Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp...

Tài liệu Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

.PDF
16
282
62

Mô tả:

Pháp luật về hoạt động cho vay của nhân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Pháp luật về hoạt động cho vay của nhân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam Nguyễn Thị Thu Thủy Khoa Luật Luận văn ThS. ngành: Luật kinh tế; Mã số: 60 38 50 Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy Năm bảo vệ: 2010 Abstract. Khái quát chung về khái niệm, đặc điểm, vai trò và những đặc trưng trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Phân tích những mặt hạn chế trong quy định hỗ trợ tín dụng cho các DNNVV, những khó khăn của việc tiếp cận vốn tín dụng với các ngân hàng, đưa ra các nguyên nhân chủ yếu của thực trạng để làm cơ sở hoàn thiện pháp luật. Đồng thời, đưa ra một số biện pháp hỗ trợ tín dụng đối với DNNVV của một số ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam, qua đó nêu lên những kiến nghị sửa đổi, bổ sung, xây dựng pháp luật về DNNVV nói chung và pháp luâ ̣t về ho ạt động cho vay của NHTM với DNNVV nói riêng. Keywords. Luật kinh tế; Pháp luật Việt Nam; Vay vốn; Ngân hàng thương mại; Doanh nghiệp nhỏ Content MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) hiện nay đang chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số các doanh nghiệp của Việt Nam. Theo một số liệu được công bố thì tính đến tháng 5/2010: "Cả nước có thêm 33.982 doanh nghiê ̣p đăng ký thành l ập mới, nâng tổng số doanh nghiê ̣p hiện nay lên đế n 496.101 doanh nghiê ̣p; vốn đăng ký gần 2.313.000 tỷ đồng (khoảng 121 tỷ USD); trong đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm đến 97% với trên 50% lao động trong doanh nghiê ̣p, ước tính đóng góp khoảng trên 40% GDP". Nhìn vào số liệu trên cho thấy tỷ trọng về các chỉ tiêu vốn, doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân sách chưa tương xứng với tỷ trọng về số lượng doanh nghiệp, tuy nhiên, khu vực doanh nghiệp này vẫn luôn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tuy vậy, DNNVV vẫn còn có những khó khăn nhất định mang tính đặc trưng và lâu dài, như về quy mô doanh nghiệp nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu, khả năng quản trị doanh nghiệp yếu, mặt bằng sản xuất kinh doanh nhỏ hẹp, khó khăn, đặc biệt là việc tiếp cận nguồn tín dụng còn rất hạn chế. Trong hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp này, bên cạnh nguồn vốn tự có thì vốn vay từ Ngân hàng đóng vai trò quan trọng và chủ yếu. Tuy nhiên, không phải mọi doanh nghiệp đều dễ dàng tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng. Hầu hết các Ngân hàng đều không "nhiệt tình" trong việc cho vay đối với các DNNVV. Mặc dù hiện nay Nhà nước ta cũng đã có một số quy định để hỗ trợ DNNVV nhưng về cơ bản các quy định mang tính chất chủ trương chung, lại chưa thống nhất và đồng bộ, đặc biệt về vấn đề cấp tín dụng cho các DNNVV thì hiện nay vẫn chưa có một chính sách tín dụng hay cơ chế cho vay riêng biệt đối với khối doanh nghiệp này. Tác giả chọn đề tài "Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam" với mong muốn được nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ các quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại (NHTM) đối với các DNNVV. Thông qua việc nghiên cứu thực trạng pháp luâ ̣t về cho vay kh ối DNNVV tại các NHTM của Việt Nam, gắn với việc so sánh với pháp luật, chính sách cho vay DNNVV tại một số nước khác trên thế giới đ ể từ đó rút ra những bất cập của pháp luật trong lĩnh vực này. Trên cơ sở đó, đề xuất những biện pháp hỗ trợ đặc thù trong hoạt động cho vay các DNNVV ở nước ta, hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành, tạo điều kiện cho các DNNVV nâng cao hiệu quả và năng lực hoạt động, xứng đáng với vai trò của nó trong nền kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu về vấn đề này ở Việt Nam Hiện nay ở nước ta chưa có công trinh (luâ ̣n văn tiế n si ̃ , thạc sĩ…) chính thức nào được ̀ công bố về pháp luâ ̣t cho vay DNNVV ta ̣i các NHTM ở Viê ̣t Nam . Trên thực tế cũng đã có một số bài báo, tạp chí đề cập đến DNNVV, tuy nhiên, các bài báo chỉ viết về mô hình DNNVV hoặc chủ yếu liên quan đến khía cạnh "kinh tế" trong hoạt động cấp tín dụng của các NHTM đối với các DNNVV. Ví dụ như: "Mấy vấn đề về đầu tư tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta", của Nguyễn Thị Hải Hằng, (Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, số 19, 2006); "Doanh nghiệp nhỏ và vừa trước tình hình hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại trong 9 tháng đầu năm 2008", của Đinh Nguyễn Thị Nương (Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, số 21, 2008). Các bài viết này chủ yếu nói về thực trạng cho vay các DNNVV tại các NHTM (tỷ trọng cho vay so với các khách hàng khác , tỷ lệ nợ xấu của các DNNVV… ), mô ̣t số thu ận lợi và khó khăn của DNNVV trong việc vay vốn NHTM. Ngoài ra, có một số cuộc Hội thảo, Dự án (nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam) và những phân tích đánh giá của các nhà kinh tế cũng chỉ đề cập đến thực trạng (số lượng, đặc điểm, điểm mạnh, điểm yếu) của DNNVV trong thời điểm hiện nay mà chưa có một công trình nghiên cứu nào về việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay của NHTM cho các DNNVV. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích Luận văn tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật về hoạt động cho vay của các NHTM đối với các DNNVV tại Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn cũng tìm hiểu những chủ trương, chính sách có liên quan đến việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp này. - Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau: Phân tích những mặt hạn chế trong quy định hỗ trợ tín dụng cho các DNNVV, những khó khăn của việc tiếp cận vốn tín dụng với các ngân hàng, đưa ra các nguyên nhân chủ yếu của thực trạng đó để làm cơ sở hoàn thiện pháp luật. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số biện pháp hỗ trợ tín dụng đối với DNNVV của một số NHTM tại Việt Nam, qua đó nêu lên những kiến nghị sửa đổi, bổ sung, xây dựng pháp luật về DNNVV nói chung và pháp luâ ̣t về hot động cho vay của NHTM với DNNVV nói riêng. ạ 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, so sánh để nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam, quy định pháp luật của một số nước trong khu vực và trên thế giới, rút ra những đặc điểm phù hợp với Việt Nam để hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay đối với các DNNVV. Kết hợp phân tích, liên hệ với các chủ trương, chính sách có liên quan để lựa chọn những chính sách ưu Việt có thể thể chế hóa thành quy định của pháp luật. Đồng thời, tác giả cũng sử dụng phương pháp tìm hiểu, điều tra thực tế các chính sách hỗ trợ hiện hành của một số NHTM của Việt Nam đối với các DNNVV. Việc nghiên cứu thực tiễn này giúp việc xây dựng các quy định của pháp luật về lĩnh vực này được thiết thực và hiệu quả hơn. 5. Ý nghĩa lý luận của đề tài Trong thời điểm hiện nay, khi Nhà nước đang đẩy mạnh chương trình xúc tiến hỗ trợ cho các DNNVV để nâng cao vai trò và hiệu quả cho khối doanh nghiệp này thì đề tài luận văn mang một ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất thiết thực. Hi vọng những kiến nghị đề xuất của tác giả sẽ có giá trị nhất định trong việc thực hiện chủ trương trên. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chương 2: Quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa và thực tiễn cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại một số ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 1.1. Khái niệm, đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa 1.1.1. Khái niệm Mặc dù có những khác biệt nhất định giữa các nước về các tiêu thức và tiêu chuẩn cụ thể, song khái niệm chung nhất về DNNVV có nội dung như sau: DNNVV là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức: vốn, lao động, doanh thu, năng lực sản xuất, tổng tài sản, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia. Tại Việt Nam, theo quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 về trợ giúp DNNVV (sau đây gọi tắt là Nghị định 56/2009/NĐ-CP) thì DNNVV được chia thành các cấp độ, cụ thể như sau: DNNVV là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên). 1.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa DNNVV có những đặc điểm sau: Quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ; mặt bằng sản xuất khó khăn; công nghệ lạc hậu; khó khăn về tài chính; yếu về nguồn nhân lực và năng lực quản trị, điều hành doanh nghiệp. 1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các DNNVV có thể giữ những vai trò với mức độ khác nhau. Qua thực tiễn hoạt động và phát triển của DNNVV ở Việt Nam cho thấy, DNNVV có vai trò quan trọng đối với kinh tế - xã hội, cụ thể như sau: - Các DNNVV cung cấp một lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ đáng kể cho nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong xã hội. - DNVVN trong nền kinh tế góp phần tạo việc làm và thu nhập cho người lao động. - Các DNNVV thu hút vốn đầu tư trong nền kinh tế. - Hoạt động của các DNVVN tạo nguồn vốn lớn cho ngân sách nhà nước, góp phần làm cho nền kinh tế năng động, đạt hiệu quả kinh tế cao. - Các DNVVN có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng. 1.1.4. Vai trò của cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Như trên đã phân tích, các DNNVV có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, vì vậy hoạt động cho vay DNNVV cũng đóng vai trò đặc biệt quan trọng, tạo điều kiện cho các DNNVV tồn tại, đững vững và phát triển, phát huy tối đa tiềm năng và vai trò của nó đối với kinh tế và xã hội. Về mối quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng: Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh DNNVV sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn cũng như để tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn của mình. Ngân hàng không chỉ giúp cho các doanh nghiệp quản lý tài chính mà còn cung cấp những giải pháp tài chính thích hợp, tạo nền tảng cho sự thành công của doanh nghiệp, các dịch vụ của ngân hàng cũng có sự hỗ trợ rất lớn cho các doanh nghiệp, giúp cho hoạt động kinh doanh của họ nhanh chóng, hiệu quả hơn. Ở Việt Nam, khách hàng doanh nghiệp là khách hàng chính của các ngân hàng. Nhu cầu và mật độ sử dụng dịch vụ của họ nhiều và đây là đối tượng mang lại một nguồn thu đáng kể cho ngân hàng. Về vai trò của cho vay DNNVV: Vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho các DNNVV đóng vai trò rất quan trọng, nó chẳng những thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế này mà thông qua đó tác động trở lại thúc đẩy hệ thống ngân hàng, đổi mới chính sách tiền tệ hoàn thiện các cơ chế chính sách về tín dụng, thanh toán ngoại hối… Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển DNNVV được thể hiện: - Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho DNNVV, đảm bảo cho hoạt động của các DNNVV được liên tục. - Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNNVV. - Tín dụng ngân hàng góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNNVV. 1.1.5. Các yếu tố tác động đến hoạt động cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa Vĩ mô và khách quan: Thứ nhất, về chính sách chung của Đảng và Nhà nước: mặc dù về nhận thức, Đảng và Nhà nước đã khẳng định chính sách nhất quán phát triển kinh tế nhiều thành phần nhưng trong quá trình vận dụng vào thực tế công tác trợ giúp phát triển DNNVV vẫn chưa nhận được sự quan tâm thích đáng của các Bộ, ngành và địa phương. Hệ thống pháp luật và môi trường kinh doanh mới đang được xây dựng và hoàn thiện để phù hợp với xu thế và bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Hệ thống tổ chức xúc tiến phát triển DNNVV từ cấp trung ương đến địa phương cho đến nay mới chỉ hình thành bước đầu và năng lực còn yếu, chưa đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Thứ hai, về môi trường kinh tế: Trong những năm vừa qua liên tiếp xảy ra những biến động của kinh tế thế giới cũng như của từng quốc gia trong đó có Việt Nam. Xét từ góc độ tác động của lạm phát, khủng hoảng kinh tế có thể chia các DNNVV thành ba nhóm như sau: Một là, những doanh nghiệp bị tác động mạnh, đang hết sức khó khăn (chiếm 20%). Hai là, những doanh nghiệp bị lạm phát và khủng hoảng kinh tế tác động nhiều, hiện đang ở trong tình trạng khó khăn, sản xuất, kinh doanh bị sụt kém (chiếm 60%). Ba là, những doanh nghiệp ít bị tác động hoặc thậm chí vẫn tìm được cơ hội phát triển trong điều kiện lạm phát (chiếm 20%). Thứ ba, các yếu tố thể chế - luật pháp: Đây là yếu tố có tầm ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh doanh trên một lãnh thổ, các yếu tố thể chế, luật pháp có thể ảnh hưởng đến khả năng tồn tại và phát triển của bất cứ ngành nào. Khi kinh doanh trên một đơn vị hành chính, các doanh nghiệp sẽ phải bắt buộc tuân theo các yếu tố thể chế luật pháp tại khu vực đó. Các chính sách của nhà nước sẽ có ảnh hưởng tới doanh nghiệp, nó có thể tạo ra lợi nhuận hoặc thách thức với doanh nghiệp. Vi mô và chủ quan Từ phía ngân hàng, nhiều NHTM chưa đánh giá đúng tầm quan trọng đặc biệt của khu vực DNNVV, dẫn đến những trở ngại trong quan hệ giữa DNNVV với ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp phàn nàn về việc tìm đến ngân hàng để vay vốn gặp rất nhiều thủ tục khắt khe, phức tạp. Ngân hàng là một tổ chức hoạt động kinh doanh, không thể không tính đến lợi nhuận khi giao dịch với khách hàng, nhất là trong hoạt động cho vay. Vì vậy, nhiều ngân hàng ngại cho vay vì chi phí cho thủ tục, thẩm định cao, rủi ro cao. Về phía doanh nghiệp: Số lượng DNNVV của Việt Nam thì đông nhưng với những đặc điểm như đã đề cập, đặc biệt là hạn chế về tình hình tài chính, nhân lực và quản lý khiến các DNNVV gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng các dự án đầu tư để vay vốn ngân hàng. Khách hàng vay nợ dễ vi phạm nguyên tắc vay hoặc không đáp ứng, không hội tụ đủ các điều kiện vay, như phương án kinh doanh không khả thi, không hiệu quả, năng lực và tiềm lực tài chính, tỷ lệ vốn tự có thấp, đặc biệt là việc trao đổi thông tin giữa doanh nghiệp và ngân hàng chưa được tăng cường, còn thiếu rõ ràng, thiếu độ tin cậy cần thiết; tình hình tài chính của doanh nghiệp chưa thực sự minh bạch, báo cáo tài chính chưa thực sự công khai, mức độ chính xác, tin cậy thấp. Bên cạnh đó, vốn kinh doanh của DNNVV ít, dẫn đến vốn tự có tham gia vào dự án ít và khi đó, ngân hàng không thể không tính đến rủi ro khi đổ vốn vào cùng doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Do đó, ngân hàng khó có cơ sở để đánh giá và quyết định việc cho vay, lòng tin của ngân hàng vào doanh nghiệp còn hạn chế. 1.2. Những đặc trƣng trong hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa Ngoài các quy định chung của Nhà nước, cụ thể là của Ngân hàng nhà nước (NHNN) trong hoạt động cho vay, các NHTM thường ban hành các quy định nội bộ về cho vay (dưới hình thức quy chế cho vay, chính sách tín dụng, chỉ đạo tín dụng...) để áp dụng thống nhất trong toàn bộ hệ thống ngân hàng mình. Nhìn chung, các quy định này thường áp dụng đối với tất cả các khách hàng mà không phân biệt đối tượng khách hàng cụ thể. Tuy nhiên, các DNNVV là đối tượng khách hàng có nhiều yếu tố đặc thù, vì vậy, tại một số ngân hàng cũng có ban hành chính sách tín dụng riêng cho các doanh nghiệp này. Thực tế, đối với một số doanh nghiệp thuộc đối tượng này tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh yếu kém, dẫn đến quan hệ vay trả với ngân hàng không tốt nên các ngân hàng lại có yêu cầu khắt khe hơn đối với một số điều kiện (về hệ số nợ/vốn chủ sở hữu, lợi nhuận…). Song bên cạnh đó, các ngân hàng cũng cùng quan điểm chung xác định DNNVV là đối tượng khách hàng mục tiêu, khách hàng chiến lược và vẫn có sự ưu đãi đối với khách hàng này về trình tự thủ tục vay vốn, lãi suất vay vốn, tài sản bảo đảm linh hoạt... Chương 2 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, hiện tại chưa có một quy định chính thức của Nhà nước, NHNN riêng về việc cho vay đối với các DNNVV. Sự quan tâm nếu có trong việc cho vay đối với DNNVV chỉ nằm trong các chủ trương, chính sách tổng thể của Nhà nước đối với các đối tượng này. Trong thời gian qua, tiêu biểu cho chính sách tổng thể nêu trên là việc ban hành Nghị quyết 22/NQ-CP ngày 05/05/2010 về việc triển khai thực hiện Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 22/NQ-CP). Nhìn chung, Nghị quyết 22/NQ-CP đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ, ngành, địa phương trong việc xây dựng, ban hành, thực hiện một loạt các giải pháp tổng thể nhằm hỗ trợ DNNVV, tạo động lực cho các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mới, mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nó là tín hiệu thể hiện Chính phủ đã nhận thức rõ tầm quan trọng của khu vực DNNVV đối với nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, đó mới chỉ là giải pháp tổng thể, ở tầm chính sách vĩ mô, việc DNNVV có được hỗ trợ vay vốn hay không là phụ thuộc vào những quy định liên quan đến cấp tín dụng của NHTM đối với DNNVV. 2.1.1. Điều kiện cho vay Về điều kiện cho vay, trước tiên, DNNVV bắt buộc tuân thủ quy định về điều kiện vay vốn tại Quy chế cho vay đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định 1627/2001/QĐNHNN ngày 31/12/2001 của NHNN. Trong các điều kiện trên, khó khăn nhất đối với DNNVV là năng lực tài chính và phương án sản xuất kinh doanh, đây chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến các DNNVV khó tiếp cận vốn vay của Ngân hàng. Những vướng mắc mà ngân hàng thường gặp khi cho đối tượng các doanh nghiệp này vay là vốn kinh doanh của doanh nghiệp quá ít, dẫn đến vốn tự có tham gia vào dự án ít, rủi ro cho ngân hàng khi đầu tư là rất lớn. Theo một kết quả điều tra, trong số những doanh nghiệp không tiếp cận được vốn ngân hàng có tới 80% không đáp ứng đủ điều kiện để được vay vốn, không chứng minh được thực trạng tài chính của chính doanh nghiệp mình. 2.1.2. Trình tự, thủ tục vay vốn Tùy từng ngân hàng sẽ ban hành các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể phù hợp với điều kiện, đặc điểm và điều lệ của mình và cũng tùy từng ngân hàng sẽ được chủ động áp dụng các quy định khác nhau về trình tự, thủ tục cho DNNVV vay vốn. Thông thường, quy trình thẩm định, xét duyệt cho vay là giống nhau và được áp dụng chung với tất cả các khách hàng cùng loại (trình tự, thu tục vay vốn đối với khách hàng doanh nghiệp hoặc trình tự, thủ tục vay vốn đối với khách hàng cá nhân, hộ gia đình). 2.1.3. Phương thức cho vay Trong các phương thức cho vay thì đối với DNNVV áp dụng hai phương thức phổ biến nhất là cho vay theo hạn mức tín dụng (tổ chức tín dụng (TCTD) và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định) và cho vay đầu tư dự án (TCTD cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống). 2.1.4. Hợp đồng tín dụng và giải quyết tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng tín dụng Giống như các giao dịch thương mại khác, hình thức pháp lý của quan hệ cho vay của NHTM đối với các DNNVV được thể hiện thông qua Hợp đồng tín dụng. Do vậy, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về hoạt động cho vay của NHTM đối với DNNVV sẽ được thể hiện chủ yếu trong các nội dung cơ bản của Hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005. Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng trong trường hợp bên cho vay là các TCTD, trong đó chủ yếu là các ngân hàng. Theo đó ngân hàng là bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Hình thức pháp lý của những hoạt động cấp tín dụng khác như bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu giấy tờ có giá cũng được gọi chung là hợp đồng tín dụng và được thể hiện bằng các tên gọi Hợp đồng khác nhau là Hợp đồng cấp bảo lãnh, Hợp đồng chiết khấu, Hợp đồng cho thuê tài chính... Trong luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến các điều khoản của một Hợp đồng cho vay, bao gồm các nội dung sau: 2.1.4.1. Chủ thể vay vốn Theo quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP thì DNNVV là các cơ sở đã đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật và chia thành 3 cấp độ: siêu nhỏ, nhỏ và vừa. Như vậy, quy định này đã mở rộng các đối tượng là các DNNVV, có thể thuộc mọi thành phần kinh tế và mọi loại hình doanh nghiệp, chỉ cần "đã đăng ký kinh doanh" hợp pháp theo quy định của pháp luật và có nhu cầu vay vốn tại ngân hàng đều có thể trở thành chủ thể vay vốn. Thông thường, tại các NHTM, khi phân loại khách hàng vay vốn thì việc quy định về chủ thể vay vốn thế nào là DNNVV phụ thuộc vào quy định của pháp luật (hiện nay là Nghị định 56/2009/NĐ-CP), các ngân hàng không tự quy định ra một tiêu chí riêng để xác định đối tượng khách hàng là DNNVV cho riêng ngân hàng mình 2.1.4.2. Chủ thể cho vay vốn Chủ thể cho vay vốn đối với các DNNVV là các ngân hàng, bao gồm NHTM, Ngân hàng phát triển Việt Nam, Ngân hàng chính sách xã hội. Trong đó, Ngân hàng chính sách xã hội và Ngân hàng phát triển Việt Nam cho vay đối với các đối tượng ưu tiên và đối tượng theo chính sách đặc biệt. 2.1.4.3. Về lãi suất Lãi suất là một trong những điều khoản cơ bản trong hợp đồng tín. Như đã đề cập ở trên, khi vay vốn tại Ngân hàng phát triển Việt Nam, các DNNVV sẽ được ưu đãi lãi suất trong tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu khi vay vốn tại các NHTM, hiện tại, các DNNVV cũng được hỗ trợ về lãi suất. Trong năm 2009, Chính phủ ban hành các gói kích cầu để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam vượt qua giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu. Đối tượng áp dụng của các gói kích cầu này lần lượt bao gồm: doanh nghiệp vay vốn lưu động ngắn hạn phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh; doanh nghiệp, cá nhân vay vốn trung, dài hạn để sản xuất, kinh doanh; doanh nghiệp vay vốn phát triển khu vực nông thôn; người nghèo... Hầu hết đối với các doanh nghiệp vay ngắn hạn, trung dài hạn đều được hỗ trợ lãi suất với mức 4%/năm, thậm chí đối với gói kích cầu hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn thì mức hỗ trợ có thể lên tới 100%/năm. Liên quan đến lãi suất cho vay, khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, các DNNVV còn bị vướng mắc về quy định cho vay theo lãi suất thỏa thuận Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 12/2010/TT-NHNN hướng dẫn TCTD cho vay bằng VNĐ đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận. Các TCTD thực hiện cho vay bằng VND phải niêm yết công khai lãi suất cho vay ở mức hợp lý, trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay, tiết kiệm chi phí hoạt động, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận vốn vay để phát triển sản xuất - kinh doanh, nhất là khu vực nông nghiệp và nông thôn, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, vấn đề nào cũng có tính hai mặt. Bên cạnh tác động thuận chiều đối với các doanh nghiệp như trên còn có tác động ngược chiều khác. Để giải quyết nhu cầu vốn, ngân hàng buộc phải chấp nhận huy động vốn với lãi suất cao ngất ngưởng theo yêu cầu của người gửi. Trong khi đó, để huy động được một đồng, ngân hàng không thể cho vay ra một đồng mà còn phải trích lại cho việc dự trữ bắt buộc, dự phòng rủi ro, chi phí quản lý, chi phí hành chính... Như vậy chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và đầu ra phải từ 4-5% thì ngân hàng mới có lãi. Hệ quả có việc lãi suất chênh lệch này dẫn đến việc mức nhảy vọt của lãi suất đang khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, đặc biệt đối với các DNNVV. 2.1.4.4. Về bảo đảm tiền vay Trên thực tế, có thể nói, tài sản bảo đảm là một vấn đề "nhức nhối" đối với DNNVV khi vay vốn tại NHTM, vì đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu các ngân hàng rất "ngại" cho các DNNVV vay vốn. Hầu hết tài sản bảo đảm của các DNNVV là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, nhưng quyền sử dụng đất của các DNNVV thường là đất thuê (trả tiền một lần hoặc trả tiền hàng năm), trong đó doanh nghiệp sử dụng đất thuê trả tiền hàng năm chiếm số lượng lớn trong các khách hàng vay vốn ngân hàng. Do vậy, theo quy định của pháp luật đất đai (Luật Đất đai) thì DNNVV chỉ có thể thế chấp được tài sản gắn liền với đất (bao gồm trụ sở doanh nghiệp, nhà xưởng...). Bên cạnh đó, hồ sơ tài sản bảo đảm là bất động sản thường không đủ tính hợp lệ, hợp pháp (thiếu giấy phép xây dựng, giấy chứng nhận quyền sở hữu...), hoặc tài sản là máy móc thiết bị, phương tiện vận tải thì lại cũ kỹ, lạc hậu... Do vậy, các ngân hàng thường không mấy mặn mà và không yên tâm khi thẩm định tài sản bảo đảm của DNNVV. Để tháo gỡ khó khăn cho các DNNVV về vấn đề trên, nhằm tạo điều kiện cho DNNVV vay vốn ngân hàng, Nhà nước đã có chủ trương hỗ trợ DNNVV bằng việc ban hành Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 ban hành Quy chế bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn của NHTM (sau đây gọi tắt là Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg) và Quyết định số 60/2009/QĐ-TTg ngày 17/04/2009 sửa đổi bổ sung một số điều của Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg (sau đây gọi tắt là Quyết định số 60/2009/QĐ-TTg). Có thể nói, Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã "mở đường" cho việc vay tín chấp của DNNVV tại các NHTM. Tuy nhiên, loại hình vay này phụ thuộc nhiều vào uy tín của doanh nghiệp. Việc ban hành Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg là để "phối hợp" với chương trình kích cầu của Chính phủ với các gói hỗ trợ lãi suất. Để được hỗ trợ lãi suất, các doanh nghiệp phải được ngân hàng chấp thuận cho vay, mà muốn được chấp thuận cho vay một trong các điều kiện là phải có tài sản bảo đảm nhưng hầu hết các DNNVV không đáp ứng được yêu cầu này. Do vậy, Quyết định số 60/2009/QĐ-TTg là để giải quyết vấn đề trên. Giải pháp thì là như vậy, tuy nhiên, vấn đề vẫn tồn tại giữa VDB và các NHTM và doanh nghiệp. Khi thực hiện cho vay, NHTM vẫn thẩm định dự án vay vốn và phải chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của mình, đảm bảo hoàn chi phí và phát sinh lợi nhuận, trong khi đó, tài sản bảo đảm của doanh nghiệp lại do VDB quản lý mà không phải là các NHTM, điều kiện bảo đảm vốn vay của NHTM là bảo lãnh của VDB. Thực tế cho thấy, các NHTM đều rất "ngại" cho doanh nghiệp vay vốn có bảo lãnh của VDB, vì cơ chế bảo lãnh của VDB có nhiều điểm bất lợi, "bất bình đẳng" cho các NHTM. Bảo lãnh của Ngân hàng phát triển Việt Nam theo Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg là một giải pháp tình thế sau khủng hoảng và cùng với chủ trương kích cầu của Chính phủ, do vậy không tránh khỏi những vướng mắc, bất cập. Tuy nhiên, về lâu dài, hỗ trợ cho các DNNVV là hình thành một Quỹ bảo lãnh tín dụng. Đương nhiên, để Quỹ này hoạt động hiệu quả thì cần phải có cơ chế thành lập và hoạt động hợp lý. 2.1.4.5. Vấn đề vô hiệu của Hợp đồng tín dụng Trong thực tế cấp tín dụng cho thấy, trong quan hệ cho vay của ngân hàng với các DNNVV có thể phát sinh vấn đề vô hiệu của Hợp đồng tín dụng trong các tình huống sau: Vô hiệu do vi phạm quy định của pháp luật: Trong Bộ luật Dân sự năm 2005, khoản 1 Điều 476 quy định, lãi suất vay trong các hợp đồng vay tài sản, bao gồm cả các hợp đồng tín dụng, do các bên thỏa thuận, nhưng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố với loại cho vay tương ứng. Trên thực tế, lãi suất cho vay của các NHTM được hình thành trên cơ sở thoả thuận với khách hàng, cộng với chi phí và tỷ lệ rủi ro, dẫn đến việc các ngân hàng có nhiều khả năng cho vay khách hàng với lãi suất vượt quá giới hạn như quy định trên. Khi tranh chấp xảy ra, các TCTD có thể không thu được tiền lãi từ hợp đồng tín dụng có mức lãi suất cho vay vượt quy định và thoả thuận cho vay có thể bị vô hiệu hoá. Để giải quyết tình trạng này, NHNN ban hành Thông tư số 12/2010/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 14/4/2010 để hướng dẫn các TCTD cho vay theo lãi suất thoả thuận. Tuy nhiên, Thông tư 12/2010/TT-NHNN chưa giải thích, hay nói cách khác, không hướng dẫn tiêu chí cho việc đánh giá một dự án, phương án sản xuất-kinh doanh là có hay không có hiệu quả. Bởi vậy, dễ sinh ra tranh chấp hợp đồng tín dụng, dễ làm cho các TCTD phạm luật. Chẳng hạn, một dự án đầu tư mang lại một tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu là 11,5 %/năm, lúc khác đã có thể được xem là "có hiệu quả", nhưng lúc này thì chưa hẳn vì nếu không đầu tư mà đem tiền gửi vào ngân hàng cũng được một số lãi tương đương. Nên, nếu trừ chi phí cơ hội thì dự án thành không có hiệu quả. Hoặc như khoản vay của các doanh nghiệp hiện tại đang làm ăn không có lợi nhuận, thua lỗ,... Vi phạm về chủ thể ký kết Hợp đồng không đủ năng lực ký kết (về thẩm quyền ký kết): Hợp đồng tín dụng có thể bị tuyên bố vô hiệu toàn bộ khi bên vay là đối tượng bị cấm cho vay hoặc trong trường hợp loại cho vay bị cấm. 2.1.4.6. Giải quyết tranh chấp phát sinh Các DNNVV trong quá trình hoạt động sản xuất có thể bị thua lỗ dẫn đến không có khả năng trả nợ, còn Ngân hàng thì tìm mọi cách để đòi được tiền, dẫn đến tranh chấp phát sinh. Trong thực tế cho thấy, tài sản bảo đảm là một trong những vấn đề khó khăn nhất cho DNNVV khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Do vậy, khi doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ, từ đó phát sinh chủ ý vi phạm các cam kết thỏa thuận với Ngân hàng, dẫn đến tranh chấp phát sinh là điều không tránh khỏi. 2.2. Thực tiễn cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại một số ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam Để đưa nguồn vốn lớn hơn vào các DNNVV, nhiều ngân hàng đã xây dựng chiến lược cho vay vốn riêng dành cho các đối tượng này như xây dựng cơ chế ưu đãi hơn so với vay bình thường, thủ tục đảm bảo tiền vay linh hoạt, cho phép doanh nghiệp được thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay. Điển hình là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã xây dựng và ban hành một quy định riêng về Chính sách đối với DNNVV (Quyết định 6366/QĐ-PTSP ngày 19/11/2008 Chính sách khách hàng đối với DNNVV của Ngân hầng Đầu tư và Phát triển Việt Nam), cụ thể như sau: Xuất phát từ chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước trong việc phát triển các DNNVV, định hướng mở rộng, phát triển cho vay, tài trợ đối với DNNVV, đồng thời hướng đến mục tiêu trở thành NHTM bán lẻ hiện đại, dẫn đầu trong việc cung ứng tín dụng, dịch vụ cho các DNNVV, ngày 03/11/2008, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã công bố thông tin về chương trình chính sách hỗ trợ các DNNVV. Thời gian qua, BIDV đã có chính sách chia sẻ khó khăn đối với các doanh nghiệp như giảm lãi suất cho vay, giảm phí, thực hiện cơ chế linh hoạt về tài sản bảo đảm... Đối với các chính sách hỗ trợ tín dụng đối với DNNVV, BIDV đã: - Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt: trên cơ sở lãi suất cơ bản từng thời kỳ, áp dụng cơ chế lãi suất ưu đãi đối với các DNNVV, đảm bảo mức lãi suất cho vay đối với các DNNVV thấp hơn từ 0,5% - 1%/năm so với mức lãi suất cho vay thông thường. - Đa dạng hoá các hình thức cấp tín dụng: Đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, như chương trình hoán đổi tiền tệ chéo VND-USD, chiết khấu bộ chứng từ… - Áp dụng biện pháp bảo đảm linh hoạt: bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, nguyên vật liệu tồn kho, quản chấp lô hàng… phù hợp với từng lĩnh vực ngành nghề kinh doanh và xếp hạng doanh nghiệp. - Cho vay kết hợp với góp vốn đầu tư, liên doanh, liên kết với DNVVN: hình thức này vừa tạo điều kiện mở rộng tín dụng, vừa giúp Ngân hàng có điều kiện xâm nhập thị trường, trực tiếp giám sát, quản lý vốn cho vay. Hình thức này là rất hiệu quả và cũng nằm trong khả năng đầu tư, quản lý của Ngân hàng vì các DNVVN thường có quy mô về vốn và phạm vi hoạt động không lớn. - Để hỗ trợ các DNNVV trong hoạt động sản xuất kinh doanh, BIDV sẽ dành riêng nguồn vốn với lãi suất hợp lý để hỗ trợ tín dụng (tăng dư nợ ròng) đối với các DNNVV trong giai đoạn tới. Bên cạnh đó, Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank), là ngân hàng được các tổ chức trong và ngoài nước lựa chọn hợp tác và ghi nhận là ngân hàng tiên phong trong phục vụ DNNVV. Được biết, Incombank là đại diện ngân hàng duy nhất của Việt Nam tham gia tổ chức tài chính APEC tài trợ cho DNNVV. Trong nội dung hoạt động của mình, tổ chức tài chính quốc tế này cam kết sẽ đẩy mạnh hợp tác trên cả hai lĩnh vực: tài chính và kỹ thuật nhằm tài trợ phát triển các DNNVV (trong đó có các doanh nghiệp Việt Nam), bao gồm cho vay trực tiếp, gián tiếp, tạo điều kiện thuận lợi về các khoản cho vay, góp vốn liên doanh, đồng tài trợ để các doanh nghiệp có thể tiếp cận các nguồn vốn dài hạn. Ngoài ra, còn một số ngân hàng đẩy mạnh việc cho vay đối với DNNVV thông qua ưu đãi về lãi suất. NHTM cổ phần Liên Việt (LienVietBank) bên cạnh việc ưu tiên giảm lãi suất cho khách hàng là DNNVV còn xây dựng đề án hỗ trợ cho DNNVV với mục tiêu phấn đấu trở thành ngân hàng cổ phần thân thiết với đối tượng khách hàng này, hiện tổng dư nợ cho DNNVV tại LienVietBank chiếm khoảng 50%. Ngoài ra, Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế (VIB Bank) cũng xác định DNNVV là đối tượng trọng tâm và có ưu tiên tín dụng tại VIB, trong đó dư nợ cho vay các DNNVV luôn được duy trì ở mức trên 50% tổng dư nợ của ngân hàng. (Text: TBKTSG Online). Bên cạnh các NHTM trong nước, DNNVV hiện cũng là đối tượng khách hàng được quan tâm của những ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Ngân hàng HSBC đã cho ra đời sản phẩm ngân hàng trọn gói dành riêng cho khối DNNVV với lý do đây là nhóm khách hàng tiềm năng mà họ muốn tập trung phát triển trong thời gian tới. Như vậy, có thể nói rằng, chủ trương, chính sách để hỗ trợ cho DNNVV thì có, các chủ trương này cũng được cụ thể hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật (về trợ giúp DNNVV, hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh vay vốn...). Không thể phủ nhận các quy định trên đã có những hỗ trợ nhất định để các DNNVV có điều kiện thuận lợi trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên, các giải pháp chưa có tính tổng thể, dài hơi và toàn diện để tạo hiệu quả và sức bật cho doanh nghiệp. Điều quan trọng hơn là cần phải nghiên cứu để có giải pháp đồng bộ, thống nhất hỗ trợ DNNVV, tạo môi trường, điều kiện để doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trường, xúc tiến thương mại, nâng cao trình độ kỹ thuật, cải thiện hạ tầng và đặc biệt là hệ thống pháp luật thông thoáng, ổn định và hợp lý. Riêng về vấn đề tiếp cận vốn vay ngân hàng, vấn đề đặc biệt quan trọng của DNNVV thì hiện nay đang thiếu một quy định tổng thể và chính thức về việc cho vay đối với các DNNVV. Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 3.1. Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện Nghị định 56/2009/NĐ-CP Cần phải tiếp tục hoàn thiện khái niệm DNNVV. Sự phân định càng cụ thể sẽ càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, hỗ trợ của nhà nước. Điều 3 của Nghị định số 56/2009/NĐ-CP định nghĩa DNNVV như sau: "là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)". Kết hợp với bảng phân loại, có thể thấy theo Nghị định, DNNVV được phân chia dựa theo các tiêu chí: Quy mô về vốn, quy mô về số lao động và khu vực, trong đó quy mô về nguồn vốn được chú trọng. Đây cũng chính là sự bất hợp lý trong phân loại. Bởi lẽ, tổng nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn của chủ sở hữu và vốn huy động dưới các hình thức khác nhau. Trong khi vốn chủ sở hữu là tương đối ổn định, được ghi nhận trong điều lệ doanh nghiệp và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì vốn huy động lại thường xuyên biến động. Do đó, tổng nguồn vốn này của doanh nghiệp cũng thường xuyên biến động. Vì vậy, hôm nay, một doanh nghiệp được xếp vào loại doanh nghiệp nhỏ nhưng ngay ngày mai có thể đã trở thành doanh nghiệp vừa và ngược lại. Sự phân biệt thành doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa là để thực hiện các chính sách trợ giúp cho phù hợp. Triển khai cụ thể các giải pháp trợ giúp phát triển DNNVV: Xây dựng cơ chế tổ chức và hoạt động Quỹ hỗ trợ phát triển DNNVV, Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV. Riêng đối với Quỹ bảo lãnh tín dụng cần phải xây dựng cơ chế tổ chức và hoạt động mới trên cơ sở khắc phục những vướng mắc trong quy định cũ về cơ chế tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng được thành lập theo Quyết định 193/2001/QĐ-TTg. Cải cách mô hình tổ chức, hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng để phát huy vai trò của tổ chức này trong việc giúp các tiếp cận dễ dàng hơn nữa với các nguồn vốn. Quỹ bảo lãnh tín dụng phải là một tổ chức tài chính hoạt động theo cơ chế thị trường, hoàn thiện chính sách đối với Quỹ bảo lãnh tín dụng theo hướng: không quy định mức vốn điều lệ chung cho mọi Quỹ bảo lãnh, nên chia theo nhiều mức khác nhau theo từng khu vự; cụ thể hóa quyền lợi và trách nhiệm của tổ chức góp vốn thành lập Quỹ, các điều kiện được bảo lãnh và mức vốn được bảo lãnh, chế độ giám sát hoạt động của Quỹ… Về vấn đề nguồn vốn của Quỹ, muốn Quỹ bảo lãnh tín dụng được hoạt động hiệu quả và đi vào cuộc sống cần phải cơ cấu lại theo hướng vốn chủ yếu của Quỹ phải hình thành từ ngân sách nhà nước và sự hỗ trợ của các nhà tài trợ, hàng năm bổ sung nguồn vốn cho Quỹ bảo lãnh tín dụng từ nguồn ngân sách Nhà nước, nguồn của các định chế tài chính trong và ngoài nước… Trong đó, nếu vẫn cần nguồn vốn góp từ các ngân hàng thì phải xác định rõ quyền lợi mà ngân hàng đạt được khi phải bỏ một nguồn vốn lớn vào Quỹ. Cụ thể, đi kèm theo khoản vốn mà ngân hàng sẽ góp vào, quyền lợi mà họ được nhận trong điều hành hoạt động của quỹ như thế nào, lợi ích mà họ nhận được từ việc khoản tiền đóng góp đó được hạch toán ra sao, …? Về cơ chế hoạt động của Quỹ: Quỹ chỉ thực hiện bảo lãnh cho các DNNVV và hạn chế trong một số loại bảo lãnh. Quỹ hoạt động độc lập, không thực hiện hình thức uỷ thác hoặc giao cho các tổ chức tài chính khác. Cán bộ làm việc tại Quỹ phải là cán bộ chuyên trách, trừ một số thành viên hội đồng quản lý (thực tế hiện nay chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm). 3.2. Xây dựng cơ chế cho vay của ngân hàng thƣơng mại đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Qua nghiên cứu, tác giả luận văn xin đề xuất về cơ chế cho vay đối với DNNVV như sau: Về nguyên tắc cho vay: Viê ̣c cho vay các DNNVV phải bảo đảm nguyên tắ c sau : - NHTM thực hiê ̣n cho vay trên nguyên t ắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư. - Thực hiện cơ chế bảo đảm tiền vay theo quy định hiện hành và xác định mức cho vay không có bảo đảm đối với từng đối tượng cụ thể, phù hợp với đặc điểm kinh doanh của khách hàng và khả năng quản lý rủi ro của NHTM. Các NHTM thông báo công khai mức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, điều kiện, thủ tục cho vay cụ thể trên cơ sở tuân thủ các quy định hiện hành về cho vay của NHTM đối với khách hàng. - Các ngân hàng, tổ chức tài chính thực hiện cho vay các đối tượng chính sách và các chương trình kinh tế theo chỉ định của Chính phủ, được Chính phủ bảo đảm các điều kiện để thực hiện thông qua các chính sách đối với DNNVV trong từng thời kỳ. Về đối tượng vay vốn Để bảo đảm cơ chế hỗ trơ ̣ DNNVV đươ ̣c đồ ng bô ̣ và tổ ng thể về mo ̣i mă ̣t (về mă ̣t bằ ng sản xuấ t , chính sách thuế , đa ̣o ta ̣o, công nghê ,̣ thị trường… ) thì cơ chế cho vay đối với các DNNVV cũng nên áp du ̣ng đố i với các DNNVV đươ ̣c xác đinh theo tiêu chí xác đinh ̣ ̣ DNNVV của Chính phủ theo từng thời kỳ (hiện nay theo quy định tại Điều 3 Nghị định 56/2009/NĐ-CP). Về điều kiện vay vốn: Về cơ bản, khi vay vố n ta ̣i các NHTM thì DNNVV vẫn phải tuân thủ các điều kiện bắt buộc theo quy định tại Quy chế cho vay của NHNN . Tuy nhiên, nên có cơ chế hỗ trơ ̣ đố i với các DNNVV về điề u kiê ̣n phải có phương án sản xuất kinh doanh phương án vay vố n khả thi, hiê ̣u , quả, phù hợp với quy định của pháp luật. NHNN có thể quy định các NHTM hỗ trơ ̣ tư vấn tài chính cho các DNNVV . Bên ca ̣nh đó , cầ n có các quy đi nh cu ̣ thể hỗ trợ về thuế để doanh nghiệp trung thực hơn ̣ khi đưa ra bản báo cáo tài chính của mình. Làm được điều này vừa giúp ngân hàng vừa giúp doanh nghiệp cùng nhìn nhận thực tế và đưa ra phương thức kinh doanh hiệu quả cho cả hai bên. Về nguồn vốn cho vay: - Nguồn vốn huy động của các NHTM và các tổ chức cho vay khác; - Vốn vay, vốn nhận tài trợ, uỷ thác của các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước; - Nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ cho vay DNNVV; - Vốn vay NHNN: căn cứ mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ và yêu cầu phát triển kinh tế trong từng thời kỳ, NHNN có chính sách hỗ trợ nguồn vốn cho các NHTM thông qua việc sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Về bảo đảm tiền vay Mô ̣t số nô ̣i dung đề xuấ t về cơ chế bảo đảm tiề n vay như sau: - NHTM đa da ̣ng hơn nữa các hình thức bảo đảm tín du ̣ng để thích ứng với đă ̣c điể m của các DNNVV. - NHTM đươ ̣c quyề n chủ đô ̣ng quy đinh , xem xét cho khách hàng vay trên cơ sở có bảo ̣ đảm hoặc không có bảo đảm bằng tài sản theo quy định hiện hành. - NHTM mở rô ̣ng diê ̣n cho vay bằ ng tài sản hinh thành từ vố n vay và cho vay không có ̀ tài sản bảo đảm , quy định rõ mức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, điều kiện và thủ tục cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với từng đối tượng doanh nghiê ̣p, phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành về cho vay của NHTM đối với khách hàng. - Căn cứ vào đặc thù cho vay đối với DNNVV, các NHTM hướng dẫn cụ thể quy trình thực hiện bảo đảm tiền vay đối với các doanh ng hiê ̣p vay vố n theo hư ớng đơn giản và thuận tiện. Về lãi suất cho vay Cơ chế lãi suất linh hoạt , lãi suất thoả thuận trên nguyên tắc DNNVV được ưu tiên giảm lãi suất, tùy từng dự án (nhấ t là đố i với những dự án đươ ̣c ưu tiên ) có thể cho DNNVV đươ ̣c hưởng lai suấ t cho vay (ưu tiên) cố đinh trong suố t vòng đời của dự án . Bộ Tài chính, NHNN ̣ ̃ có cơ chế phối hợp để cấp bù chênh lệch lãi suất đối với đối tượng này. Về thời hạn cho vay Thời ha ̣n cho vay xác đinh theo thời gian luân chuyể n vố n, khả năng hoàn vốn của dự án, ̣ phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, NHTM và khách hàng thỏa thuận thời hạn vay vốn phù hợp, đố i với những dự án lớn, thời gian vay vố n dài, NHTM ưu tiên cho các DNNVV có thời gian ân hạn từ 2 năm đế n 4 năm. Về xử lý rủi ro NHTM thực hiện xử lý rủi ro cho vay DNNVV từ nguồn dự phòng rủi ro của NHTM. Trường hợp phát sinh rủi ro trên diện rộng do các nguyên nhân khách quan, vượt quá khả năng của NHTM, Nhà nước xem xét có chính sách hỗ trợ tài chính để xử lý, tạo điều kiện cho cả doanh nghiệp và ngân hàng tiếp tục quan hệ tín dụng. 3.3. C¸c gi¶i ph¸p chung 3.3.1. Về phía Chính phủ Thứ nhất, Chính phủ củng cố và phát triển các Quỹ bảo lãnh tín dụng ở các địa phương tạo điều kiện cho các DNNVV trong vay vốn. Thứ hai, giảm thiểu các thủ tục hành chính theo xu hướng áp dụng rộng rãi và tăng cường vai trò của dịch vụ công trong các lĩnh vực: đăng ký tài sản, công chứng hợp đồng, đăng ký giao dịch bảo đảm, định giá tài sản bảo đảm. Thứ ba, Các cơ quan có thẩm quyền hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc xúc tiến thương mại, tìm kiếm cơ hội kinh doanh, dự báo thị trường để nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Thứ tư, tiếp tục thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các DNNVV cho giai đoạn 2009 - 2013, tổ chức các lớp đào tạo cho các DNNVV về công tác tổ chức quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh trong xu thế hội nhập, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV học tập kinh nghiệm ở nước ngoài. Thứ năm, hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến bảo đảm tín dụng, cơ chế xử lý tài sản bảo đảm theo hướng: minh bạch hoá cơ chế và quá trình xử lý; tạo ra thế cân bằng về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, không quá thiên lệch về bảo vệ quyền lợi của một bên nào; Thứ sáu, phát huy vai trò của Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp có liên quan trong việc tăng cường phổ biến, tuyên truyền và đào tạo pháp luật cho các doanh nghiệp, trong đó có DNNVV để họ được tăng cường năng lực nhằm thích ứng tốt hơn với thời kỳ mới. 3.3.2. Đối với các tỉnh/thành phố - Cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV trong việc thành lập, đăng ký kinh doanh, lập/thực hiện dự án đầu tư... - Hỗ trợ về thủ tục cấp/cho thuê đất, giải phóng mặt bằng, miễn giảm tiền thuê đất, miễn miễn giảm thuế… Đồng thời thực hiện tốt công tác quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch các khu/cụm công nghiệp tạo điều kiện (nhất là điều kiện về mặt bằng đầu tư) cho các Doanh nghiệp đầu tư dự án cũng như duy trì, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. - Có kế hoạch phát triển kinh tế, tạo môi trường phát triển sản xuất kinh doanh ổn định cho các DNNVV. - Tăng cường công tác quản lý, giám sát hoạt động của các DNNVV. 3.3.3. Đối với Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa - Sớm thực hiện việc phân tích, đánh giá, phân loại các doanh nghiệp trong hiệp hội để Ngân hàng có chính sách hỗ trợ phù hợp đối với từng nhóm khách hàng. - Triển khai các công việc theo thoả thuận hợp tác giữa BIDV và Hiệp hội góp phần nâng cao hiệu quả hợp tác giữa Ngân hàng và doanh nghiệp. 3.3.4. Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa - Chấp hành nghiêm chỉnh Luật doanh nghiệp, Luật kế toán và các quy định về tài chính, kế toán của Nhà nước, thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm, cung cấp thông tin báo cáo chính xác và kịp thời cho các TCTD khi có yêu cầu. - Rà soát, cải tổ hệ thống quản lý, tạo ra sự minh bạch đến mức cao nhất trong quản lý điều hành doanh nghiệp; cải cách triệt để phương thức quản lý doanh nghiệp; tăng cường hơn nữa sự hợp tác liên doanh, liên kết nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh - Sử dụng vốn vay ngân hàng đúng mục đích, tuân thủ các nội dung trong Hợp đồng tín dụng. - Phối hợp với Ngân hàng trong việc thẩm định kiểm tra trước trong và sau khi cho vay. Thiện chí, hợp tác với Ngân hàng trong việc xử lý tài sản bảo đảm. - Đổi mới và nâng cao trình độ quản trị điều hành doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. - Không ngừng đổi mới công nghệ, nắm bắt thông tin, chú trọng các sản phẩm hàng hoá làm ra phải có tính cạnh tranh và thị trường tiêu thụ. - Tích cực chủ động tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính, ngân hàng đặc biệt là các dịch vụ tư vấn hỗ trợ về quản lý tài chính, lập dự án kinh doanh. KẾT LUẬN Ngân hàng Thế giới gọi DNVVN là "xương sống" của nền kinh tế. Tại Việt Nam, trong giai đoa ̣n hiê ̣n nay, khu vực DNVVN ngày càng thể hiê ̣n đươ ̣c vai trò của minh và ch chắn là ắc ̀ một trong những nòng cốt xây dựng và phát triển đất nước. Đối với các ngân hàng, DNNVV là đối tượng khách hàng tiềm năng và đều là mục tiêu để các ngân hàng hướng đế n để tăng thi ̣ phầ n cho vay đố i với các khách hàng này . Thực chất, chính sự ổn định và phát triển của các khách hàng (trong đó phầ n lớn là khách hàng doanh nghiệp ) sẽ bảo đảm cho hệ thống NHTM phát triển bền vững. Vì vậy, các ngân hàng cũng hết sức quan tâm đến hành lang pháp lý để làm cơ sở cho các ngân hàng ưu tiên hỗ trợ tín dụng cho các DNNVV. Các DNNVV Việt Nam hiện đang trong quá trình hoàn thiện và phát triển, sẽ còn một quãng đường dài để có thể khẳng định vị thế trên thị trường trong nước và quốc tế. Để có thể phát triển được khối DNNVV, đẩy mạnh cho vay đối với DNNVV và vốn tín dụng thực sự đem lại hiệu quả thì cần có giải pháp động bộ từ nhiều bên liên quan như cơ quan nhà nước, ngân hàng , doanh nghiệp ... Trong các yếu tố đó thì môi trường pháp lý là đặc biệt quan trọng. Mặc dù hiện nay đã có các chính sách , quy định để ưu đãi tín dụng cho DNNVV nhưng về cơ bản các quy đinh đó chưa thống nhất , tản mạn và chưa thật sự hợp lý hoặc chỉ có tính ̣ thời điểm . Vì vậy, chúng ta có thể và cần thiết xây dựng một quy định về cho vay đối với khách hàng là DNNVV để tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận với vốn vay ngân hàng thực sự hiệu quả, NHTM thì có cơ sở pháp l ý, an tâm hỗ trơ ̣ tín du ̣ng cho các DNNVV , thực hiện mục tiêu DNNVV là khách hàng thân thiết tiềm năng của minh. ̀ Do tầm nhìn và hiểu biết của người viết còn hạn chế, do vậy, luận văn không thể tránh khỏi các sai sót. Tuy nhiên, tác giả cũng hi vọng những ý kiến, giải pháp kiến nghị sẽ được quan tâm và phần nào đóng góp để hoàn thiện các quy định của pháp luật về việc cho vay đối với đối tượng này, một mặt thúc đẩy sự phát triển của DNNVV, một mặt tạo điều kiện cho các ngân hàng tập trung vào đối tượng khách hàng tiềm năng và hiệu quả. References 1. Nguyễn Ngo ̣c Bình (2006), "Vai trò của Ngân hàng hỗ trơ ̣ doanh nghiê ̣p khu chế xuấ t, khu công nghiê ̣p trong đầ u tư và phát triể", Ngân hàng, (9). n 2. Chính phủ (2001), Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Hà Nội. 3. Chính phủ (2001), Quyết định số 193/QĐ-TTg ngày 20/12 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, Hà Nội. 4. Chính phủ (2006), Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12 về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, Hà Nội. 5. Chính phủ (2008), Nghị định số 106/2008/NĐ-CP ngày 19/09 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, Hà Nội. 6. Chính phủ (2009), Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng thương mại, Hà Nội. 7. Chính phủ (2009), Quyết định số 131/2009/QĐ-TTg ngày 23/01 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh, Hà Nội. 8. Chính phủ (2009), Quyết định số 443/2009/QĐ-TTg ngày 04/4 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn ngân hàng để thực hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất- kinh doanh, Hà Nội. 9. Chính phủ (2009), Quyết định số 497/2009/QĐ-TTg ngày 14/4 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ lãi suất vay vốn mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn, Hà Nội. 10. Chính phủ (2009), Quyết định số 60/2009/QĐ-TTg ngày 17/4 của Thủ tướng Chính phủ 11. 12. 13. 14. 15. 16. 17. 18. 19. 20. 21. 22. 23. 24. 25. 26. 27. 28. 29. sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng thương mại, Hà Nội. Chính phủ (2009), Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6 về trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa, Hà Nội. Chính phủ (2010), Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 05/05 về việc triển khai thực hiện Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Hà Nội. Đặng Thị Phương Diễm (2008), "Các hình thức gian lận phổ biến trong hoạt động cấp tín dụng", Thị trường tài chính tiền tệ, (19). "Doanh nghiệp nhỏ và vừa - Gian nan tìm vốn ưu đãi" (2006), Báo Lao động, ngày 06/11. "Doanh nghiệp nhỏ và vừa cầ n trơ ̣ lực ma ̣nh mẽ hơn(2010), dddn.com.vn, ngày 09/7. " "Doanh nghiệp nhỏ và vừa kêu go ̣i hỗ trơ ̣ " (2008), vneconomy.vn, ngày 5/10. Nguyễn Đăng Dờn (2009), Tiền tệ ngân hàng, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Thị Dung (Chủ biên), Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư (những vấn đề pháp lý cơ bản), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Đình Định (Chủ biên) (2007), Những quy định của pháp luật về hoạt động tín dụng, Nxb Tư pháp, Hà Nội. "Ít doanh nghiệp nhỏ và vừa được vay từ nguồn chính thức" (2009), sgtt.com.vn, ngày 24/3. "Kêu trời vì lãi suất thỏa thuận" (2010), Báo Người Lao động, ngày 4/4. "Khó lập Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa" (2005), Hotrodoanhnghiep.gov.vn, ngày 22/8. Phạm Xuân Lập (2009), "Tăng cường cơ hội tiếp cận vốn ngân hàng của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Vietinbank", Ngân hàng, (3). Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2006), Quyế t đi ̣nh số 8598/QĐ- BNC ngày 20/10 của Tổng Giám đốc ban hành hệ thống xếphạn tín dụng nội bộ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Hà Nội. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2008), Quy định số 6366/QĐ-PTSP ngày 19/11 của Tổng Giám đốc quy định về chính sách khách hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Hà Nội. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2008), Quy định số 3979/QĐ-PC ngày 13/7 của Tổng Giám đốc về giao dịch bảo đảm trong cho vay và Quy định số 6020/QĐ-PC ngày 20/10 sửa đổi , bổ sung tại Quy định 3979/QĐ-PC ngày 13/07 về giao di ̣ch bảo đảm trong cho vay, Hà Nội. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2009), Quyết định số 0658/QĐ-QLTD1 ngày 15/7 của Hội đồng quản trị ban hành chính sách cấp tín dụng đối với khách hàng doanh nghiê ̣p, Hà Nội. Ngân hàng Nhà nước (2001), Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12 ban hành Quy chế cho vay đối với khách hàng, Hà Nội. Ngân hàng Nhà nước (2005), Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4 về Phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, Hà Nội. 30. Ngân hàng Nhà nước (2009), Thông tư số 02/2009/TT-NHNN ngày 02/3 về việc quy định 31. 32. 33. 34. 35. 36. 37. 38. 39. 40. 41. 42. 43. 44. 45. 46. 47. 48. chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh, Hà Nội. Ngân hàng Nhà nước (2009), Thông tư số 12/2009/TT-NHNN ngày 28/5 hướng dẫn một số nội dung trong cho vay có bảo lãnh của Ngân hàng Phát triển Việt Nam theo Quy chế bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn của Ngân hàng thương mại ban hành theo Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg và Quyết định số 60/2009/QĐ-TTg, Hà Nội. Ngân hàng Nhà nước (2009), Thông tư số 05/2009/TT-NHNN ngày 04/7 quy định chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn ngân hàng để thực hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất- kinh doanh, Hà Nội. Ngân hàng Nhà nước (2010), Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4 hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng Việt Nam đồng đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận, Hà Nội. Ngân hàng Nhà nước và Tổ chức hơ ̣p tác kỹ thuâ ̣t Đức (2008), Pháp luật về Ngân hàng Trung ương và Ngân hàng thương mại một số nước trên thế giới , Nxb Lao đô ̣ng xã hô ̣i , Hà Nội. Lê Đinh Nghi ̣(Chủ biên) (2009), Giáo trình Luật Dân sự, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nội. ̀ Phạm Duy Nghĩa (Chủ biên) (2004), Sách chuyên khảo Luật kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Quốc hội (1997), Luật các tổ chức tín dụng, Hà Nội. Quốc hội (2004), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 1997, Hà Nội. Quốc hội (2005), Luật doanh nghiệp, Hà Nội. "Quỹ bảo lãnh tín dụng - cầ u nố i để doanh nghiê ̣p tiế p câ ̣n vố n ngân hàng " (2008), Atpnetnam.com, ngày 9/12. Trầ n Minh Sơn (2008), "Thực tiễn cơ chế bảo đảm tiề n vay đố i với doanh nghiệp nhỏ và vừa", Nghiên cứu lập pháp, (8). Đinh Văn Sơn (2009), Chính sách tài chính với phát triển xuất khẩu của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam (Sách chuyên khảo), Nxb Tài chính, Hà Nội. "Thách thức toàn cầu đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa khi tham gia chương trình ưu tiên đă ̣c biê ̣t" (2009), Custom.gov.vn, ngày 25/02. Lê Văn Thi ̣nh (2008), "Cầ n linh hoa ̣t giải quyế t khó khăn về vố n đố i với doanh nghiê ̣p", Thị trường tài chính tiền tệ, (1). Lê Thi ̣Thu Thủy (2006), Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng (Sách chuyên khảo), Nxb Tư pháp, Hà Nội. Lê Thi ̣Thu Thủy và Nguyễn Anh Sơn (2002), Pháp luật điều chỉnh các biện pháp đảm bảo tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng , Đề tài khoa ho ̣c cấ p khoa, khoa Luâ ̣t, Đa ̣i ho ̣c Quố c gia Hà Nô ̣i. "Trung Quốc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa" (2009), Vietchinabusiness.vn, ngày 10/8. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất