạt động kinh doanh của các tổ chức cung ứng dịch vụ TCVM nhằm đảm bảo hiệu
quả của hoạt động này.
8
Trong tác phẩm “Từ tín dụng nông nghiệp đến tài chính nông thôn” (From
Agricultural Credit to Rural Finance) viết năm 1995 [67], D.W Adams phân tích quá
trình hình thành các Tổ chức TCVM nông thôn từ các chương trình tín dụng nông
nghiệp và các nhân tố tác động tới quá trình này. Theo ông, sự đặc thù của tín dụng
nông nghiệp và môi trường sống của những người làm nông nghiệp chính là yếu tố căn
bản đã làm xuất hiện các hoạt động TCVM nông thôn.
Nghiên cứu của Meyer và Nagarajan năm 2000 “Thị trường tài chính nông
thôn ở Châu Á: Các chính sách, mô hình và hoạt động” (Rural Financial Markets in
Asia: Policies, Paradigms, and Performance) [91] đã tiến hành phân tích các đặc điểm
của thị trường tài chính nông thôn ở châu Á và từ đó khẳng định, chính những đặc
điểm này (đặc biệt là chi phí giao dịch cao hay thiếu tài sản bảo đảm cho các khoản
vay…) đã làm cho lãi suất cho vay đối với khu vực nông thôn bị tăng cao hơn so với
khu vực đô thị. Từ thực trạng đó, các tác giả cũng đưa ra những khuyến nghị về chính
sách, pháp luật dành cho thị trường tài chính nông thôn đồng thời cũng nêu lên mô hình
tổ chức và phương pháp hoạt động nhằm đảm bảo thị trường tài chính châu Á có thể
hoạt động có hiệu quả hơn.
Hai nghiên cứu của J. Yaron năm 1992 về “Các tổ chức tài chính nông thôn
thành công” (Successful Rural Finance Institutions) và năm 1997 “Tài chính nông
thôn: Các vấn đề, thiết kế và các kinh nghiệm tốt nhất” (Rural Finance: Issues, Design
and Best Practices) [108, 109] cũng đóng góp một phần quan trọng vào lý thuyết về
phát triển các Tổ chức TCVM, đặc biệt là các tổ chức TCVM ở nông thôn. Bên cạnh
việc rút ra những bài học kinh nghiệm cho hoạt động xây dựng và phát triển các tổ
chức TCVM nông thôn thì tác giả còn đưa ra các quan điểm và phương pháp đánh giá
tác động của các tổ chức tài chính vi mô nông thôn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
cộng đồng.
Với tác phẩm “Cẩm nang tài chính nông thôn: Khía cạnh thể chế và tài chính”
(Rural Finance Handbook, An Institutional and Financial Perspective) viết năm 1999
[87], J. Ledgerwood đã tổng kết lại những vấn đề then chốt nhất cũng như những yếu
tố có tác động lớn đến hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô nông thôn. Công
trình này chủ yếu đề cập đến việc phát triển các tổ chức TCVM ở môi trường nông
9
thôn thông qua việc phát triển các sản phẩm mà TCVM cung ứng.
M. Zeller trong tác phẩm “Mô hình cho các thể chế tài chính nông thôn”
(Models of Rural Financial Institutions) [115] được viết làm tham luận chủ chốt cho
hội thảo quốc tế về tài chính nông thôn năm 2003 đã tập trung phân tích về đặc trưng
của các tổ chức TCVM nông thôn, tổng kết và rút ra những bài học kinh nghiệm cho
việc xây dựng và phát triển hoạt động các tổ chức TCVM nông thôn. Trong bài viết
này, Zeller cho rằng, Luật pháp cũng là một yếu tố quan trọng cho việc tồn tại và phát
triển của các tổ chức TCVM ở nông thôn.
Cũng trong năm 2003, D. Steinwand có công trình nghiên cứu với tiêu đề
“Thách thức của sự tiếp cận bền vững: Kinh nghiệm của năm quốc gia châu Á” (The
challenge of sustainable outreach: Five case studies from Asia) [106] tổng kết các kinh
nghiệm từ năm quốc gia châu Á trong việc phát triển các hoạt động tài chính ở nông
thôn, trong đó có các hoạt động TCVM.
Jonathan Morduch năm 2008 có nghiên cứu “Người nghèo nuôi sống TCVM
như thế nào?” (How can the poor afford microfinance?) [94] đã tiến hành phân tích
bản chất việc tự vững của TCVM khi cung ứng các dịch vụ tài chính cho người nghèo
là việc áp dụng mức lãi suất cho các khoản vay dành cho người nghèo cao hơn so với
mặt bằng lãi suất của thị trường.
Năm 2009, Dilin Lim với Luận văn Thạc sĩ: “Những thách thức trong thực tiễn
đối với các tổ chức TCVM” (Practical Challenges of Microfinance Institutions) [78] đã
phân tích, đánh giá các mô hình TCVM trên thế giới và mức độ tiếp cận đến người
nghèo trong xã hội của từng mô hình này. Tác giả của công trình này cũng đã đưa ra
những khuyến nghị hết sức hữu ích cho việc phát triển các tổ chức TCVM như tạo
dựng môi trường pháp lý ổn định; tăng độ sâu tiếp cận và mở rộng những sản phẩm
cung ứng của các tổ chức TCVM…
Ledgerwood Joanna cùng với Julie Earne và Candace vào năm 2013 đã viết
cuốn: “Cẩm nang mới về TCVM: Viễn cảnh của thị trường tài chính” (The New
Microfinance Handbook: A Financial Market System Perspective) [88]. Với hơn
500 trang viết, các tác giả đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh về các kỹ năng thực
hiện hoạt động quản trị, hoạt động kinh doanh của tổ chức TCVM cũng như các tác
10
động mà tổ chức TCVM mang lại cho cộng đồng.
1.1.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Cũng tương tự như trên thế giới, về TCVM ở Việt Nam cũng đã có khá nhiều
những nghiên cứu nhằm tìm cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng và
phát triển lĩnh vực này. Mặc dù những nghiên cứu này đa phần đều được tiếp cận dưới
góc độ của kinh tế học và xã hội học song cũng đã bắt đầu có những nghiên cứu được
thực hiện dưới giác độ luật học nhằm xác định cơ sở khoa học cho việc tạo dựng hành
lang pháp lý để phát triển TCVM ở Việt Nam. Có thể khái quát tình hình nghiên cứu về
TCVM ở Việt Nam như sau:
1.1.2.1 Những nghiên cứu về hoạt động kinh doanh của tài chính vi mô và
vai trò của tài chính vi mô đối với người nghèo trong xã hội
Phần lớn các nghiên cứu về TCVM hiện nay đều được thực hiện dưới góc độ
này. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu sau:
Năm 1998, Trần Thọ Đạt thực hiện Luận án Tiến sĩ với đề tài: “Chi phí giao
dịch của người vay, thị trường phân tách và kém tiếp cận: nghiên cứu về thị trường
tín dụng nông thôn Việt Nam” (Borrower Transaction Costs, Segmented Markets
and Credit Rationing: A Study of the Rural Credit Market in Vietnam) [76]. Công
trình này đã tiến hành phân tích về chi phí giao dịch, sự chia tách thị trường trong
khu vực TCVM nông thôn, với phần mô hình từ số liệu sơ cấp của khu vực Đồng
bằng Sông Hồng.
Năm 2000, Đào Văn Hùng với luận án tiến sỹ “Các giải pháp tín dụng đối với
người nghèo ở Việt Nam hiện nay” [25] đã tiến hành phân tích cụ thể về tín dụng cho
người nghèo ở Việt Nam; sau khi bảo vệ thành công, tác giả đã có nghiên cứu tiếp
theo: “Báo cáo phân tích tiếp cận: Nâng cao khả năng tiếp cận của hộ gia đình đối với
các dịch vụ tài chính chính thức ở Việt Nam” (Outreach Diagnostic Report: Improving
Household Access to Formal Financial Services in Vietnam) [26] phân tích sâu hơn về
sự tiếp cận TCVM của người nghèo ở Việt Nam, sử dụng các số liệu sơ cấp như số liệu
điều tra về mức tiếp cận của dự án mở rộng tiếp cận Canada năm 2001. Đến năm 2005,
tác giả lại cho ra đời tiếp một công trình với tựa đề: “Phát triển hoạt động TCVM ở
Việt Nam” [27] để mô tả những thuận lợi cũng như khó khăn cho sự tồn tại ngành
11
TCVM ở Việt Nam đồng thời cũng đưa ra những giải pháp để phát triển các hoạt động
này nhằm phục vụ cho công tác xóa đói giảm nghèo.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Thanh Hương năm 2002: “Các giải pháp phát
triển thị trường tài chính nông thôn trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế ở Việt
Nam” [28] mặc dù là một luận án tiến sĩ kinh tế nhưng cũng đã có những phân tích về
môi trường pháp lý cho thị trường TCVM ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi cơ
chế kinh tế.
Năm 2005, Luận án tiến sĩ của Quách Mạnh Hào “Tiếp cận tới tài chính và
giảm nghèo: Ứng dụng cho nông thôn Việt Nam”(Access to Finance and Poverty
Reduction: An Application to Rural Vietnam) [79] đã tiến hành phân tích mối quan hệ
giữa việc tiếp cận tài chính và vấn đề xóa đói giảm nghèo, thông qua việc điều tra mức
sống của người dân nông thôn Việt Nam giai đoạn từ 1992 đến 1998, qua đó khẳng
định tầm quan trọng của các dịch vụ TCVM đối với công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở
Việt Nam.
A. McCarty (năm 2001) với tác phẩm “Tài chính vi mô ở Việt Nam: Nghiên cứu
các dự án và các vấn đề đặt ra” [32] đã thực hiện đánh giá sơ bộ về mảng tài chính do
các tổ chức phi chính phủ thực hiện tại Việt Nam và đưa ra một số kết luận sâu sắc về
các vấn đề như sự tiếp cận, sự hài lòng của khách hàng, hay chi phí giao dịch của khu
vực bán chính thức so với khu vực chính thức. Nghiêm Hồng Sơn phân tích sâu hơn về
năng suất và hiệu quả của các tổ chức tài chính nông thôn khu vực bán chính thức dựa
trên phân tích các số liệu điều tra của mình với tựa đề “Hiệu quả và hiệu lực của tài
chính nông thôn ở Việt Nam: Bằng chứng từ các chương trình tài chính phi chính phủ
vùng Bắc và Trung Bộ” (Efficiency and Effectiveness of Rural Finance in Vietnam:
Evidence from NGO Schemes in the North and the Central Regions) [105] năm 2006.
Hai nghiên cứu của Lê Lân (năm 2003) “Tài chính vi mô ở Việt Nam: Cơ hội và
thách thức” [30] và Lê Lân và Trần Như An (năm 2005) “Hướng tới một ngành tài
chính vi mô tự vững ở Việt Nam: Các vấn đề đặt ra và những thách thức” [31] phân
tích những yếu tố nội lực cơ bản và các cơ hội – thách thức từ bên ngoài đối với các tổ
chức TCVM Việt Nam trong điều kiện hội nhập và phát triển.
Đỗ Kim Chung với bài viết: “Tài chính vi mô cho xóa đói giảm nghèo. Một
12
số vấn đề lý luận và thực tiễn” [12] đã tiếp cận đến TCVM như là một công cụ xóa
đói giảm nghèo. Tác giả đã khẳng định sự tác động của TCVM đến hoạt động xóa
đói giảm nghèo ở Việt Nam là hết sức lớn và vì vậy, cần phải có giải pháp để phát
triển lĩnh vực này.
Với bài viết: “Tài chính vi mô và một số khuyến nghị đối với hoạt động tài
chính vi mô ở nước ta” [59] Doãn Hữu Tuệ đã trình bày một số vấn đề lý luận về
TCVM và nêu lên một số giải pháp để phát triển ngành TCVM ở Việt Nam trong
giai đoạn đó.
Năm 2007, NH thế giới công bố nghiên cứu “Việt Nam: Phát triển một chiến
lược toàn diện để mở rộng tiếp cận [của hộ nghèo] đối với các dịch vụ tài chính vi mô,
tăng cường tiếp cận, hiệu quả và bền vững” [45] thực hiện khảo sát và đánh giá về bức
tranh chung tài chính nông thôn Việt Nam và đưa ra một số khuyến nghị về chính sách,
đặc biệt việc thực hiện nghị định 28/2005 của Chính phủ đối với các tổ chức tài chính
quy mô nhỏ.
Năm 2006, GS. TS. Phạm Thị Mỹ Dung đã thực hiện một nghiên cứu với tựa
đề: “TCVM – Lý luận, phương pháp nghiên cứu và vận dụng” [13]. Công trình này đã
đưa ra một cái nhìn toàn cảnh về ngành TCVM dưới góc độ lý luận đồng thời cũng gợi
ý một số phương pháp để vận dụng những lý luận về TCVM vào trong thực tiễn.
Luận án tiến sỹ của Lê Thanh Tâm năm 2008 với đề tài “Phát triển các tổ
chức tài chính nông thôn Việt Nam” [48] thực hiện phân tích sự phát triển hoạt động
của các tổ chức tài chính nông thôn, tập trung vào ba tổ chức tài chính nông thôn là
NH Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, NHCSXH và hệ thống Quỹ tín
dụng nhân dân.
Năm 2009, TS. Nguyễn Kim Anh và cộng sự thực hiện đề tài: “Phát triển
TCVM ở khu vực nông nghiệp, nông thôn Việt Nam” [1] cũng có những đề cập đến
môi trường pháp lý cho ngành TCVM Việt Nam nói chung và TCVM ở nông thôn
Việt Nam nói riêng thông qua việc đánh giá môi trường pháp lý hiện hành và kiến nghị
những giải pháp để hoàn thiện môi trường này. Đến năm 2013, Nguyễn Kim Anh cũng
với Lê Thanh Tâm xuất bản cuốn: “Mức độ bền vững của các tổ chức TCVM Việt
Nam: Thực trạng và một số khuyến nghị” [4] tiến hành phân tích thực trạng tính hiệu
13
quả trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức TCVM cũng như các chương trình, dự
án đang cung cấp dịch vụ TCVM để đánh giá về tính bền vững của các tổ chức,
chương trình, dự án này. Các tác giả cũng đưa ra một số khuyến nghị nhằm giúp các tổ
chức, chương trình này cải thiện, nâng cao hiệu quả trong hoạt động của mình.
Năm 2012, Nguyễn Đức Hải thực hiện luận án tiến sĩ với đề tài: “Phát triển
TCVM tại Việt Nam” [23] đã tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng các hoạt động
TCVM tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động TCVM cũng như mở rộng hoạt động này tại Việt Nam.
Tháng 3 năm 2013, Võ Khắc Thường và Trần Văn Hoàng có bài viết
“TCVM tại một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm nhằm hạn chế đói
nghèo tại Việt Nam” [60]. Nghiên cứu này đề cập đến mô hình tổ chức của TCVM
ở một số quốc gia có nền TCVM phát triển và rút ra những bài học kinh nghiệm cho
TCVM Việt Nam.
1.1.2.2. Những nghiên cứu về giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức tài
chính vi mô
Nhìn chung, có khá ít nghiên cứu ở Việt Nam có đối tượng nghiên cứu là các
quy định của pháp luật về TCVM. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi dưới góc độ pháp lý
thì đây thực sự là một lĩnh vực khá mới mẻ: văn bản pháp luật đầu tiên về TCVM
cũng chỉ chính thức được ban hành vào năm 2005 và tổ chức TCVM đầu tiên ở Việt
Nam cũng chỉ mới ra đời vào năm 2010. Một số các công trình nghiên cứu dưới góc
độ này có thể kể đến:
Nghiên cứu đầu tiên về TCVM dưới góc độ pháp lý phải kể đến là bài viết
“Một số vấn đề về việc xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động tài chính vi mô tại
Việt Nam” [51] được Nguyễn Hữu Thanh đăng tải trên Tạp chí NH vào năm 2004,
thời điểm chúng ta đang chuẩn bị ban hành Nghị định 28/2005/NĐ-CP, văn bản đầu
tiên về TCVM ở Việt Nam. Bài viết này đã phân tích và đưa ra một vài gợi ý cho
việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh đến các hoạt động TCVM. Cũng tác giả này
năm 2007 đã thực hiện nghiên cứu “Quy chế pháp lý của tổ chức tài chính vi mô tại
Việt Nam” [52] với tư cách là một luận văn thạc sĩ luật học tại Viện nghiên cứu Nhà
nước và pháp luật. Trên cơ sở phân tích các quy định của Nghị định 28/2005/NĐ-
14
CP, tác giả có nêu lên một vài bất cập của văn bản này và đề xuất hướng xử lý.
Năm 2009, Nguyễn Thái Hà có hai nghiên cứu về hình thức pháp lý và cơ
cấu tổ chức, quản trị điều hành các tổ chức TCQMN: “Bàn về hình thức pháp lý của
các tổ chức TCQMN” và “Cơ cấu tổ chức và quản trị điều hành tổ chức TCQMN”
[21, 22] với nội dung cơ bản là phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện
hành điều chỉnh vấn đề thành lập, hoạt động, giải thể và phá sản các tổ chức
TCQMN (nay được gọi là tổ chức TCVM) theo quy định của pháp luật hiện hành.
Từ năm 2011 đến 2013, Viên Thế Giang có bốn (04) bài viết về TCVM dưới
góc nhìn của Luật học: “Phát triển tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam” “Hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam”
“Hình thành hệ thống tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam nhìn từ góc độ pháp lý”
“Định hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức TCVM ở Việt Nam hiện nay” được
đăng tải trên các tạp chí: Nhà nước và pháp luật (số 1/2012), tạp chí NH (số 17 năm
2011) và tạp chí Công nghệ NH (số tháng 8/2011) [17 - 20]. Thông qua các nghiên
cứu này, tác giả cũng đã phần nào đề cập đến những bất cập của pháp luật về
TCVM ở Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện.
Năm 2012, tác giả Hoàng Văn Thành thực hiện luận văn thạc sĩ tại Đại học
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh với đề tài “Đánh giá chính sách về tổ chức và hoạt
động của các tổ chức tài chính vi mô” [53]. Trong nghiên cứu này tác giả đã tiến
hành đánh giá hiệu quả áp dụng các văn bản pháp luật trong việc điều chỉnh hoạt
động TCVM ở Việt Nam – được thực hiện chủ yếu bởi các chương trình, dự án chứ
không phải của tổ chức TCVM2.
Trần Văn Duy và Hoàng Văn Thành năm 2013 cũng tiến hành nghiên cứu về
việc thành lập tổ chức TCVM tại Việt Nam hiện nay với đề tài: “Điều kiện thành
lập và cơ cấu tổ chức của tổ chức tài chính vi mô theo quy định của pháp luật hiện
hành: những vướng mắc cần được tháo gỡ” [15]. Các tác giả đã đề cập đến một số
bất cập hiện nay của pháp luật Việt Nam quy định về điều kiện thành lập một tổ
chức TCVM cũng như những quy định về quản trị điều hành tổ chức này và đề xuất
Thời điểm này tổ chức TCVM đầu tiên và duy nhất của Việt Nam là Tổ chức TCVM TNHH một thành viên
TYM mới khai trương hoạt động được một thời gian ngắn sau khi được cấp giấy phép vào 17/08/2010.
2
15
một số giải pháp khắc phục.
Năm 2013, Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật thực hiện một đề tài
nghiên cứu khoa học cấp cơ sở với tiêu đề: “Chế độ pháp lý về TCVM hiện nay”
[62]. Nghiên cứu này, về cơ bản đã tiến hành phân tích, đánh giá về sự phù hợp với
thực tiễn của các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về TCVM và đề xuất
các giải pháp khắc phục những bất cập.
Có thể thấy, các nghiên cứu đối với pháp luật về tổ chức TCVM ở Việt Nam
thường có đối tượng nghiên cứu là một nội dung nào đó của lĩnh vực pháp luật này
mà chưa có một nghiên cứu nào được thực hiện một cách hệ thống đối với tổng thể
các vấn đề liên quan đến tổ chức TCVM dưới góc độ pháp lý và vì vậy, một cái
nhìn toàn cảnh đối với pháp luật về tổ chức TCVM ở Việt Nam, cho đến nay là
chưa có.
1.1.3 Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Qua nghiên cứu các công trình nghiên cứu về TCVM ở cả trong nước và
ngoài nước, tác giả có một số nhận xét về các kết quả nghiên cứu như sau:
1.1.3.1. Những kết quả nghiên cứu mà luận án sẽ kế thừa và tiếp tục phát triển
Thứ nhất, đã làm rõ được một số khái niệm cần thiết như TCVM, tổ chức
TCVM theo thông lệ quốc tế. Đây là nội dung cực kỳ quan trọng để trên cơ sở đó,
luận án giải quyết các vấn đề tiếp theo.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu nêu trên (đặc biệt là các công trình
nghiên cứu ngoài nước) đã chứng minh sự xuất hiện và tồn tại của TCVM là thực
sự cần thiết và có những ý nghĩa rất lớn trong hoạt động làm giảm đói nghèo ở các
quốc gia, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. Đây thực sự là công cụ chống
đói nghèo hữu hiệu và quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, vì đa phần những nghiên cứu đã được thực hiện đều là những nghiên
cứu được thực hiện dưới góc độ kinh tế nên những nghiệp vụ mà TCVM thực hiện
đều được phân tích, đánh giá khá cụ thể và kỹ lưỡng. Những giải pháp để nâng cao
hiệu quả hoạt động của các nghiệp vụ này cũng đã được đưa ra. Điều này giúp cho
luận án có thêm cơ sở để đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về các tổ
chức TCVM ở Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, các nghiên cứu nêu trên đã chỉ ra được những thách thức mà TCVM
16
- Xem thêm -