BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Chủ nghĩa xã hội
:
CNXII
2. Doanh nghiệp nhà nước
:
DNNN
3. Doanh nghiệp tư nhân
:
DNTN
4. Trách nhiệm hữu hạn
:
TNHH
5. Doanh nghiệp vừa và nhỏ
:
DNVVN
6. Hội đồng quản trị
:
HĐQT
7. Ưỳ ban nhân dân
:
UBND
MỤC LỤC
■
»
PHẨN MỎ Đ Ẩ U ..................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đé tài.................................................................................................1
2. Tình hình nghiên c ứ u ................................................................................................2
3. Mục đích và phạm vi nghiên c ứ u ..............................................................................3
4. Cư sở lý luận và phương pháp nghiên cứu............................................................... 4
5. Những đóng góp mới vé mặt khoa học của Luận v ă n ............................................ 4
6. Kết cấu Luận văn.......................................................................................................5
CHƯƠNG 1: KHÁI Q UÁT VỂ DOANH NGHIỆP V Ừ A V À N H Ỏ ............. 6
1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và n h ỏ......................................................................... 6
1.2. Thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt N am ..............................18
1.2.1. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Việt Nam.............................................................................................. 18
1 .2 .2 . T in h h ìn h h o ạ t d ộ n g c ủ a d o a n h n g h iệ p v ừ a v à n h ò ò V ịột N a m ............................2 2
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỂ KHUYẾN KHÍCH DOANH NGHIỆP
V Ừ A V À NHỎ ỏ VIỆT N A M ..................................................27
2.1. Về khuyên khích thành Ịập và tổ chức lại doanh nghiệp vừa và nh ỏ................ 27
2.1.1. Khuyến khích trong khâu thành lập và đăng ký kinh doanh đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ.................................................................................27
2 .1.2. V ề khuyến khích tổ chức lại doanh nghiệp vừa và nhỏ..................................... 33
2.2. Pháp luật về đất đai đối với việc khuyến khích phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ............................................................................................................ 40
2.3. Pháp luật thuế đối với việc khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ................ 45
2.4. Qui định của pháp luật về hỗ trợ tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ .50
2.4 .1. Vai trò của tổ chức tín dụng................................................................................... 50
2.4.2. Những ưu đãi tín dụng khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ.......................52
2.5. Những qui định pháp luật trên một số lĩnh vực khác về khuyến khích phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ................................................................................. 55
2.5.1. Pháp luật thương m ạ i.....................................................................................55
2.5.2. Pháp luật về công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, thông tin, tư vấn...............57
2.6. Những tồn tại và hạn chê trong qui định pháp luật về khuyến khích doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt N am ............................................................................58
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG V À G IẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LU ẬT VỀ KHUYẾN KHÍCH DOANH NGHIỆP V Ừ A
V À NHỎ ỏ VIỆT N A M .......................................................... 62
3.1. Kỉnh nghiệm về điều chỉnh pháp luật đôi với phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở một sô nước trên thế giới............................................................................ 62
3.1.1. Ở Hàn quốc.................................................................................................... 62
3.2.2. Ở Cộng hoà liên bang Đức..............................................................................63
3.2.3. Ở Nhật bản..................................................................................................... 66
3.2.4. Ở Một sổ nước trong khối ASEAN.................................................................66
3.2. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về khuyến khích doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt N a m ............................................................................68
3.2.1. Định hướng chung...........................................................................................68
3.2.2. Một số giải pháp cụ thể................................................................................... 71
KẾT L U Ậ N ........................................................................................................84
PH Ụ L Ụ C ........................................................................................................................... 85
•
m
DANH MỤC T À I L iệ u TH AM K H Ả O ......................................................... 87
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài:
Kinh nghiệm ở nhiểu nước trên thế giới cho thấy, DNVVN đóng vai trò
quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Theo thống kê, trung
bình tại các nước phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Nhật, DNVVN chiếm tỷ lệ từ
90 - 99% tổng số doanh nghiệp, đóng góp trên 50% GDP, 40 - 50% kim
ngạch xuất khẩu; số người làm việc trong các doanh nghiệp này chiếm từ 50 80% tổng số ỉao động xã hội. Ở khu vực Châu Á - Thái bình dương có tói
96% số doanh nghiệp thuộc loại vừa và nhỏ, thu hút khoảng 60% lực lượng
lao động toàn xã hội, các doanh nghiệp này đã trở thành một bộ phận hợp
thành sức sống kinh tế sôi động của khu vực, đặc biệt về mặt tạo việc làm và
mở rộng xuất khẩul25,31]. Chính vì vậy, nhiều nước trên thế giới rất coi trọng
hoạt động của loại doanh nghiệp này, mà trước hết là tạo điều kiện pháp lý
thuận lợi cho chúng phát triển. Ví dụ, Nhật bản có Luật doanh nghiệp nhỏ
(1963), Mỹ có Luật Doanh nghiệp nhỏ (1953), Hàn Quốc có tới 12 đạo luật về
DNVVN,...
Ở Việt nam, sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước
ta đã có những chuyển biến to lớn. Hiện nay, số lượng các doanh nghiệp
trong cả nước đã tăng lên nhanh chóng, nhất là DNVVN. Các doanh nghiệp
này đang giữ một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế như tạo thêm nhiều
việc làm, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế... Khu vực DNVVN hiện nay thu
hút khoảng 24% lực lượng lao động cả nước - khoảng 8,2 triệu người, đóng
góp khoảng 26% GDP,1với lợi thế là chi phí đầu tư không lớn, dễ thích ứng
với sự biến đổi của thị trường, phù hợp với trình độ quản lý kinh doanh của
phần lớn chủ doanh nghiệp ở nước ta. Hiện nay, Đảng và Nhà nước thực hiện
chủ trương phát huy nội lực, khắc phục sự giảm sút kinh tế, thì việc phát huy
khả năng to lớn của DNVVN lại càng có ý nghĩa quan trọng.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã quan tâm nhiều hơn
đến việc xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm hỗ trợ
và kích thích sự phát triển của DNVVN. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII chỉ rõ: ‘T rong việc phát triển mới, ưu tiên qui mô vừa và nhỏ,
cônẹ nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn n h a n h . 85). Theo tinh
1 Bỏ Kế hoạch và Đẩu tư, Tờ trình sô' 4GÜ4/BKH-CN ngày 29/6/2000.
1
thần đó, việc khuyến khích DNVVN được chú ý trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện khung pháp luật và các chính sách có liên quan, thể hiện rõ nhất
trong Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Nghị^định 66/HĐBT, Luật
DNNN, Luật Hợp tác xã, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Thương
mại, Luật doanh nghiệp... Bên cạnh đó, để khuyến khích DNVVN phát triển,
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã thành lập uỷ_ban về
DNVVN. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 133/1999/QĐ-TTg
ngày 31/5/1999 thành lập Tổ nghiên cứu cơ chế, chính sách phát triển
DNVVN. Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế xã hội được Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng thông qua, đã ghi nhận: “C/ỉỉí trọng phát
triển DNWN”l2l'93)
Tuy nhiên, vai trò của các DNVVN chưa được đánh giá đúng mức và
trên thực tế chúng gập rất nhiều khó khăn từ môi trường kinh doanh. Hiện
nay, chúng ta vẫn còn thiếu hệ thống các chính sách và các tổ chức hỗ trợ phát
triển DNVVN và đặc biệt là vẫn chưa có một khái niệm chính thức về
D NVVN cũng như một môi trường pháp lý phù hợp.
Chính vì vậy, để góp phần xây dựng một môi trường pháp lý thuận lợi
nhằm thúc đẩy phát triển các DNVVN ở Việt nam hiện nay thì việc nghiên
cứu về những vấn đé pháp lý về khuyến khích DNVVN là hết sóc cần thiết, có
ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
2.
Tinh hình nghiên cứu đề tài:
Trên thế giới, khái niệm DNVVN đã được sử dụng một cách khá phổ
biến và rông rãi từ lâu. Nhiều nước trên thế giới đã coi việc nghiên cứu và
thiết lập khung pháp lý nhằm khuyên khích phát triển DNVVN là một trong
những vấn đề cơ bản, làm cơ sở cho việc thực hiện các chính sách, giải pháp
hỗ trợ DNVVN. Họ đã thực hiện nhiẻu công trình khoa học nghiên cứu về
DNVVN dưới góc độ kinh tế và pháp lý. Ở nhiều nước, ngoài những qui định
pháp lý chung cho các doanh nghiệp còn có các đạo luật riêng về DNVVN.
Ở Việt nam, từ khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng,
DNVVN đã phát triển mạnh mẽ và trở thành đối tượng nghiên cứu của đông
đảo các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong những năm gán đây.
ở những phạm vi và mức độ khác nhau, đã có khá nhiều công trình đề cập tới
việc xây dựng các chính sách kinh tế nhằm hỗ trợ DNVVN. Ví dụ như: " Vai
trò của các D N W N trong phát triển kinh tế Nhật bản, khả nămĩ hợp tác với
2
Việt nam " của trung tâm kinh tế Châu Á - Thái bình dương; ''Đổi mới cơ chế
quản lý DNVVN trong nền kinh tế thị trường ỞViệt nam" của Pts.Nguyễn Hữu
Hải; "Chính sách hỗ trợ phát triển DNWN ở Việt nam' do PGS.TS Nguyễn
Cúc làm chủ biên với sự tài trợ của Viện Friedrich Ebert Cộng hoà liên bang
Đức; "Doanh nghiệp nhỏ ở Việt nam" do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
thực hiện với sự tài trợ của cơ quan phát triển quốc tế Thuỵ điển và trường
kinh tế Stockholm...
Trong thời gian gần đây, vấn đề hỗ trợ DNVVN ở Việt nam đă thu hút
sự quan tâm của nhiều tổ chức trong và ngoài nước. Vì thế, nhiều hội thảo
khoa học và dự án đã bước đầu được tiến hành để nghiên cứu về DNVVN ở
Việt nam, như: Chương trình hợp tác nghiên cứu Viột nam và Hà lan (VNRP)
về ''Phát triển DNVVN ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá và
chuyển sang nền kinh tế thị trường"', Đề án “ Định hướng chiêh lược và chính
sách phát triển DNVVN” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì; “Hội thảo quốc
gia vê chính sách và biện pháp hỗ trợ DNVVN” do Phòng Thương mại và
công nghiệp Việt Nam phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức; Các hội
thảo bàn về thực trạng và đề xuất các chính sách, biện pháp hỗ trợ DISVVN do
Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam tổ chức tại các địa phương.
Ngoài ra, nhiẻu hội thảo khác cũng được tổ chức bởi các cơ quan, tổ chức
trong nước với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế như ''Hội thảo vê chính
sách, pháp luật và một s ố giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài
quốc doanh" của Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ pháp iý (LERES) thuộc
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà nội với
sự hỗ trợ của Ngân hàng thế giới...
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu
một cách cơ bản và có hệ thống về việc điều chỉnh pháp luật đối với DNVVN
ở Việt nam trong thời kỳ đổi mới. Vì vậv, việc nghiên cứu về DNVVN ở Việt
nam dưới góc độ pháp lý nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
sao cho phù hợp là vấn đề cấp bách. Đây cũng chính ỉà nội dung mới mà đề
tài này mong muốn được đóng góp vào việc phát triển DNVVN ở Việt nam.
3.
Mục đích và phạm vi nghiên cứu:
Trên cơ sở chủ trương ưu tiên phát triển DNVVN của Đảng và Nhà
nước, cũng như từ thực tiễn pháp luật về doanh nghiệp trong thời kỳ đổi mới,
3
mục đích của Luận văn là làm sáng tỏ quan niệm về DNVVN, nghiên cứu
thực trang pháp luât điểu chỉnh hoạt động của DNVVN, qua đó đưa ra các
kiến nghị nhằm tạo lập môi trường pháp thuận lợi cho các doanh nghiệp này.
Thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu những vấn đề pháp lý đối với DNVVN trong khu vực phi nông nghiệp. Cụ
th ể lả cá c D N V V N đáp ứng các đ iều kiện là tổ chức sản x u ấ t kinh d o a n h đăng
kỷ th eo p h á p lu ậ t h iện h à n h , có vốn đ ă n g ký kinh doanh kh ô n ẹ q u á 5 tỷ đồng
và s ố lao đ ộ n g thườ ng x u y ê n trung b ìn h hàng năm không q u á 2 0 0 nqười, bao
gồm : (i) D o a n h n g h iệp N h à nước thành lập và đăng kỷ theo L u ậ t doanh
nghiệp N h à nước; (ii) C á c d o a n h nghiệp đăng ký theo L u ậ t d o a n h nghiệp;
(iii) C á c H ợịj tá c x ã thành lập và đ ă n g ký theo L u ậ t H ợp tác xã ; (iv) C ú c H ộ
kinh d o a n h cá th ể đ ă n g kỷ th eo N ẹ h i đ ịn h 0 2 /2 0 0 0 /N Đ -C P ngày 3 .2 .2 0 0 0 của
C hín h p h ủ .
Bên cạnh đó, đề tài cũng giới hạn việc nghiên cứu DNVVN tập trung
chủ yếu trong thời kỳ đổi mới kinh tế ở Việt nam (Từ năm 1986 đến nay).
4.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được thực hiộn trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản
của Đảng cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới và tư tưởng Hổ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật. Luận văn vận dụng các nguyên tắc, phương
pháp luận của kinh tế chính trị Mác - Lênin, của lý luận chung về Nhà nước và
pháp luật trong nghiên cứu. Trong đó, Luận văn đặc biột chú ý đến việc vận
dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp thống kê,
phân tích, so sánh, tổng hợp... trong quá trình lý giải các vấn đề đặt ra.
5.
Những đóng góp mới về mặt khoa học của Luận văn:
Phù hợp với mục đích và phạm vi nghiên cứu nêu trên, những đóng góp
mới về mặt khoa học của Luận văn được thể hiện ở hai nội dung cơ bản sau:
làm rõ các tiêu chí khoa học để xác định DNWN. Đồng thời
đưa ra một định nghĩa về DNVVN ở Việt Nam hiện nay với một phạm vi các
đối tượng áp dụng cụ thể.
Thứ nhất,
4
Thứ hai, xây dựng một đạo luật về khuyến khích DNVVN với những
nội dung cơ bản để làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các chính sách, giải
pháp hỗ trợ DNVVN phát triển.
6.
Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, Luận văn gồm có 3 chương như sau:
- Chương ỉ : Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Chương 2: Pháp luật vê khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
-
C hương 3: Đ ịnh hướng và giải p h á p hoàn thiện p h á p lu ậ t vê' khuyến khích
d o a n h nghiệp vừa và n h ỏ ở V iệt N am .
5
CHƯƠNG 1
KHÁI QƯÁT VẾ DOANH NGHIỆP VỪA VẢ NHỎ
1.1
KH ÁI NIỆM DOANH NGHIỆP V Ừ A V À NHỎ.
Khi nói đến DNVVN, với nhận thức đơn giản nhất, người ta có ý nói và
hiểu ngay đó là những doanh nghiệp có qui mô sản xuất kinh doanh tương đối
nhỏ. Điều này có nghĩa là DNVVN không phải là một loại hình tổ chức doanh
nghiệp cụ thê bên cạnh những loại hình khác như Công ty hay Doanh nghiệp
tư nhân... mà là nhóm những doanh nghiệp được coi là vừa và nhỏ dựa trên
những căn cứ nhất định. Do đó, vấn đề đầu tiên cần được quan tâm là xác định
tiêu chí để nhận dạng tính chất “vừa và nhỏ” của một doanh nghiệp.
Việc đưa ra khái niệm chính xác về DNVVN có ý nghĩa lổn để xác định
đúng đối tượng được khuyến khích và hỗ trợ. Vì vậy, hầu hết các nước đều
chú trọng nghiên cứu các tiêu chí xác định DNVVN. Nhìn một cách tổng
quát, có hai nhóm tiêu chí phổ biến dùng để xác định DNVVN là: nhóm tiêu
chí định tính và nhóm tiêu chí định lượng.
Nhóm tiêu chí định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản của các
DNVVN như: không có vị thế độc quyền, trình độ chuyên môn hoá thấp, số
đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp... Các tiêu chí này có
đặc điểm là phản ánh đúng bản chất của vấn đề, nhưng trên thực tế lại thường
rất khó xác định. Do vậy, mà thông thường chỉ được coi là cơ sở để tham
khảo, kiểm chứng, ít được sử dụng để phân loại trong thực tế.
Nhóm tiêu chí định lượng bao gồm các tiêu chí như số lao động, giá trị
tài sản hay vốn đầu tư, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó:
- Sô' lao động có thể là lao động thường xuyên, lao động thực tế;
- Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản
(hay vốn) cố định, giá trị tài sản còn lại;
- Doanh thu có thể là tổng doanh thu/ năm, tổng giá trị gia tăng/ năm.
Các tiêu chí này được sử dụng phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới.
Ở các nước thuộc Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á -Thái bình dương (APEC),
tiêu chí phân loại DNVVN được sử dụng nhiều nhất là tiêu chí số lao động
(12/12 nước). Một số tiêu chí khác thì tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nước.
6
Chẳng hạn vốn đầu tư (3/12 nước), tổng giá trị tài sản (3/12 nước), doanh thu
(4/12 nước). Nhìn chung, các nước sử dụng số lượng tiêu chí dùng để phân
loại DNVVN chỉ có từ một đến hai và cao nhất là ba tiêu chí (Xem bảng).
Tiêu chí xác định DNVVN ở một số nước APEC1
NƯỚC
s ổ LAO ĐỘNG
DOANH THU
VỎN ĐẦU TƯ
Ôxtrâylia
X
Canada
X
Hồng Công
X
Inđônêxia
X
Nhật Bản
X
X
Malaixia
X
X
Mêhicô
X
Philippin
X
Singapo
X
Đài Loan
X
Thái Lan
X
Mỹ
X
TÀI SẢN Cổ ĐỊNH
X
X
X
X
X
X
X
X
Như vậy, 3 tiêu chí chủ yếu nhất để xác định DNVVN là số lao động,
giá trị tài sản hoặc vốn và doanh thu. Tuy nhiên, việc sử dụng tiêu chí nào,
cũng như định lượng cụ thể cho các tiêu chí lại mang tính tương đối và không
thể có chuẩn mực chung cho tất cả các nước, vì điều kiện kinh tế - xã hội của
mỗi nước khác nhau. Ngay trong một nưóc, ở các giai đoạn phát triển khác
nhau, vấn đề này cũng được điều chỉnh cho phù hợp với thực trạng cơ cấu
doanh nghiệp và ý đồ chính sách của Chính phủ.
Sự phân loại doanh nghiệp theo qui mô lớn, vừa, nhỏ trên cơ sở các tiêu
chí nêu trên phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là:
Thứ nhất, trình đô phát triển kinh tế của mỗi nước: Trình độ phát triển
càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng lên. Ở những nước có trình độ phát
triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động, vốn để phân loại DNVVN sẽ thấp
' Ban Thưcmg mại và Đầu tư, Tiểu ban kinh doanh vừa và nhỏ của các nước APEC. 1995
7
hơn so với các nước phát triển. Ví dụ, ở Nhật bản doanh nghiệp có 300 lao
động và 1 triệu đô la Mỹ tiền vốn là DNVVN, còn doanh nghiệp có qui mô
như vậy ở Thái lan lại được coi là doanh nghiệp lớn.
Thứ hai, tính chất ngành nghề: Do đặc điểm của từng ngành nghề, có
ngành sử dụng nhiều lao động (như dệt, may), có ngành sử dụng nhiều vốn
nhung ít lao động (như hoá chất, điện). Do đó, cần tính đến tính chất này để
có sự so sánh, đối chứng trong việc xác định DNVVN giữa các ngành khác
nhau. Trên thực tế ở nhiểu nước, người ta thường phân chia thành hai đến ba
nhóm ngành với chỉ số của các tiêu chí được sử dụng khác nhau. Chẳng hạn,
các ngành sản xuất chỉ số các tiêu chí thường cao hơn so với các ngành
dịch vụ.
Thứ ba, vùng lãnh thổ: Do trình độ phát triển giữa các vùng khác nhau,
nên số lượng và quy mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Chẳng hạn, một doanh
nghiệp được coi là nhỏ ở thành phố, nhưng ở nông thôn, vùng núi nó được coi
là lớn.
Thứ tư, tính lịch sử: Một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn, nhưng
với quy mô như vậy, hiện tại hoặc trong tương lai nó có thể là nhỏ hoặc vừa.
Ví dụ ở Đài loan vào thời điểm năm 1967, trong ngành công nghiệp, doanh
nghiệp có qui mô dưới 130.000 USD được coi là DNVVN, nhưng đến năm
1989 tiêu chí này được nâng lên là 1.400.000 USD.
Thứ năm, mục đích phân loại: Khái niệm DNVVN sẽ khác nhau khi
mục đích phân loại khác nhau. Chẳng hạn, khái niệm DNVVN với mục đích
là để giảm thuế cho các doanh nghiệp có công nghệ sạch, hiện đại, không gây
ô nhiễm môi trường sẽ khác khái niệm DNVVN với mục đích là để hỗ trợ các
doanh nghiệp yếu, mới ra đời.
Tóm lại, để xác định thế nào là DNVVN, mỗi quốc gia phụ thuộc vào
các điều kiện cụ thể của mình sẽ lựa chọn những tiêu chí nhất định với những
chỉ số cụ thể. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định đúng đối tượng
doanh nghiệp cần hỗ trợ và để đạt mục đích đề ra. Nếu phạm vi đối tượng quá
rộng thì sẽ không đủ sức bao quát và tác dụng hỗ trợ sẽ giảm đáng kể, vì hỗ
trợ tất cả có nghĩa là không hỗ trợ ai. Còn nếu phạm vi quá hẹp thì sẽ có ít tác
dụng trong nền kinh tế và không đạt được mục đích đề ra.
Như đã trình bày, người ta thường sử dụng 3 tiêu chí căn bản để xác
định DNVVN là: Số lao động, giá trị tài sản hoặc vốn và doanh thu, đồng thời
8
việc lựa chọn và định lượng các tiêu chí này lại phụ thuộc vào điều kiện cụ thể
của mỗi quốc gia. Vì vậy, để có một khái niệm về DNVVN thì phải tiếp cận
và luận giải trên cơ sở các vấn đề đó với một nhận thức rõ ràng đó là một khái
niệm động và có tính tương đối về định lượng.
ở Đài Loan, khái niệm DNVVN bắt đầu được sử dụng từ năm 1967.
Ngay từ đầu, DNVVN được phân thành hai nhóm ngành: Công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp; Thưcmg mại, vận tải, các dịch vụ khác. Từ năm 1977 được
bổ sung thêm nhóm ngành thứ 3 là khai khoáng. Trong công nghiệp chế biến
và khai khoáng, người ta dùng tiêu chí vốn góp và lao động; trong thương mại
và dịch vụ khác dùng tiêu chí doanh thu và lao động.
Trong hơn 30 năm qua, tiêu chí xác định DNVVN nhỏ ở Đài Loan đã
được điều chỉnh 6 lần. Sự thay đổi trong khái niệm DNVVN theo hướng tăng
dần trị số các tiêu chí (trong sản xuất, số vốn góp từ 5 triệu lên 40 triệu đôi a
Đài Loan) và phân ngành hẹp hơn nhưng bao quát nhiều lĩnh vực hơn (từ hai
nhóm ngành lên ba nhóm).
Hiện nay, ở Đài Loan DNVVN là doanh nghiệp:
- Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng nếu có vốn góp dưới 40
triệu đôla Đài Loan (khoảng 1,4 triệu đôla Mỹ) và số lao động
thường xuyên không quá 300 người;
- Trong lĩnh vực khai khoáng có vốn góp dưới 40 triệu đôla Đài Loan,
lao động thường xuyên dưới 500 người;
- Trong thương mại, vận tải và dịch vụ khác nếu có tổng doanh thu
hàng năm dưới 40 triệu đôla Đài Loan, lao động dưới 50 người.[25,171
Ở Hàn quốc, khái niệm DNVVN được đưa ra từ những năm 70. Tiêu
chí chủ yếu để xác định DNVVN cũng giống như Đài loan. Ngành công
nghiệp sử dụng tiêu chí lao động và vốn, ngành thương mại sử dụng tiêu chí
lao động và doanh thu, cụ thể là:
- Trong ngành chế tạo, khai thác, xây dựng: DNVVN là doanh nghiệp
có dưới 300 lao động thường xuyên và vốn dưới 600.000 USD, trong
đó doanh nghiệp có dưới 20 ỉao động thường xuyên là doanh nghiệp
nhỏ;
9
- Trong thương mại: DNVVN là doanh nghiộp có dưới 20 lao động
thường xuyên và doanh thu dưới 250.000USD/ năm, trong đó doanh
nghiệp có dưới 5 lao động thường xuyên là doanh nghiệp nhỏ.125,191
Ở Malaxia, khái niệm DNVVN được áp dụng chung cho tất cả các
ngành là những doanh nghiệp có dưới 200 lao động và vốn dưới 1 triệu USD.
Trong đó, doanh nghiệp nhỏ có dưới 50 lao động và vốn dưới 200.000 USD.
Ở Indonexia, doanh nghiệp có dưới 100 lao động và tài sản cố định trên
300.000 USD được coi là doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp có dưới 20 lao
động và tài sản cố định dưới 300.000 USD được coi là doanh nghiệp nhỏ. Qui
định này được áp dụng chung cho tất cả các ngành.
ở Singapo, doanh nghiệp sản xuất có dưới 100 lao động và doanh
nghiệp thương mại dịch vụ có dưới 50 lao động được coi là DNVVN. Trong
đó, doanh nghiệp có dưới 10 lao động (áp dụng chung cho tất cả lĩnh vực) là
doanh nghiệp nhỏ.f31, ‘°-121
Ở Nhật Bản, khái niệm DNVVN được xác định trên cơ sở vốn và lao
động từ năm 1963 (trong Luật cơ bản về các xí nghiệp vừa và nhỏ). DNVVN
của Nhật bản được phân loại theo các khu vực như sau:
- Khu vực sản xuất: doanh nghiệp có dưới 300 lao động và 1 triệu
USD vốn đầu tư;
- Khu vực thương mại và dịch vụ: doanh nghiệp có dưới 100 lao động
(đối với doanh nghiệp bán buôn) hay 50 lao động (đối với doanh
nghiệp bán lẻ và dịch vụ), vốn đầu tư dưới 300.000 USD (đối với
doanh nghiệp bán buôn) hay 100.000 USD (đối với doanh nghiệp
bán lẻ và dịch vụ).
ở các nước trong Liên minh Châu Âu (EU), trước đây mỗi nước trong
liên minh đều có khái niộm riêng về DNVVN phù hợp với từng nước. Đến
năm 1986, Liên minh châu âu đã đề xuất khái niệm chung về DNVVN như
sau: DNVVN là doanh nghiệp có dưới 250 lao động, doanh số không quá
40.000 ECU hoặc tổng số vốn hàng năm không quá 27 triệu ECU, có cổ phần
không quá 25% ở một xí nghiệp lớn.125,211
ở Mỹ, ban đầu người ta đưa ra khái niệm DNVVN chỉ dựa trên một tiêu
chí là lợi nhuận hàng năm dưới 150.000 USD cho tất cả các doanh nghiệp
thuộc mọi ngành. Sau này, người ta đã sử dụng thêm tiêu chí doanh thu và lao
10
động. Ngoài ra, người ta còn qui định thêm tiêu chí về định tính của DNVVN
là không có khả năng chi phối hay độc quyền lũng đoạn trong ngành hoặc lĩnh
vực hoạt động và không phải là các công ty con hoặc xí nghiệp vộ tinh của
những công ty lớn. Điều này đã tạo ra sự khác biệt với hầu hết quan niệm của
các nước khác, và như vậy các doanh nghiệp phải thoả mãn cả hai điều kiện về
qui mô vừa và nhỏ và quan hệ pháp lý như trên mới được coi là DNVVN và
trở thành đối tượng của hệ thống chính sách đối với DNVVN.[31'7)
Qua nghiên cứu quan niệm về DNVVN ở một số quốc gia trên, chúng
ta có thể kiiái quát lại ở một số điểm sau:
Thứ nhất, việc xác định DNVVN nhìn chung đểu dựa vào ba tiêu chí là
số Lao động, vốn và doanh thu.
Thứ hai, điểm nổi bật nhất hay chung nhất mà chúng ta dề nhận thấy là
tiêu chí về lao động được tất cả các quốc gia sử dụng và là tiêu chí chính. Tuy
nhiên, số lượng lao động để phân loại không những khác nhau ở mỗi nước mà
còn khác nhau ở các địa bàn cũng như trong mỗi ngành nghề và tại những thời
điểm cụ thể.
Thứ ba, tiêu chí về vốn cũng được hầu hết các quốc gia sử dụng. Tiêu chí
về vốn được xác định dựa vào vốn kinh doanh mà doanh nghiệp đăng ký hoặc
ghi trong điều lệ, nhưng mỗi nước quy định khác nhau. Tuy nhiên, mục tiêu
chung vẫn là nhằm hỗ trợ những doanh nghiệp mà với số vốn đó không có khả
năng trang trải các chi phí đầu tư cơ bản và chi phí duy trì hoạt động bình
thường. Vì vậy doanh nghiộp cần được hỗ trợ để khắc phục những khó
khăn đó.
Thứ tư, tiêu chí về doanh thu được sử dụng rất hạn chế và thường chỉ
được sử dụng cho ngành thương mại và dịch vụ. Tiêu chí này thường không
được sử dụng phổ biến, chỉ có một số quốc gia sử dụng. Sở đĩ tiêu chí này
không được sử dụng rộng rãi do việc xác định nó cũng phức tạp và không
chính xác, phạm vi của doanh thu trong từng ngành cũng rất khác nhau. Vì
vậy việc phân loại sẽ rất phức tạp và đôi khi không mang lại hiộu quả. Tiêu chí
này chỉ nên áp dụng trong từng ngành cụ thể vì khi đó mới có thể so sánh
được quy mô và từ đó mới có những cơ sở để hỗ trợ.
Thứ năm, hầu hết các quốc gia chỉ nêu lên định lượng để xác định các
DNVVN, nhưng riêng Mỹ và Liên minh Châu âu có đề cập đến yếu tố định
tính là vị trí thống lĩnh thị trường và mối quan hệ với các doanh nghiệp lớn.
11
Thứ sáu, về độ lớn của các tiêu chí, đây là yếu tố tương đối “động”. Từ
khi ở các nước bắt đầu có khái niộm vể DNVVN đến nay thì độ lớn của các
tiêu chí đã tăng lên đáng kể (Đài loan là một ví dụ điển hình). Đồng thời, chỉ
số của các tiêu chí được sử dụng thường có sự khác biệt giữa hai lĩnh vực sản
xuất công nghiệp và thương mại dịch vụ.
Từ những phân tích trên, căn cứ vào thông lệ chung, có thể đi đến một
quan niệm chung về DNVVN là: DNWN là những cơ sỏ kinh doanh có qui
m ô vừa và n h ỏ xé t trong tương quan với cá c doanh nghiệp khác dựa trên các
tiêu chí khác nhau như: số lao động, vốn, doanh thu... do Nhà nước qui định
đối với từng ngành nghê' và tương ứng với từng thời kỳ phát triển kinh tế ở mỗi
quốc gia.
Cho đển nay, DNVVN đã trở thành một hiện tượng có tính toàn cầu,
cho dù đó là các quốc gia đã phát triển hay các nước đang phát triển. DNVVN
với các đặc trưng riêng của nó đã trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng
trong đời sống kinh tế của mỗi quốc gia. Trên bình diện chung nhất, DNVVN
có các đặc điểm cơ bản sau:
Một là, DNVVN, đúng như tên gọi của nó, có đặc điểm cơ bản là qui
mô vừa và nhỏ, thê hiện trước hết là vốn kinh doanh của doanh nghiệp khá
hạn hẹp. Theo số liệu thống kê của các nước, trong số các DNVVN, số lượng
các doanh nghiệp nhỏ lại chiếm tỷ lệ khá cao, điều đó cho thấy năng lực tài
chính của DNVVN là rất thấp. Tuy nhiên, nhờ qui mô nhỏ nên các DNVVN
rất linh hoạt, cơ động, dễ thay đổi và thích nghi nhanh với tình hình, trong các
thời kỳ kinh tế suy thoái chúng vẫn tồn tại và phát triển ở khắp nơi và chính
chúng lại tạo ra sức sống của nền kinh tế.
Hai là, do qui mô vừa và nhỏ nên DNVVN được dễ dàng thành lập. Các
điều kiện cần thiết cho việc tiến hành kinh doanh như máy móc, thiết bị, đất
đai, nhà xưởng... khá đơn giản. Việc thay đổi công nghệ, đổi mới thiết bị do
vậy cũng dễ dàng hơn.
Ba là, viêc quản lý và điều hành DNVVN đơn giản, gọn nhẹ. Đặc biệt
với doanh nghiệp nhỏ, thông thường chủ doanh nghiệp đồng thời là nhà quản
lý, điều hành không cần có bộ máy tham mưu giúp việc.
Bốn là, DNVVN có tính năng động, sáng tạo cao và nhạy cảm với
những thay đổi của thị trường. Có thể thấy DNVVN là mảnh đất sinh sôi của
các sáng kiến, vì sự hạn hẹp về các nguồn vật chất (chủ yếu là vốn đầu tư) nên
12
buộc các doanh nghiệp phải liên tục tìm tòi, sáng tạo để tổn tại trong môi
trường cạnh tranh. DNVVN sẩn sàng đầu tư vào những lĩnh vực mới, lĩnh vực
có mức độ rủi ro cao và có thể sản xuất sản phẩm có chất lượng cao ngay cả
khi điều kiện sản xuất kinh doanh còn nhiều hạn chế.
Năm là, do qui mô vừa và nhỏ nên DNVVN thường gặp phải nhiều khó
khăn như: (i) Thường bị lệ thuộc và chèn ép về giá cả hoặc các điều kiện cung
ứng hàng hoá, dịch vụ bởi các doanh nghiệp lớn trong các quan hệ kinh tế
song phương; (ii) Thị trường hạn hẹp trong những giới hạn địa lý nhất định và
ít có khả năng, cơ hội tiếp xúc với các thị trường lớn; (iii) Năng lực công nghệ
và kỹ thuật hạn chế, rất khó khăn trong việc đầu tư công nghệ mới nếu đó là
công nghệ đòi hỏi vốn đầu tư cao; (iv) Thiếu thông tin, kiến thức và mặt bằng
sản xuất; (v) Trình độ lao động và quản lý còn thấp, việc đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực ít được quan tâm.
Qua đó có thể thấy, DNVVN có rất nhiều lợi thế, nhưng đồng thời cũng
có nhiều khó khăn trong tổ chức và hoạt động. Để phát huy thế mạnh và khắc
phục khó khăn cho DNVVN thì vai trò hỗ trợ của Nhà nước là hết sức quan
trọng. Việc hỗ trợ của Nhà nước có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức
và phương pháp khác nhau nhưng vấn đề cơ bản nhất là tạo ra một khung pháp
luật khuyến khích phát triển DNVVN.
ở Việt Nam, mặc dù chúng ta đã trải qua hơn 15 năm đổi mới, tốc độ
tăng trưởng kinh tế khá cao, nhưng trình độ phát triển kinh tế vẫn còn thấp, thị
trường còn hạn hẹp và chưa đồng bộ (chủ yếu là thị trường hàng hoá và dịch
vụ, các thị trường khác còn rất nhỏ hoặc mới manh nha), năng lực quản lý
kinh tế còn thấp. Điều đó làm cho việc xem xét đánh giá qui mô của một
doanh nghiệp thế nào là lớn hay vừa và nhỏ là khá khó khăn, chưa có một
thước đo đích thực.
Khi chưa có tiêu chí chung xác định DNVVN, một số cơ quan Nhà
nước và một số tổ chức hỗ trợ DNVVN đã chủ động đưa ra tiêu chí xác định
DNVVN để phục vụ công tác của mình, chẳng hạn như: Ngân hàng công ,
thưưng Việt Nam coi DNVVN là các doanh nghiệp có dưới 500 lao đông, vốn \
cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng và doanh thu hàng
tháng dưới 20 tỷ đồng. Thông tư liên bộ số 21/LĐTT ngày 17.6.1993 của Bộ
Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính qui định doanh nghiệp nhỏ
là doanh nghiệp có lao động thường xuyên dưới 100 người; doanh thu hàng
năm dưới 10 tỷ đồng; vốn pháp định dưới 1 tỷ đồng. Dự án VIE/US/95/004 Hỗ
13
trợ DNVVN ở Việt Nam do Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc
(UNIDO) tài trợ, đối tác là Bộ Kế hoạch và Đầu tư coi doanh nghiệp nhỏ là
doanh nghiệp có lao động dưới 30 người và vốn đăng ký dưới 100.000 USD, /
doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có lao động từ 31 đến 200 người và vốn
đăng ký dưới 400.000 USD. Quỹ hỗ trợ DNVVN thuộc chương trình Việt
Nam - EU coi DNVVN được quỹ này hỗ trợ gồm các doanh nghiệp có sô
nhân công từ 10 - 500 người và vốn điều lệ từ 50.000 đến 300.000 USD. Quỹ
phái triển nông thôn thuộc Ngân hàng Nhà Iiước coi DNVVN là các doanh
nghiệp có giá trị tài sản không quá 2 triệu USD; lao động không quá 500
người.'381
Thực trạng đó tự nó nói lên đòi hỏi về việc phải có tiêu chí thống nhất
xác định DNVVN. Tiêu chí này cần phải phù hợp với đặc điểm và điều kiện
phát triển của nền kinh tế nước ta, vừa phải đảm bảo tính thuận tiện, có thể
xác định dễ dàng, vừa phải có tính chuẩn xác và khoa học phục vụ cho quá
trình đưa ra các biện pháp quản lý, cơ chế chính sách, chế độ pháp lý cũng
như áp dụng các chính sách hỗ trợ phù hợp.
Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế, xuất phát từ thực tiễn và
định hướng phát triển của nền kinh tế nước ta, Chính phủ đã ban hành Công
văn số 681/CP- KTN ngày 20 tháng 6 năm 1998 đã quy định tạm thời thống
nhất tiêu chí xác định DNVVN ở Viột Nam trong giai đoạn hiện nay là những
nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đổng và sô lao động trung bình hàng
năm dưới 200 người. Qui định cũng nêu rõ trong quá trình thực hiện, các Bộ,
doanh
ngành, địa phương có thể căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể mà áp
dụng đổng thời cả hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong hai tiêu chí nói
trên. Các tiêu chí trên được coi là các qui ước hành chính để xây dựng cơ chế,
chính sách hỗ trợ DNVVN.
Quy định này dựa trên những căn cứ sau:
Thứ nhất, vê việc lựa chọn các tiêu chí: Việc xác định DNVVN theo
hai tiêu chí lao động thường xuyên và vốn kinh doanh là hợp lý vì các tiêu chí
này có tính phổ biến phù hợp với thông lệ chung nên bảo đảm tính khả thi,
tính chính xác và tính thực tiễn cao trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Cụ thể
là:
- Mọi hoạt động kinh doanh trước khi diễn ra tối thiểu phải có hai yếu tố
này. Do vậy, mọi cơ sở kinh doanh đều có số liệu khá đầy đủ;
14
- Hai tiêu chí này có thể xác định được ở mọi cấp độ như ở một cơ sở kinh
doanh, một ngành, một lĩnh vực, một địa phương và toàn bộ nền kinh tế;
- Trong điều kiện của tổ chức quản lý kinh tế ở Việt Nam, đây là hai tiêu chí
có thể xác định được tương đối chính xác chỉ số của chúng;
- Tinh trạng thực tế của hầu hết các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế
hiện nay là thừa lao động nhưng thiếu vốn kinh doanh. Do vậy, việc sử
dụng hai tiêu chí trên là phù hợp với hai vấn đề bức xúc của thực tiễn hiện
nay và có cơ sở cho việc xác định một số biện pháp cụ thể trong hệ thống
chính sách hỗ trợ DNVVN.
Tuy nhiên, hai tiêu chí xác định trên đây không phản ánh đầy đủ và
khái quát tiêu chí nhận diện DNVVN. Bởi vì chúng mới chỉ thể hiện được qui
mô đầu vào mà chưa phản ánh được kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Mặc dù vậy, trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, chúng ta vẫn chưa thể sử
dụng thêm các tiêu chí khác như doanh thu, vốn cố định, vốn lưu động, lợi
nhuận vì các tiêu chí này đều có vai trò nhất định trong việc phản ánh quy mô
doanh nghiệp, nhưng thường khó xác định và ít chính xác. Tiêu chí doanh thu
có ý nghĩa quan trọng hơn vì nó phản ánh quy mô doanh nghiệp qua kết quả
hoạt động kinh doanh, nhưng việc xác định tiêu chí này khó chính xác, nhất là
trong số các DNVVN ngoài quốc doanh thường giấu doanh thu để trốn thuế.
Về vốn pháp định, vốn cố định và vốn lưu động thì mang tính hình thức và
thường có sự khác nhau rất lớn giữa các ngành nghề, các lĩnh vực. Do vậy, tự
nó cũng không phản ánh đầy đủ và thực chất quy mô doanh nghiệp.
Thứ hai, về chỉ số của các tiêu chí:
- Đối với tiêu chí về lao động, việc giải quyết công ăn việc làm cho người
ỉao động được xác định là đóng góp quan trọng nhất của DNVVN trong
nền kinh tế và cũng là yêu cầu cốt lõi của chiến lược phát triển kinh tế, xã
hội của nước ta. Do vậy, việc phân định doanh nghiệp theo tiêu chí về lao
động phản ánh tương đối chính xác quy mô và vai trò của doanh nghiệp
trong nền kinh tế (xét cả về mặt kinh tế và cả mặt xã hội), về mặt kỹ thuật,
do số liệu thống kê về lao động thường dễ thống kê, dễ kiểm chứng. Kết
hợp số liệu về lao động với chỉ tiêu năng suất lao động trung bình xã hội,
chúng ta có thể suy ra các chỉ tiêu kinh doanh khác của doanh nghiệp, về
định lượng của tiêu chí này, số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê cho
thấy, số lao động làm việc thường xuyên bình quân của các doanh nghiệp
15
có đăng ký kinh doanh ở nước ta ở thời điểm tháng 7 năm 1995 là 210
người. Và theo kinh nghiệm ở nhiều nước, tiêu chí xác định DNVVN nên
xoay quanh mức lao động thống kê bình quân này.
- Đối với tiêu chí về vốn, do yêu cầu vẻ vốn là yêu cầu cấp bách với hầu hết
DNVVN ở nước ta, nên việc phân định doanh nghiệp theo tiêu chí vẻ vốn
sẽ tạo một căn cứ quan trọng đổ xây dựng mội hệ thống chính sách và biện
pháp hỗ trợ doanh nghiệp. Để phân định doanh nghiệp, các nước thường sử
dụng tiêu chí tổng nguồn vốn, vì chỉ tiêu này phản ánh quy mô tài chính
của doanh nghiệp chính xác hơn so với vốn đăng ký. Tuy nhiên, trong điều
kiện cụ thể của chúng ta, rất khó xác định chính xác tổng nguồn vốn kinh
doanh của doanh nghiệp, vì vậy sử dụng tiêu chí vốn đăng ký là hợp lý.
Cũng theo số liệu điểu tra của Tổng cục Thống kê năm 1995, vốn đăng ký
bình quân của các doanh nghiệp nước ta là 2,2 tỷ đồng. Căn cứ vào xu
hướng thay đổi theo chiều hướng tăng lên của nguồn vốn đăng ký bình
quân thời gian gần đây, đồng thời tham khảo mức tiêu chí này ở một số
nước có trình độ phát triển tương tự như Việt Nam, mức vốn đăng ký của
DNVVN dưới 5 tỷ đồng ở nước ta hiện nay là phù hợp.
Song một khiếm khuyết đáng lưu ý là việc chưa chỉ ra được những yếu
tô ảnh hưởng đến chỉ số của các tiêu chí mà yếu tố cơ bản là lĩnh vực và ngành
nghề hoạt động của doanh nghiệp. Thực tiễn cho thấy, hầu hết các quốc gia
đều chú ý phân biệt chỉ số của các tiêu chí trong hai lĩnh vực chính là sản xuất
công nghiệp và thương mại, dịch vụ mà trong đó ngành sản xuất công nghiệp
thường có chỉ số cao hơn ngành thương mại, dịch vụ.
Như vậy, về thực chất Việt Nam chưa có một văn bản qui phạm pháp
luật nào quy định cụ thể về cách xác định các DNVVN. Để bảo đảm các
nhiệm vụ quản lý, Chính phủ và các cơ quan có liên quan thường phải có
những văn bản quy định tạm thời về cách xác định trong các trường hợp cụ
thể.
Từ những phân tích trên, có thể bước đầu đưa ra định nghĩa DNVVN ở
Viột Nam là: DNWN là các tổ chức kinh doanh đăng ký theo pháp luật
hiện hành, có vốn đáng ký tại cơ quart đăng ký kinh doanh không quá 5 tỷ
đồng và SỐlao động thường xuyên trung bình hàng năm không quá 200
người. Trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình hỗ trợ có thể
linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong hai
16
tiêu chí này. Tuỳ theo thời gian, các chương trình hỗ trợ của Nhà nướcsẽ cụ
thể hoá DNVVN theo ngành và theo vùng khi xem xét.
Theo định nghĩa DNVVN và kết hợp với mục tiêu cần trợ giúp của Nhà
nước thì khu vực DNVVN ở nước ta bao gồm:
- Doanh nghiệp Nhà nước thành lập và đăng ký theo Luật doanh nghiệpNhà
nước;
- Các doanh nghiệp đăng ký theo Luật doanh nghiệp, bao gồm; Công ty cổ
phần, Công ty TNHH một thành viên, Công ty TNHH có từ hai thành viên
trở lên, Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân;
- Các Hợp tác xã thành lập và đăng ký theo Luật Hợp tác xã;
- Các Hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày
3.2.2000 của Chính phủ.
Như vậy, phạm vi DNVVN ở đây không bao gồm các Doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Điều này xuất phát từ chỗ mục đích của việc xác định
DNVVN là nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp này phát triển. Trong khi đó,
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã được coi là một nhóm
riêng với nhiều chính sách ưu đãi đặc biệt nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam. Chính vì vậy, trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, các Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không kể lớn hay vừa và nhỏ đều không
thuộc phạm vi DNVVN nêu trên.
Bên cạnh đó, phạm vi nghiên cứu DNVVN ở đây cũng chỉ tập trung vào
các doanh nghiệp thuộc khu vực chính thức, không bao gồm các đối tượng
thuộc diện “các doanh nghiệp siêu nhỏ” như các tư thương, người bán hàng
rong, thợ thủ công... Điêu này cũng xuất phát từ một thực tế trong pháp luật
kinh doanh ở Việt Nam mà chưa thể khắc phục được ngay, nhiều chủ thể tiến
hành hoạt động sản xuất (có thể chỉ là để tự cung cấp), hoặc thực hiện cả công
việc kinh doanh (có mua đầu vào và bán đầu ra) nhưng vẫn chưa được coi là
doanh nghiệp (trong các văn bản pháp luật nước ta, thuật ngữ “doanh nghiệp”
được dùng để chỉ các chủ thể kinh doanh có đăng ký).
Ngoài ra, phạm vi DNVVN ở đây cũng không gồm các công ty là các
đơn vị thành viên của các Tổng công ty 90 và 91, mặc dù các công ty này có
thể có qui mô thuộc loại vừa và nhỏ. Điều này cũng được lý giải từ mục tiêu
trợ giúp của Nhà nước đối với các DNVVN, trong
- Xem thêm -