ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------------
NGUYÊNTHINGOCGIAO
PHÁPLUẬTVỀMUABÁNCÔNGTYCÔPHÂNƠVIÊTNAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 603850
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cánbô hướng dẫn khoa học: TSPhanThiThanhThuy
ô
HÀNÔôI-2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------------
NGUYÊNTHINGOCGIAO
PHÁPLUẬTVỀMUABÁNCÔNGTYCÔPHÂNƠVIÊTNAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 603850
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cánbô hướng dẫn khoa học: TSPhanThiThanhThuy
ô
HÀNÔôI-2013
MỤC LỤC
Trangphubia
Lơicamđoan
Mụclục
Danhmuccactưviêttăt
MỞ
ĐẦU........................................................................................................
.......1
Chương1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝLUẬN CHUNG VỀ MUA BÁN
CÔNG TYCỔ PHẦN VÀ PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN CÔNG TY
CỔ PHẦN......................5
1.1 Lược sử về hoạt động mua bán công ty cổ
phần...........................................5
1.1.1 Hoạt động mua bán Công ty cổ phần trên thế
giới........................................5
1.2.2 Hoạt động mua bán Công ty cổ phầnở Việt
Nam........................................7
1.2 Khái niệm mua bán công ty cổ phần và bản chất pháp lý của hoạt
viêcmuabáncôngtycổphần....................................................................1
11.2.1 Kháiniệm mua bán công ty cổ
phần..........................................................11
1.2.2. Đặc trưng pháp lý của mua bán công ty cổ
phần........................................16
1.2.3. Mối quan hệ giữa mua bán công ty cổ phần với hợp nhất, sáp
nhập công ty, chuyển nhượng cổ phần và vấn đề kiểm soát tập trung
kinh tế....................20
1.3 Vai trò, ý nghĩa của hoạt động mua bán công ty cổ
phần............................24
1.3.1 Đối với các nhà đầu
tư...............................................................................25
1.3.2 Đối với Nhà
nước......................................................................................26
Chương 2:THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI
HÀNHPHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT
NAM.........27
2.1.
Tôngquanvêhêthôngvănbanphapluâtvêmuabancôngtycôphân..............
27
2.2 Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về mua bán CTCP
không có yếu tố nước ngoài và thực tiễn thi
hành......................................31
2.2.1 Các quy định pháp luật về phương thức, quy trình thủ tục mua
bán công ty cổ phần, các trường hợp hạn chế mua bán công ty cổ
phần...........................31
2.2.2. Các quy định pháp luật về kiểm soát tài chính trong hoạt động
mua bán công ty cổ
phần...................................................................................45
2.2.3. Hợp đồng mua bán công ty cổ
phần...........................................................53
2.2.4 Số phận pháp lý của người lao động trong hoạt động mua bán
công ty cổ
phần..................................................................................................61
2.3 Các quy định của pháp luật Việt Nam về mua bán CTCP có yếu tố
nước ngoài và thực tiễn thi
hành................................................................65
2.3.1 Các cam kết quốc tếcủa Việt Nam liên quan đến
M&A............................65
2.3.2 Quy trình, thủ tục thực hiện việc mua bán CTCP có yếu tố nước
ngoài..................72
2.4Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới xây dựng pháp luật điều
chỉnh hoạt động mua bán công ty cổ
phần..................................................77
2.4.1. Pháp luật Trung
Quốc................................................................................78
2.4.2. Pháp luật
Singapore...................................................................................80
2.4.3. Pháp luật Hoa
Kỳ.......................................................................................81
Chương 3:MÔôT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬTVỀ HOẠT ĐÔôNG MUA BÁN CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT
NAM...............................................................................................85
3.1 Sự cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật mua
bán CTCP ở Việt Nam hiện
nay.......................................................................85
3.2 Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam đối với hoạt động
mua bán Công ty cổ
phần............................................................................86
3.2.1. Đảm bảo tính phù hợp với điều kiện kinh tế và thực trạng hệ
thống pháp
luật....................................................................................................86
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật mua bán công ty ở Việt Nam nhằm đảm
bảo quyền tự do kinh doanh của chủ đầu
tư......................................................87
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật mua bán công ty ở Việt Nam nhằm đảm
bảo quyền lợi của các tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động mua
bán công ty.............89
3.3 Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật mua
bán CTCP ở Việt Nam hiện
nay..................................................................90
3.3.1. Banhànhcacquyđinhthốngnhấtđiềuchỉnh hoạt động mua bán
công ty.........90
3.3.2
MôtsôkiênnghinhămtăngcươnghiêuquacuahoatđôngM&Avakiêmsoatv
iêcthưchiênphapluâtM&A...................................................96
KÊTLUÂN.............................................................................................
............99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM
KHẢO.........................................................101
DANH MỤCCÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS2005:Bộ luật Dân sự 2005
CĐT : Chủđầutư
CTCP : Côngtycôphân
ĐHCĐ:Đạihộiđôngcổđông
HĐQT:Hội đồng quản trị
NLĐ: Ngươilaođông
LCT2004:Luật Cạnh tranh 2004
LCK2006: Luật Chứng khoán 2006
LDN2005:Luật Doanh nghiệp 2005
LĐT2005: Luật Đầu tư 2005
LTM2005: Luật Thương mại 2005
M&A: Sápnhậpvàmuabándoanhnghiệp
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tàiMua bán và sáp nhập doanh nghiệp
-Mergers and Acquisitions –(viêttắtlàM&A) là một phần tất yếu của
bất cứ nền kinh tế lành mạnh nào. Quan trọng hơn, đó là cách thức
chủ yếu để các doanh nghiệp cơ cấu lại, mở rộng và phát triển hoạt
động kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của mình và đem lại
thu nhập cho chủ sở hữu và các nhà đầu tư. Hoạt động M&A đã diễn
ra khá lâu trên thế giới. TạiViêtNam M&A đã được quan tâm kể từ
khi chúng ta ban hành Luật Doanh nghiệp 1999, nhưng phải sau khi
có Luật doanh nghiệp năm 2005, hoạt động M&A mới thực sự có
những bước phát triển. Khoảng3 nămgânđây,
hoạtđộngM&ADoanhnghiệptrơnênđươcquantâmnhiêuơViêtNam. Có
thể nói những khó khăn của nền kinh tế trong nửa đầu năm 2008 như
lạm phát tăng cao, nhập siêu tăng mạnh, cuộc chạy đua lãi suất huy
động, nhiều dựán bất động sản và phát triển hạ tầng bị đình trệ, hoạt
động IPO (Initial Public Offering –phát hành cổ phiếu lần đầu) tạm
gián đoạn... cộng với lộ trình thực hiện cam kết WTO là những yếu tố
thúc đẩy hoạt động M&ATrong giai đoạn hiện nay, hoạt động M&A
ngày càng sôi động bởi do hậu quả cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới,
nhiều doanh nghiệp đã không thể tồn tại độc lập. Một bộ phận các
doanh nghiệp chọn con đường phá sản.
Mộtbộphậnkhácchọncachtáicơcấuđểcó thể trụ vững qua thời kỳ khủng
hoảngnhằm mong muốn phát triển lên. M&A là một trong những công
cụ tái cơ cấu hiệu quả nhất được nhiều doanh nghiệp lựa chọn.
M&Ađươcxemlamôtgiaiphaphuyđôngvôntichcưcchodoanhnghiêpđôn
gthơinócungđươcxemlachiênlươcnhằmpháttriểndoanhnghiệplêntầmca
omới. Hiện tại ở Việt Nam đãcónhiều thương vụ
M&AđượcthựchiệnvơigiatrigiaodichlênđếnhàngtrămtriệuđôlaMỹ,
khiênM&Aluônlatâmđiêmchuycuagiơiđâutư.Hoạt động M&A tại
ViêtNamVNđangtrởnênsôiđộngnhưngtrênthựctếchưa có văn bản pháp
lý nào định nghĩa cụ thể về vấn đề này. Hiện nay các doanh nghiệp
Việt Nam khi thực hiện M&A chỉ dựa trên khung pháp lý dành cho cổ
phần hoá, phát hành và niêm yết chứng khoán, Luật Doanh nghiệp
2005 (LDN 2005), Luật đầu tư (LĐT2005), Luật cạnh tranh
(LCT2004)và Luật chứng khoán (LCK2006), chưa có sự chuyên biệt
về vấn đề này. Chính vì sự mâu thuẫn giữa việc thiếu hụt các quy định
pháp lý và nhu cầumạnh mẽ trong việc thực hiện các hoạt động M&A
trong bối cảnh của nền kinh tế nước ta, việc phân tích các quy định
của pháp luật kinh doanh (PLKD) hiện hành về M&A, tìm ra các ưu
điểm và hạn chế của pháp luật và đưa ra các đề xuất và kiến nghị để
xây dựng và hoàn thiện pháp luậtvề M&A đang trở thành một vấn đề
cấp thiết cần phải quan tâm và điều chỉnh. Từ sự đòi hỏi cấp thiết này
tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Pháp luật về mua bánCTCP ở
Việt Nam”để làm luận văn Thạc sỹ. Sở dĩ công tycôphânCTCPđược
chọn làm đối tượng nhiên cứu của luận vănbởi đây là mô hình doanh
nghiệp phổ biến và được ưa chuộng nhất hiện nay, không chỉ ở Việt
Nam mà còn trên toàn thế giới.
2. Tình hình nghiên cứu của Đề tàiHoạt động M&A đang ngày càng
phát triển mạnh mẽ, điều đó đã tạo ra sức hút mạnh mẽ cho các nhà
nghiên cứu, những chuyên gia kinh tế pháp lý đã tiến hành nghiên
cứu, tìm hiểu và đưa ra nhiều đề tài khoa học có giá trị. Đó là: Luận
văn Thạc sỹ “Thâu tóm-Hợp nhất doanh nghiệp dưới góc nhìn tài
chính”của Thạc sỹ Huỳnh Thị Cẩm Hà; Luận văn thạc sỹ "Pháp luật
về mua bán công ty ở Việt Nam-Thực trạng và giải pháp” của Thạc sỹ
Vũ Phương Đông; Luận văn thạc sỹ “Hợp đồng mua bán doanh
nghiệp theo pháp luật Việt Nam” của thạc sỹ Mai Vân Anh; bài viết
“Một số vấn đề về sáp nhập, mua lại doanh nghiệp và tình hình Việt
Nam”của PGS.TS Nguyễn Thường Lạng và Nguyễn Thị Quỳnh Thư;
bài viết “Điều kiện xây dựng, phát triển thị trường mua bán và sáp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam”của ThS. Bùi ThanhLam đăng trên
tạp chí Luật học số 4/2008; bài viết “ Thực trạng pháp luật về mua
bán doanh nghiệp”của ThS. Trần Bảo Ánh đăng trên tạp chí Luật học
tạp chí Luật học số 5/2008;bài viết “Hợp đồng mua bán doanh
nghiệp”trong cuốn Pháp luật về Hợp đồng trong thương mại và đầu
tư, NXB Chính trị Quốc gia do TS. Nguyễn Thị Dung (chủ biên);bài
nghiên cứu "Thâu tóm và hợp nhất từ khía cạnh quản trị công ty: lý
luận, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam" của Nguyễn
Đình Cung và Lưu Minh Đức và một số tác giả
3khác. Tuy nhiên, những đề tài nghiên cứu về hoạt động mua bán
Doanh nghiệp này chủ yếu xem xét hoạt động mua bán doanh nghiệp
trong các yếu tố của tư duy kinh tế, trên phương diện tài chính cùng
và một số nội dung pháp lý liên quan; nghiên cứucủa Thạc sỹ Vũ
Phương Đông chỉ dừng lại ở việc mua bán các công ty nói chung,
chưa chuyên biệt cụ thể một loại hình công ty nào, Luận văn của thạc
sỹ Mai Vân Anh chỉ tìm hiểukhía cạnh pháp lý về Hợp đồng.Cho đến
naychưa có một công trình nào thực sự đi sâu vào tìm hiểu những vấn
đề pháp lý về việc mua bán Công ty cổ phần một cách toàn diện và
mang tính hệ thống nhằm đưa ra những đề xuất mang tính chất pháp
lý nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật M&A ở Việt Nam. Rõràng là
những khoảng trống pháp lý này cần phải được bổ sung và hoàn chỉnh
để tạo ra môi trường pháp lý phù hợp để bảo hộthúc đẩy một các hiểu
quả các hoạt động M&A đang và sẽ diễn ra trong nền kinh tế.
3. Mục đích nghiên cứuLuận văn được viết trong thời điểm mà những
quan niệm, những quy định về mua bán công ty ở cổ phần ở Việt Nam
vẫn còn rất hạn chế, tản mát và chưa có hệ thống. Vì vậy, mục tiêu
của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn của pháp luật về hoạt động mua bán doanh nghiệp, phân tích vai
trò của hoạt động mua bán CTCP trong hoạt động kinh tế, từ đó đưa
ra những giải phápvề mặt pháp lý nhằm hoàn tiện hệ thống pháp luật
điều chỉnh quan hệ kinh tế còn rất mới mẻ này.Để thực hiện được mục
đích đó, nhiệm vụ đặt ra cho Luận văn là:-Làm rõ bản chất pháp lý
của hoạt động mua bán CTCP;-Phân tích vai trò của hoạt động mua
bán CTCP đối với quá trình vận động, phát triển của nền kinh tế;Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của hoạt động mua bán
CTCP trên thế giới và ở Việt Nam;-Nghiên cứu các quy định pháp
luật hiện hành về hoạt động mua bán CTCP nhằm làm rõ cơ sởlý luận
về mua bán công ty ở Việt Nam;-Từ những nghiên cứu, phân tích
trên, đưa ra những nhận định và giải pháp pháp lý để hoàn thiện chế
định về hoạt động mua bán CTCP ở Việt Nam nói riêng, góp phần
hoàn thiện hệ thống pháp luật về mua bán doanh nghiệpở Việt Nam
nói chung.
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu+ Đối tượng: Đối tượng nghiên
cứu của luận văn là các quy định của pháp luật hiện hành về mua bán
CTCP, thực tiễn thi hành pháp luật ở Việt Namtrong sự phân tích và
so sánh với pháp luật về M&A của một số quốc gia trên thế giới.+
Phạm vi nghiên cứu: Với đề tài “Pháp luật về mua bán CTCP ở Việt
Nam”,tác giả luận văn chỉ tập trung nghiên cứu và làm rõ những vấn
đề pháp lý liên quan đến hoạt động mua bán các loại hình CTCP ở
trong và ngoài nướcCụm từ “công ty”được nhắc đến trong luận văn
này là chỉ đến Công ty cổ phần
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứuLuận văn được thực hiện
trên nền tảng lý luận là các nguyên tắc và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong quá trình thực
hiện luận văn, tác giả có kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên
cứu: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; phương pháp phân tích, đối
chiếu, so sánh, tổng hợp, thống kê, khái quát hoá để giải quyết nội
dung khoa học của đề tài. Đặc biệt, luận văn rất chú trọng các phương
pháp phân tích và so sánh luật; kết hợp giữa lý luận
vớithựctiễnđêrútracácnhậnxét, kết luận, làm sáng tỏ các vấn đề bất
cập của pháp luật hiện hành, trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị phù
hợp.
6. Kết cấu của luận vănKết cấu của luận văn được xây dựng phù hợp
với mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu. Ngoài lời nói đầu,
mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về mua bán CTCP và pháp
luật về mua bán công ty cổ phần
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hànhpháp luật về mua
bán CTCP ở Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghịnhằm hoàn thiện pháp luật về mua bán
CTCP ở Việt Nam.
Chương1NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MUA BÁN
CÔNG TYCỔ PHẦN VÀ PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN CÔNG TY
CỔ PHẦN
Tại chương 1, tác giả tập trung làm rõ các vấn đề lý luận chung về
mua bán công ty cổ phần như lịch sử của hoạt độngnày trên thế giới
và Việt Nam, các khái niệm cơ bản và vai trò, ý nghĩa của hoạt động
mua bán công ty cổ phần
1.1 Lược sử về hoạt động mua bán công ty cổ phần
1.1.1 Hoạt đô ông mua bán Công ty cổ phần trên thế giớiNhững năm
cuối của thế kỉ thứ XIX và đầu thế kỉ XX, khi số lượng công ty trên
thế giới tăng mạnh, cũng là lúc hoạt động cạnh tranh diễn ra khốc liệt.
Rất nhiều công ty phát triển mạnh mẽ trong một thời gian, tạo dựng
được thương hiệu, xây dựng cơsở kinh doanh hoàn chỉnh, nhưng
không kịp đổi mới hoặc do những thay đổi bất ngờ của tình hình kinh
tế dẫn đến tình trạng kiệt quệ về mặt tài chính. Đúng vào thời điểm
này nhu cầu về việc mua bán công ty, nhu cầu về sáp nhập các công ty
được hình thành và từ đóđến nay trên thế giới xuất hiện 5 làn sóng
vềmua bán công ty.[22]Làn sóng thứ nhất những năm 1897-1904:
Làn sóng này được coi là khởi đầu của hoạt động mua bán công ty
trên thế giới, do quá trình bùng nổ nhanh chóng của nền kinh tế, hệ
thống giao thông được nâng lên một tầng cao mới, hệ thống vănbản
pháp luật về công ty được quy định đầy đủ. Trong thời gian này chủ
yếu các hoạt động mua bán diễn ra giữa các công ty phát triển công
nghiệp nặng vì vậy số lượng các vụ mua bán còn rất hạn chế. Tuy
nhiên đợt sóng này chấm dứt nhanh chóng do khủng hoảng kinh tế
những năm 1903 và sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm
1904.Làn sóng thứ hai những năm 1916-1929:Làn sóng này được
khởi tạo từ sự bùng nổ của kinh tế thế giới sau chiến tranh thế giới lần
thứ nhất, nhu cầu về các mặt hàng nhu yếu phẩm tăng mạnh tạo
đàthuận lợi cho các công ty phát triển mạnh mẽ và cạnh tranh trên thị
trường, sự phát triển về khoa học công nghệ cũng tạo điều kiện thuận
lợi cho các công ty tăng năng suất lao động cải tiến chất lượng hàng
hóa. Hàng loạt các vụ mua bán diễn ra trong các lĩnh vực luyện kim,
hóa dầu, thuốc, và phương tiện vận chuyển, với sự tham gia của một
số ngân hàng đầu tưtrong những thương vụ này. Làn sóng thứ hai
chấm dứt sau đại khủng hoảng kinh tế khởi nguồn từ sự sụp đổ của thị
trường chứng khoán ngày 29-10-1929.Làn sóng thứ ba là những năm
60 của thế kỉ XX:Kinh tế thế giới lại trải qua một thời kì phát triển
mạnh sau đại chiến thế giới lần thứ 2, thị trường chứng khoán trở lại
cùng với đólà sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, sự lớn mạnh không
ngừng củacác tập đoàn tài chính tạo đàcho các cuộc mua bán diễn ra
sôi nổi trong thời kì này.Làn sóng thứ tưlà những năm 80 của thế kỉ
XX:Thế giới bắt đầu xuất hiện những nền kinh tế mới bên cạnh Mỹ và
các nước Châu Âu như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore v.v, tạo ra sự
cạnh tranh mạnh mẽ trên toàn cầu. Rất nhiều đổi mới được diễn ra
trong các lĩnh vực về tài chính, ngân hàng kèm theo đólà sự sụp đổ
của các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới tạo cơsở cho nhiều hoạt
động mua bán công ty được diễn ra. Tuy nhiên trong giai đoạn này
các yếu tố bổ trợ chưa đủ mạnh để đẩy hoạt động mua bán công ty
thực sự phát triển tương xứng với tình hình của nền kinh tế khi đó.Làn
sóng thứ năm từ năm 1992 đến nay:Đây là thời điểm để các hoạt động
mua bán diễn công ty ra sôi nổi, đa dạng về cách thức cũng nhưgiá trị.
Từ năm 1995 trở đi, không năm nào số lượng các vụ giao dịch xuống
dưới con số 15.000 vụ, đặc biệt là năm 2000: số lượng giao dịch là
35.000 vụ với tổng giá trị lên tới 3.500 tỷ USD, và năm 2007 với
30.000 vụ tương ứnggiá trị là 4.000 tỷ USD. Trong số đócó rất nhiều
thương vụ có giá trị lớn như: Vodaphone Airtouch PLC mua lại
Mannesmann năm 1999 với trị giá 183 tỷ USD; American Online Inc
(AOL) mua lại Time Warner với trị giá 165 tỷ vào năm 2000.
[43]M&A trên thế giới đãtồn tại từ rất lâu đời, có lịch sử hàng trăm
năm và được biểu hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau. Hiện nay,
hoạt động mua bán công ty đang trở thành một vấn đề nóng hổi trong
hoạt động kinh tế của thế giới đặc biệt là thị trường tài chính. Năm
2008 chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, bắt đầu từ hoạt
động cho vay thế chấp dưới chuẩn của Mỹ. Sự sụp đổ mang tính chất
dây chuyền của các tập đoàn tài chính hàng đầu ở Mỹ đãđẩy nền kinh
tế mạnh nhất thế giới vào một cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng,
ngay lập tức lan rộng sang Châu Âu, Châu Ávà giờ đây ảnh hưởng
của nó đãbao trùm toàn thế giới. Thời điêmnayrâtthuânlợi cho các
công ty, tập đoàn lớn trên thế giới tiến hành các thương vụ mua bán
công ty để tái cơcấu lại cấu trúc của công ty mình nhằm vượt qua khó
khăn của khủng hoảng kinh tế.1.2.2 Hoạt đô ông mua bán Công ty cổ
phần ở Việt NamTheo báo cáo thường niên năm 2009 về hoạt động
mua bán công ty tại Việt Nam của công ty kiểm toán Pricewaterhouse
Coopers, hoạt động mua bán công ty của Việt Nam tuy mới ở giai
đoạn đầu của quá trình hình thành nhưng lại đang nhận được sự quan
tâm của các nhà đầu tưtrong và ngoài nước, bất chấp những khó khăn
về tài chính do cuộc khung hoảng tài chính toàn cầu gây ra.[57] Hoạt
động mua bán công ty tiếp tục được duy trì và tăng về số
lượngcungnhưgiátrịgiaodịchcũngnhưng đa dạng về cách thức thực
hiện.Trên thực tế, ở Việt Nam, hoạt động mua bán công ty bắt đầu
xuất hiện từ năm 2000 và tăng dần theo từng năm. Bắt đầu từ việc
Công ty Colgate (Mỹ) mua thương hiệu kem đánh răng Dạ Lanvới
giá 3 triệu USD. Sau Dạ Lan, Tập đoàn Unilevercủa Mỹ mua thương
hiệu kem đánh răngP/S của Công ty Hóa mỹ phẩm Phong Lan với giá
5 triệu đô.Năm 2003, có 41 thương vụ với giá trị 118 triệu USD[58];
đến năm 2008 con số là 146 vụ tương ứng với 1.009 triệu USD. Trong
đósố đócó những thương vụ nổi bật như: Savico mua lại khách sạn
Furama 16 triệu USD tháng 11 năm 2005; Kinh Đômua thương
hiệu kem Wall và đang tiến hành mua hãng nước giải khát Tribeco;
Holcim mua lại Cotec Cement với giá 50 triệu USD tháng 8 năm
2008; Quantas mua lại 18% sau đólà 31% và hiện nay là 49% cổ phần
của hãng hàng không giá rẻ Jetstar Pacific; VRI mua lại Tiberon với
giá 230 triệu USD.[16]. Hoạt động mua bán công tyđược tiến hành
trên nhiều lĩnh vực trong đótậptrungvàocaclinhvực: ngân hàng, chứng
khoán, sản xuất hàng tiêu dùng, buôn bán lẻ, dược phẩm;
kiểmtoánvacôngnghệthôngtin(i) Lĩnh vực ngân hàng: Hoạt động mua
lại các ngân hàng ở Việt Nam được thực hiện từ những năm cuối của
thế kỉ trước, trong giai đoạn Việt Nam chuẩn bị những bước đàđể hội
nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế thế giới. Hoạt động mua lại và tiến
hành sáp nhập của các Ngân hàng Việt Nam được chia thành 2 giai
đoạn:Giai đoạn 1, trước năm 2006, trong quá trình tiến hành triển khai
dự án “Chấn chỉnh và sắp xếp các Ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Nam” do Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt (Quyết định số
212/1999/QĐ-TTg ngày 29/10/1999) đãcó nhiều Ngân hàng Thương
mại cổ phần nông thôn bị tiến hành mua lại để thành lập các Ngân
hàng Thương mại cổ phần có quy mô vốn và địa bàn hoạt động rộng
lớn hơn. TiêubiêulaviêcNgânhàngThương mại cổ phần Phương Nam
tiến hành mua lại và sáp nhập với: Ngân hàng Thương mại cổ phần
Đồng Tháp, Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Nam, Ngân hàng
Thương mại cổ phần Nông thôn Châu Phú-An Giang, Ngân hàng
Thương mại cổ phần Cái Sắn-Cần Thơ.Giai đoạn 2, từ năm 2006 đến
nay, giai đoạn này chứng kiến làn sóng đầu tưcủa các tập đoàn tài
chính, các ngân hàng quốc tế vào Việt Nam thông qua hoạt động
mua bán. Hiện nay mức sở hữu tối đa của một nhà đầu tưchiến lược
nước ngoài trong một Ngân hàng thương mại cổ phần là không quá
15% (Nghị định 69/2007/NĐ-CP "Về việc nhà đầu tưnước ngoài mua
cổ phần của Ngân hàng thương mại Việt Nam"
củaChínhphủbanhànhngày20/4/2007), trừ trường hợp đặc biệt vào
tháng 8 năm 2008, được sự chấp thuận của Thủ tướng, HSBC đãnắm
giữ 20% tổng số vốn điều lệ của Ngân hàng Kỹ Thương
(Techcombank). Các tập đoàn nhà nước Việt Nam hiện nay cũng
đang nắm giữ một tỷ lệ vốn khá lớn trong các Ngân hàng Thương
mại, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nắm giữ 30% vốn điều lệ
của Ngân hàng An Bình; Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) nắm giữ
20% vốn điều lệ của Ngân hàng dầu khí toàn cầu (GP bank) và 20%
vốn điều lệ của Ngân hàng Đại Dương (Ocean bank), hay gần đây
nhất là việc Eximbank đãmua lại 9,73% vốn điều lệ củaSacombank và
là cổ đông đại diện ủy quyền đạt 51%.Hiện nay số lượng Ngân hàng ở
Việt Nam là tương đối nhiều (36 Ngân hàng thương mại cổ phần và 6
Ngân hàng liên doanh) so với quy mô dân số (khoảng 85 triệu người)
và GDP là 122 tỷ USD (năm 2011) [69]. Trong khi đóHàn Quốc
với GDP gấp khoảng 10 lần Việt Nam (857 tỷ USD, năm 2008) chỉ có
20 Ngân hàng. Vì vậy xu hướng trong tương lai sắp tới, số lượng các
Ngân hàng tại Việt Nam phải giảm xuống cho phù hợp vì vậy nhiều
Ngân hàng có quy mô vốn nhỏ, có khả năng quản trị yếu, sẽ bị mua
lại bởi các nhà đầu tưtrong và ngoài nước. Số lượng ngân hàng dự
định sẽ giảm 30%-40% trong một vài năm tới đây.[16](ii) Lĩnh vực
phân phối bán lẻ: Từ ngày 01/01/2009, theo cam kết hội nhập WTO,
Việt Nam đãcho phép các nhà đầu tưnước ngoài tiến hành hình thức
đầu tư100% vốn nước ngoài trên thị trường bán lẻ mở ra điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tưtrong quá trình tiến hành kinh doanh tại
Việt Nam. Hãng bán lẻ nổi tiếng Dairy Farm (Hongkong) mua lại 6
chuỗi siêu thị Citimart của Công ty Đông Hưng. Lotte mua lại 35,6%
vốn điều lệ của Bibica và cử
đạidiệngiữchứcchủtịchHôiđôngquantri(HĐQT) và kiểm soát công ty
này. Đối với các nhà phân phối bán lẻ Việt Nam đi đầu là Kinh Đô,
sau khi mua lại dây chuyền sản xuất Kem Wall từ Unilevers Bestfood.
Trong thời gian sắp tới, Việt Nam sẽ đón nhận nhiều nguồn vốn đầu
tưvào hoạt động bán lẻ của các tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới
nhưWall Mart, Bestbuy, H&M, v.vv.. và cách thức mà các nhà đầu
tưnày sẽ ưu tiên lựa chọn là thông qua con đường mua bán công ty.
Lĩnh vực phân phối bán lẻ là lĩnh vực có nhiều tiềm năng nhất để đón
nhận nguồn vốn đầu tư.[16](iii) Trong lĩnh vực chứng khoán: Cùng
với sự phát triển nóng của thị trường chứng khoán Việt Nam trong
những năm vừa qua, số lượng các công ty chứng khoán được thành
lập với tốc độ nhanh chóng nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu
tưtham gia vào một loại thị trường còn mới mẻ này. Tuy nhiên với
105 công ty chứng khoán đang hoạt động (tính đến thời điểm tháng
9/2009) trong đósố công ty có vốn điều lệ dưới 300 tỷ chiến gần 80%
điều này tạo ra rủi ro rất lớn cho các nhà đầu tưnói riêng và thị trường
chứng khoán nói chung. Hiện nay, Việt Nam chỉ cho phép các nhà
đầu tưnước ngoài được nắm giữ 49% vốn điều lệ của các công ty
chứng khoán và trong tương lai trung hạn, sẽ diễn quá trình mua lại
hoặc thôn tính các công ty chứng khoán không có tiềm lực tài chính
(không có các công ty tài chính, tập đoàn nhà nước hỗ trợ). Và số
lượng các công ty chứng khoán sẽ giảm 50%-60% sau quá trình mua
bán và thôn tính công ty.[16](iv) Trong lĩnh vực dược phẩm và kiểm
toán:Đặc điểm trung của hai lĩnh vực này ở Việt Nam đólà có sự tham
gia đông đảo của các công ty, tuy nhiên, hầu hết các công ty hoạt
động trong hai lĩnh vực này đều không đáp ứng được nhu cầu về vốn
và quy mô sản xuất theo tiêu chuẩn mà thế giới và Việt Nam ban
hành.Trong ngành dược phẩm, các công ty sản xuất thuốc tại Việt
Nam chủ yếu sản xuất các loại thuốc thông thường mà chưa sản xuất
được các loại thuốc đặc trị, nhiều công ty chưa đảm bảo được tiêu
chuẩn GMP của WHO. Năm 2006, Việt Nam bắt đầu tiếp nhận các
nguồn vốn đầu tưnước ngoài vào Việt Nam trong lĩnh vực dược phẩm
và tiếp tục tăng hàng năm.Trong ngành kiểm toán, hiện nay có 146
công ty kiểm toán (tính đến hết năm 2008) đang hoạt động trên thị
trường kiểm toán Việt Nam nhưng chỉ có 26 công ty được phép kiểm
toán cho các công ty đại chúng (loại hình công ty cần kiểm toán nhất,
và chiếm thị phần chủ yếu về nhu cầu kiểm toán). Hiện nay các công
ty kiểm toán nhỏ đang rất khó khăn trong việc tìm kiếm cơhội việc
làm do thiếu kiểm toán viên, thiếu uy tín và thiếu vốn.Xu hướng của
hai lĩnh vực này trong những năm tới đây sẽ xảy ra nhiều vụ M&A để
tiến hành đầu tưvào một thị trường mới (lĩnh vực dược phẩm) hoặc để
thay đổi quy mô và chất lượng dịch vụ (đối với kiểm toán), quá trình
diễn ra hoạt động M&A hứa hẹn sẽ có sự tham gia tích cực của các
NĐTnước ngoài.[16]Tiêukêt:Từ việc nghiên cứu thực tiễn hoạt động
mua bán công ty tại một số lĩnh vực ngành nghề quan trọng,
tácgiảnhậnthấyhoạtđông M&A
ởViêtNamcomôtsôtinhchâtchungnhưsau:Một là,hoạt động M&A ở
Việt Nam vẫn đang ở thời kì đầu của quá trình hình thành, các giao
dịch chủ yếu có giá trị thấp, các giao dịch có giá trị lớn diễn ra với số
lượng ít và chủ yếu do các thương nhân, NĐTnước ngoài thực hiện.
Hoạt động M&A trước năm 2005 chỉ diễn ra nhỏ lẻ, tự phát, sau năm
2005 mới tập trung hơn và có quy mô hơn nhờ sự ra đời của LDN
2005 và LCK 2006.
Hai là,hoạt động M&A vẫn còn ở mức độ đơn giản chỉ đơn thuần là
việc mua lại tài sản của công ty, hình thức mua lại chủ yếu là thân
thiện (friendly) mà chưa cónhiều hình thức để các chủ thể kinh doanh
lựa chọn, đặc biệt là hình thức mua lại mang tính chất thôn tính đối
thủ rất phổ biến trên thế giới.Ba là,trong nhiều trường hợp, hoạt động
mua bán công ty mới chỉ dừng lại ở việc mua cổ phần để đầu tưtài
chính, trở thành cổ đông chiến lược do còn nhiều ngành nghề mà Việt
Nam còn giới hạn cho các nhà đầu tư.
1.2 Khái niệm mua bán công ty cổ phần và bản chất pháp lý của hoạt
viêcmuabáncôngtycổphần
1.2.1Khái niệm mua bán công ty cổ phầnTheo từ điển báchkhoa Việt
Nam “Mua bán là hành vi trao đổi giữa người mua hàng nhận được
quyền sở hữu hàng hóa từ người bán bằng cách trả một số tiền theo sự
thỏa thuận về giá cả của hai bên”.[61]Trong khoa học pháp lý, thuật
ngữ “mua bán” thường được sử dụng với thuật ngữ “tài sản” trong
dân sự, hoặc “hàng hóa” trong thương mại, thuật ngữ “Mua bán công
ty” vẫn còn rất mới mẻ trong hệ thống pháp luật của Việt Nam vì đối
tượng của hoạt động mua bán là "công ty cổ phần" –“tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh.”.[38], là một pháp nhân độc lập có quyền nhân danh
mình để tham gia các giao dịch.Pháp luật nước ngoài sử dụng nhiều
thuật ngữ liên quan đến hoạt động mua bán công ty như M&A
(Mergers and Acquisitions), Takeovers, Buyout, v.v...Các thuật ngữ
này cho ta những hình dung cơ bản về hoạt động mua bán công ty
theo pháp luật nước ngoài.Mergers and Acquisitions là thuật ngữ được
ghép từ “Mergers” có nghĩa là sáp nhập và “Acquisitions” là mua lại.
Trong đó:Mergers-Sáp nhậplà sự kết hợp của hai hay nhiều công ty
với nhau, cùng nhau thỏa thuận về tài sản, phân chia thị trường,
thương hiệu và thành lập một công ty duy nhất với quy mô lớn hơn.
Sáp nhập được chia thành nhiều loại:(i) Sáp nhập theo chiều ngang
(Horizontal Mergers) là cuộc sáp nhập giữacác công ty là đối thủ
cạnh tranh của nhau hoặc những công ty trên cùng một thị trường liên
quan hoặc hoạt động cùng nhau trên những khâu trong quátrình sản
xuất. Ví dụ như GM motors của Mỹ sáp nhập vơi Deawoo của Hàn
Quốc trở thành GM Deawoo.(ii) Sáp nhập theo chiều dọc (Vertical
Mergers) là cuộc sáp nhập giữa các công ty hoạt động trong các khâu
khác nhau của cùng một lĩnh vực, trên cùng một chuỗi giá trị để mở
rộng hình thức và khả năng kinh doanh của nhà đầu tư. Ví dụ như một
công ty sản xuất hàng may mặc sáp nhập với một công ty có chuỗi
cửa hàng bán quần áo.(iii) Sáp nhập kết hợp (Conglomerate Mergers)
là cuộc sáp nhập giữa các công ty hoạt động trên những lĩnh vực hoàn
toàn khác nhau. Hình thức này giúp cho các NĐT giảm thiểu rủi ro
trong kinh doanh thông qua việc đa dạng hóa hình thức và sản phẩm
kinh doanh, mở rộng hoạt động kinh doanh về mặt địa lý.Acquisitions
(hay Takeovers)-Mua lạilà hoạt động của một doanh nghiệp khi
muốn nắm giữ hoặc tìm cách kiểm soát hoạt động của một công ty
khác thông qua việc mua một phần tài sản hoặc cổ phần chi phối đủ
để khống chế toàn bộ hoạt động của công ty mục tiêu. Hoạt động mua
lại cũng được chia thành nhiều loại:(i) Mua lại “thân thiện”-Friendly
Hostile-là hình thức công ty mua đưa ra một đề nghị mua lại công ty
bị mua, chủ sở hữu công ty bị mua sau khi nhận đề nghị tiến hành họp
và đưa ra quyết định bán công ty. Hợp đồng được kí kết và hai bên
nhanh chóng thanh lý hợp đồng và tiến hành các thủ tục tiếp theo.(ii)
Mua lại “thôn tính”-Hostile Takeovers-là hình thức công ty mua tiến
hành nhiều biện pháp để thực hiện việc mua lại khi công ty bị mua từ
chối đề nghị mua của công ty mua lại theo hình thức mua lại “thân
thiện”. Các biện pháp đó có thể là chào mua với giá trị cao hơn giá trị
trên thị trường rất nhiều (tender offer); lôi kéo các cổ đông không hài
lòng với cách thức tổ chức quản lý hiện hành của công ty (proxy
fights); thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, mua lại tài sản
của công ty v.v.. Việc Công ty Colgate (Mỹ) mua thương hiệu kem
đánh răng Dạ Lanlà một ví dụ điển hình cho kiểu mua bán này.(iii)
Mua lại "ngược" -Reverse Takeover-là hình thức một công ty tư nhân
mua lại toàn bộ một công ty đại chúng, hình thức này mang lại cho
công ty tư nhân cơ hội trở thành công ty đại chúng mà có thể bỏ qua
nhiều giai đoạn phức tạp (thẩm định, IPO, v.v..). Tuy nhiên, hình thức
mua bán này rất phức tạp và thường được thực hiện thông qua các
"Shell corporation" (những công ty được thành lập tại những "thiên
đường" thuế).Hai thuật ngữ Mergers và Acquisition khi để độc lập
mang những ý nghĩa và cách thức tiến hành hoàn toàn khác nhau tuy
nhiên trên thế giới vẫn thường sử dụng hai thuật ngữ này chung thành
cụm từ M&A vì trong nhiều trường hợp mua lại sẽ dẫn đến kết quả
cuối cùng là sự sáp nhập của một công ty vào một công ty khác.Tại
Việt Nam, việc mua bán công ty cổ phần chủ yếu dưới dạng “thân
thiện”-Friendly Hostile, chỉ một số ít là mua lại theo kiểu “thôn tính”Hostile Takeovers. Còn việc mua lại "ngược" -Reverse Takeover thì
hầu như chưa diễn ra.Dưới góc độ pháp lý, ởViệtNamhiệnnay, quan
niệm về "Mua bán công ty" chưa có sự thống nhất và được ghi nhận
trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, cụ thể:-Nghị định
số 109/2008/NĐ-CP củaChínhPhủbanhànhngày10/10/2008 về bán,
giao doanh nghiệp 100% vốn nhà nước quy định “Bán doanh nghiệp
là việc chuyển sở hữu có thu tiền toàn bộ doanh nghiệp hoặc bộ phận
doanh nghiệp sang sở hữu tập thể, cá nhân hoặc pháp nhân”(khoản 1
điều 3). Định nghĩa này cho phép xác định bản chất của quan hệ
M&A và chuyển quyền sở hữu có thu tiền và đối tượng của quan hệ
mua bán là một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp-LDN 2005 không
định nghĩa về mua bán doanh nghiệp hay mua bán công ty. Ngoài quy
định về bán doanh nghiệp tư nhân, LDN 2005 chỉ quy định về mua
bán, chuyển nhượng cổ phần.-Theo LCT 2004 “Mua lại doanh nghiệp
là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của
doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành
nghề của doanh nghiệp bị mua lại”(Khoản 3, Điều 17). Theo quy định
này, mua bán doanh nghiệp là việc mua tài sản của doanh nghiệp tuy
nhiên việc mua này lại mang đến cho bên mua quyền kiểm soát, chi
phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua. Do mục
tiêu của hoạt động M&A là mục tiêu kiểm soát hoạt động công ty,
việc mua bán không chỉ diễn ra đơn thuần với việc mua bán tài sản
thông thường mà phải thỏa thuận mua bán các yếu tố liên quan đến
thương hiệu, tên thương mại, lợi thế kinh doanh, nhãn hiệu hàng hóa,
hệ thống nhân sự, hệ thống khách hàng và những vấn đề có liên quan
khác [20, tr. 279,280]Theo quan điểm của LCT 2004, “Mua lại doanh
nghiệp”gắn liền với hoạt động mua tài sản của doanh nghiệp nhằm
nắm quyền kiểm soát chi phối doanh nghiệp đó. Nhưng trên thực tế,
việc mua cổ phần đến một mức nhất định cũng tạo điều kiện cho
người mua kiểm soát và chi phối hoạt động của công ty. Việc mua cổ
phần hoàn toàn khác với việc mua tài sản của công ty theo Luật Cạnh
tranh vì nếu hoạt động mua tài sản của công ty thì bên bán là công ty,
nhưng chủ thể tham gia ký kết hợp đồng mua bán cổ phần là cổ đông
với bên mua. Bên mua sẽ trở thành cổ đông của công ty và tham gia
hoạt động quản lý công ty. Nhưng việc mua bán cổ phần, bên mua
không phải lúc nào cũng nhằm mục đích tham gia vào quản hoạt động
quản trị công ty, hay nhằm kiểm soát chi phối hoạt động công ty mà
có thể chỉ là một hành vi đầu tư thông thường. Đây chính là điểm
vướng mắc trong hệ thốngpháp luật Việt Nam về mua bán công ty.Rõ
- Xem thêm -