Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở việt nam thực trạng và giải pháp...

Tài liệu Pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở việt nam thực trạng và giải pháp

.PDF
100
243
146

Mô tả:

MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHẤU TRỪ, HOÀN THUẾ GIÁ 6 TRỊ GIA TĂNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 1.1. Khái niệm, đặc điểm thuế giá trị gia tăng, khấu trừ và 6 hoàn thuế giá trị gia tăng 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thuế giá trị gia tăng 6 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng 12 1.2. Các nguyên tắc hoàn thuế giá trị gia tăng 18 1.3. Vai trò, ý nghĩa của hoàn thuế giá trị gia tăng 20 1.4. Nội dung của pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng 23 Chương 2: 27 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM 2.1. Đối tượng và các trường hợp hoàn thuế giá trị gia tăng 27 2.1.1. Đối tượng được hoàn thuế giá trị gia tăng 27 2.1.2. Các trường hợp hoàn thuế giá trị gia tăng 26 2.2. 34 Điều kiện khấu trữ, hoàn thuế giá trị gia tăng 2.2.1. Hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế 34 2.2.2. Thanh toán qua ngân hàng 35 2.3. Quy trình, thời hạn giải quyết hoàn thuế giá trị gia tăng 40 2.3.1. Quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng 40 2.3.2. Thời hạn giải quyết hoàn thuế giá trị gia tăng 45 2.4. 45 Hồ sơ, hóa đơn hoàn thuế giá trị gia tăng 2.4.1. Hồ sơ hoàn thuế giá trị gia tăng 45 2.4.2. Hóa đơn, chứng từ hoàn thuế giá trị gia tăng 54 2.5. Giải quyết tranh chấp về hoàn thuế giá trị gia tăng 61 Chương 3: 71 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM 3.1 Quan điểm hoàn thiện pháp luật về hoàn thuế giá trị gia 71 tăng ở Việt Nam 3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoàn thuế giá trị gia 74 tăng ở Việt Nam 3.2.1. Thu hẹp đối tượng hoàn thuế giá trị gia tăng 74 3.2.2. Về hóa đơn hoàn thuế giá trị gia tăng 77 3.2.3. Thanh toán qua ngân hàng 83 3.2.4. Về quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng 85 3.2.5. Phương thức giải quyết tranh chấp về hoàn thuế giá trị gia tăng 88 KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CCT : Chi cục thuế GTGT : Giá trị gia tăng TNHH : Trách nhiệm hữu hạn MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) lần đầu tiên được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 10/5/1997 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1999. Việc quy định thuế GTGT thay cho thuế doanh thu là một bước cải cách quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của Việt Nam. Tính đến nay, Luật đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Gần đây nhất, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XII, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 03/6/2008 đã thông qua Luật thuế GTGT, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Kể từ khi ban hành cho đến nay, thuế GTGT luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của xã hội, của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức, cá nhân. Thuế GTGT là một sắc thuế đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ. Điểm nổi bật của thuế GTGT là khắc phục được nhược điểm thu trùng lắp, chồng chéo qua nhiều khâu của thuế doanh thu. Khấu trừ là một đặc trưng cơ bản của thuế GTGT, qua cơ chế này các doanh nghiệp cũng thường lợi dụng để thực hiện những hành vi gian lận để chiếm đoạt tiền của Nhà nước thông qua việc khấu trừ và hoàn thuế. Tại Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ có quy định một giải pháp trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT là: "tạm hoàn 90% số thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa xuất khẩu trong trường hợp doanh nghiệp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán" [12]. Những chủ trương này của Nhà nước về hoàn thuế GTGT nhằm tác động và bảo đảm tính công bằng, bình đẳng cho các chủ thể nộp thuế; kích thích hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ; kích thích hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế đất nước nói chung. Hiệu 1 quả tích cực từ thuế GTGT cho thấy: thu ngân sách nhà nước tăng nhiều so với thuế doanh thu; hoạt động sản xuất, kinh doanh nội địa đã ngày càng phát triển mạnh mẽ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ khi xuất khẩu. Hoàn thuế GTGT là một chế định hết sức tiến bộ của Luật thuế GTGT. Tuy nhiên thời gian qua, lợi dụng những chủ trương, chính sách khuyến khích của Nhà nước, hàng loạt các hành vi vi phạm như: gian lận trong lập hồ sơ hoàn thuế, mua bán hóa đơn, chứng từ, xuất khẩu khống hàng hóa… nhằm chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT diễn ra ngày càng tinh vi, phức tạp, không ngừng gia tăng về tính chất và mức độ vi phạm của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và tổ chức, cá nhân đối với các quy định về hoàn thuế GTGT của Nhà nước. Những vi phạm này, đã hạn chế ưu điểm tích cực từ chính sách hoàn thuế GTGT, gây thiệt hại không nhỏ đến việc thu ngân sách nhà nước từ thuế. Đồng thời, làm giảm niềm tin của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp làm ăn chân chính đối với chính sách thuế của nước ta. Thực tiễn này đòi hỏi các nhà luật học cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hơn nữa pháp luật về hoàn thuế GTGT để chính sách này công bằng, bình đẳng hơn cho xã hội, cho các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đất nước. Chính những lý do kể trên, đã giúp học viên mạnh dạn chọn đề tài: "Pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" làm luận văn thạc sĩ. Với đề tài này, học viên mong muốn được tiếp tục nghiên cứu pháp luật về hoàn thuế GTGT, qua đó phân tích, đánh giá thực trạng nhằm tìm ra những hạn chế, bất cập và đưa ra các giải pháp về hoàn thuế GTGT ở Việt Nam, góp phần làm rõ chính sách thuế GTGT của Chính phủ. 2. Tình hình nghiên cứu Hiện nay, đã có nhiều đề tài tập trung tìm hiểu và nghiên cứu các vấn đề xung quanh các quy định pháp luật về hoàn thuế GTGT. Với tư cách là cơ 2 quan quản lý nhà nước về thuế, Bộ Tài chính - Tổng Cục thuế cũng đã tiến hành những nghiên cứu các quy định của các nước về hoàn thuế GTGT trước khi áp dụng chính sách hoàn thuế GTGT ở nước ta, cụ thể nghiên cứu về: Thực tiễn tại Pháp khi áp dụng Chỉ thị 2008/9/EC về các phương thức hoàn thuế GTGT cho các công ty thành lập tại một nước thành viên. Các quy định chính đã được quy định ở Đạo Luật tài chính 2010 của Pháp (Mục 102), quy định về nguyên tắc nộp đơn và thủ tục hoàn thuế GTGT. Báo cáo khảo sát về hoàn thuế GTGT của Đức khi quy định về thủ tục hoàn thuế GTGT tại Đức áp dụng cho các doanh nhân Đức trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thực tiễn áp dụng quy chế hoàn lại tiền thuế GTGT cho hàng hóa và dịch vụ đủ tiêu chuẩn hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp, tổ chức, hay hiệp hội trong hoạt động kinh doanh tại Đài Loan… Đồng thời, nhiều hội thảo của Cục Thuế các tỉnh, thành phố ở Việt Nam đã được tổ chức nhằm tháo gỡ và giải quyết các vướng mắc trong thực tiễn áp dụng hoàn thuế GTGT ở từng địa phương. Trong giới luật học, nhiều tác giả lựa chọn pháp luật về hoàn thuế GTGT là đề tài nghiên cứu ở góc độ lý luận, cũng như nhiều bài viết mang tính nghiên cứu trao đổi của các chuyên gia pháp lý đăng trên các tạp chí chuyên ngành, cụ thể: Luận văn thạc sỹ luật học năm 2006 của Bùi Công Quang về đề tài "Thực trạng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam"; Bài viết của Nguyễn Văn Tuyến năm 2008 tại Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử về "Một số ý kiến trao đổi, bình luận về dự án luật thuế thu nhập doanh nghiệp và dự án luật thuế giá trị gia tăng"; Bài viết của Lê Thị Thu Thủy năm 2008 tại Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử về "Luật thuế giá trị gia tăng nên sửa đổi theo hướng nào" v.v… Luận văn "Pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" sẽ là một trong những đề tài tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu 3 chuyên sâu về thực trạng vấn đề hoàn thuế GTGT ở Việt Nam và pháp luật về vấn đề này. 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về hoàn thuế GTGT ở Việt Nam, kết hợp đối chiếu với các quy định pháp luật về hoàn thuế GTGT ở một số nước trên thế giới. Luận văn sẽ đánh giá thực trạng và chỉ ra những hạn chế, bất cập hiện hành trong pháp luật về hoàn thuế GTGT, trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về hoàn thuế GTGT ở Việt Nam. * Phạm vi nghiên cứu Mặc dù các quy phạm của Luật thuế GTGT nói chung và hoàn thuế GTGT nói riêng gắn chặt với các phạm trù kinh tế, nhưng với góc độ của một luận văn thạc sĩ luật học, học viên chỉ đi sâu nghiên cứu các quy định pháp luật, các quan điểm, chính sách pháp luật có liên quan đến hoàn thuế GTGT ở Việt Nam. Các khái niệm xuất hiện trong luận văn tốt nghiệp luật học này được dừng ở mức độ sử dụng kết quả nghiên cứu của các học giả và các nhà kinh tế học, để phục vụ tốt hơn cho việc tiếp cận các quy định pháp luật hiện hành về hoàn thuế GTGT. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích, so sánh, tổng hợp, đánh giá, khảo sát, thống kê… để làm rõ các nội dung nghiên cứu trong đề tài. 5. Những đóng góp của luận văn Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu các vấn đề liên quan đến pháp luật hoàn thuế GTGT ở Việt Nam. Luận văn phân tích và làm sáng tỏ 4 thực trạng pháp luật về hoàn thuế GTGT, trên cơ sở đó nêu ra những điểm hạn chế, bất cập hiện nay trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hoàn thuế GTGT và đưa ra các kiến nghị, giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng và pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng. Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam. 5 Chƣơng 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHẤU TRỪ, HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG, KHẤU TRỪ VÀ HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thuế giá trị gia tăng * Khái niệm thuế giá trị gia tăng Thuật ngữ "Thuế giá trị gia tăng" tiếng Pháp là "Tax sur la Valuer Ajourtée" (viết tắt là TVA), tiếng Anh là :Value Added Tax: (viết tắt là GTGT). Thuế GTGT lần đầu tiên được đề xuất áp dụng vào năm 1918 bởi một nhà kinh tế người Đức Carld Rilordrich Sienvens. Tuy nhiên, nước đầu tiên trên thế giới áp dụng thuế GTGT là nước Pháp, luật thuế GTGT của nước này được ban hành ngày 10/4/1954 và Nghị định hướng dẫn thi hành ngày 30/4/1955. Việc áp dụng thuế GTGT ở Pháp là kết quả của quá trình cải tổ hệ thống thuế mà trọng tâm là việc tăng cường và hoàn thiện các loại thuế gián thu. Ngày 11/4/1967, Hội đồng các Bộ trưởng sáu nước thành viên ban đầu của Cộng đồng kinh tế Châu Âu đã có chỉ thị về việc hài hòa cân đối hệ thống thuế doanh thu của các nước thành viên và khuyến nghị các nước thành viên thống nhất thực hiện thuế GTGT trước ngày 01/01/1970. Năm 1968, nước Đức chính thức áp dụng thuế GTGT để thay thế thuế doanh thu cũ nhưng vẫn giữ nguyên tên gọi là thuế doanh thu. Năm 1969, Hà Lan đưa luật thuế GTGT vào áp dụng. Thái Lan áp dụng thuế GTGT kể từ ngày 01/01/1992. Thuế kinh doanh trước đây áp dụng ở Thái Lan bị coi là phức tạp và phiền hà, chủ yếu 6 tác động trong lĩnh vực sản xuất. Trong một số trường hợp, còn làm tăng giá thành hàng hóa lên đến xấp xỉ 35% đã làm hạn chế sức tiêu thụ và xuất khẩu của hàng hóa. Sau khi áp dụng thuế GTGT thì hàng hóa Thái Lan đã có những lợi thế cạnh tranh rất lớn so với hàng hóa các nước khác trong khu vực. Nhìn chung, các quốc gia thuộc khối Liên minh châu Âu, châu Phi, châu Mỹ La tinh và một số quốc gia châu Á đã áp dụng thuế GTGT. Tính đến nay, đã có khoảng hơn 130 quốc gia áp dụng thuế GTGT, các quốc gia khác cũng đang trong thời kỳ nghiên cứu loại thuế này. Đặc biệt, Mỹ là một nước có nền kinh tế phát triển nhưng lại không áp dụng thuế GTGT. Theo cấu trúc pháp luật của Mỹ, ngoài hệ thống pháp luật thuế chung cho toàn Liên bang thì mỗi Bang lại có hệ thống pháp luật thuế riêng của mình. Nếu đặt ra thuế GTGT trên toàn Liên bang thì phải cộng thêm thuế GTGT toàn Liên bang vào phần thuế thu ở từng bang, đây là vấn đề rất phức tạp và khó thực hiện. Thuế doanh thu ở Mỹ chỉ đánh trên khâu bán lẻ, do đó về nguyên tắc không có việc đánh thuế trùng lặp. Mỹ hiện đã áp dụng công nghệ tin học tiên tiến vào phục vụ công tác quản lý thuế. Mặt khác, người dân Mỹ lại rất tự giác thực hiện chế độ hóa đơn, chứng từ trong mua bán nên cơ quan thuế dễ dàng đối chiếu chính xác, thuận tiện giữa doanh thu và chi phí của các đối tượng nộp thuế. Vì vậy, không có sự thu thuế trùng lặp tại nước Mỹ. Trong quá trình quản lý thuế, mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về thuế GTGT một cách quy mô, nghiêm túc nhưng đến nay, Chính phủ Mỹ vẫn quyết định không áp dụng thuế GTGT tại nước Mỹ. Trước khi thuế GTGT xuất hiện thì thuế doanh thu được các quốc gia trên thế giới áp dụng nhằm điều tiết tiêu dùng xã hội. Căn cứ để tính thuế doanh thu là doanh thu chịu thuế. Tuy nhiên, trong doanh thu chịu thuế đã bao gồm cả thuế doanh thu ở khâu sản xuất, kinh doanh trước đó nên thuế doanh thu ở các khâu trước đã trở thành chi phí sản xuất, kinh doanh ở khâu sau. Quy định này, dẫn đến tình trạng thuế đánh trùng trên thuế, làm tăng giá vốn 7 hàng hóa, dịch vụ, hàng hóa nội địa đã khiến người tiêu dùng phải chịu với mức giá cao đồng thời giảm tính cạnh tranh của hàng hóa, không kích thích được hàng hóa xuất khẩu. Nhược điểm trùng lặp thuế không còn phù hợp đối với nền kinh tế hiện đại. Thuế GTGT ra đời là sự thay thế hợp lý, mang tính tất yếu khách quan. Ở Việt Nam, Luật thuế GTGT lần đầu tiên được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 10/5/1997 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1999. Tính đến nay, Luật đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Gần đây nhất, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XII, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 03/6/2008 đã thông qua Luật thuế GTGT, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Tại Điều 2, Luật thuế GTGT của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, số 13/2008/QH12 ngày 03/6/2008 quy định: "Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng" [29]. Như vậy, thuế GTGT được coi là một loại thuế tiêu dùng và là thuế gián thu nhằm đánh vào hành vi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ nhưng được thu ở khâu bán hàng. Nói một cách khác, thuế GTGT là sắc thuế áp dụng đối với giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ ở tất cả các khâu từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Đặc biệt, thuế GTGT đánh vào khâu cuối cùng (khâu tiêu dùng) sẽ bằng tổng giá trị các lần đánh thuế của các khâu trước đó. Dưới góc độ pháp lý, thuế GTGT là nghĩa vụ tài chính theo đó người chịu thuế phải nộp một phần thu nhập của mình cho nhà nước, thông qua hành vi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Trong thực tế, phần đông các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế GTGT không tự nguyện nộp thuế nếu như nhà nước không ràng buộc họ bằng các nghĩa vụ pháp lý bắt buộc. Vì vậy, những nội dung cơ bản về thuế GTGT đã được quy định trong Luật thuế GTGT năm 2008, gồm 4 chương, 12 điều. 8 * Đặc điểm thuế GTGT Đặc điểm của thuế GTGT là một loại thuế gián thu đánh vào giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ trên bình diện rộng. Tính gián thu của thuế GTGT được thể hiện qua đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế là hai chủ thể hoàn toàn khác nhau. Mặt khác, sắc thuế này cũng mang bản chất liên hoàn và có tính trung lập kinh tế cao, mang những đặc tính cơ bản, đặc trưng của một sắc thuế khoa học, tiên tiến như: tính lũy thoái, điều tiết hành vi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, đặc điểm chính, chủ yếu của thuế GTGT là: Thuế GTGT là sắc thuế gián thu đánh trên bình diện rộng, thuế GTGT gắn liền với chế độ sổ sách kế toán và hóa đơn chứng từ. - Thuế GTGT là sắc thuế gián thu đánh trên bình diện rộng Thuế GTGT được coi là một sắc thuế gián thu tiêu biểu. Thuế GTGT không trực tiếp đánh vào thu nhập và tài sản của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ. Tính gián thu thể hiện dưới góc độ pháp lý là quan hệ tay ba giữa nhà nước - người sản xuất, kinh doanh (nộp thuế) - người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ (chịu thuế). Về nguyên tắc, người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ là người chịu thuế nên việc đánh thuế GTGT vào khâu tiêu dùng là đủ. Hiểu một cách đơn giản nhất thì quan hệ nghĩa vụ thuế GTGT là quan hệ giữa người có quyền (Nhà nước) với người có nghĩa vụ (người tiêu dùng). Thế nhưng, trong quan hệ thuế GTGT, ngoài hai chủ thể này còn xuất hiện một loại chủ thể đặc biệt là (đối tượng nộp thuế). Tuy về lý thuyết không có nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước, nhưng đối tượng nộp thuế lại giữ vị trí hết sức quan trọng, nhiều khi có tính quyết định trong quan hệ thuế GTGT. Đối tượng nộp thuế thường thay mặt nhà nước thu hộ thuế GTGT của người tiêu dùng. Trong thực tế, chúng ta nhận thấy tần suất xuất hiện của loại chủ thể - đối tượng nộp thuế - thường xuyên hơn và xuất hiện nhiều hơn loại chủ thể - Người tiêu dùng. 9 Theo nguyên lý của thuế gián thu, pháp luật thuế GTGT cần phải xác định rõ người chịu thuế để đảm bảo tính điều tiết tiêu dùng của thuế GTGT. Nếu phải chờ đến khâu tiêu dùng cuối cùng mới thu thuế sẽ làm chậm quá trình tập trung nguồn lực xã hội cho ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến chi tiêu của nhà nước, hơn nữa, việc phân biệt hành vi chuyển giao tài sản hoặc cung cấp dịch vụ là phải tính thuế GTGT. Cách thức quy định này được áp dụng phổ biến ở nhiều nước nhằm san sẻ một phần trách nhiệm thu thuế cho cơ sở kinh doanh. Trường hợp xác định là hành vi tiêu dùng trung gian thì số thuế sẽ được tự động chuyển vào giá bán hàng cho người mua ở giai đoạn sau. Việc đánh thuế vào hành vi sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế không những giúp nhà nước huy động kịp thời nguồn thu cho ngân sách mà còn nâng cao trách nhiệm của người nộp thuế trong việc thực hiện nghiêm chỉnh chế độ sổ sách kế toán, hóa đơn, chứng từ. Chủ thể thứ ba - đối tượng nộp thuế - thay mặt nhà nước trực tiếp tính thuế và thu thuế GTGT khi bán hàng. Người mua hàng thanh toán tiền hàng và thuế GTGT theo hóa đơn GTGT do người bán hàng lập. Sau đó, người nộp thuế có nghĩa vụ nộp lại số thuế đã thu được từ người chịu thuế cho nhà nước. Để nâng cao tính hiệu quả trong quản lý hoạt động thu nộp thuế, hạn chế hành vi gian lận thuế GTGT. Nhà nước coi người nộp thuế là đối tượng quản lý thuế và quy định các điều kiện đối với người nộp thuế như: đăng ký kinh doanh, đăng ký mã số thuế, đảm bảo các cơ sở vật chất, nhân sự… Theo quy định của pháp luật thuế GTGT ở nước ta hiện nay, đối tượng nộp thuế rất rộng, bao gồm: tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế GTGT. Với những đối tượng buôn bán nhỏ lẻ thì việc áp dụng thuế GTGT gặp nhiều khó khăn, bởi thực tế họ không đáp ứng được đòi hỏi khắt khe về sổ sách, hóa đơn, chứng từ. Hơn nữa, với đối tượng này, phương pháp 10 tính thuế được áp dụng là phương pháp tính trực tiếp trên GTGT đã dẫn đến tình trạng bất bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT. Người chịu thuế GTGT là người tiêu dùng cuối cùng hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT. Hành vi tiêu dùng cuối cùng đã đưa hàng hóa, dịch vụ thoát khỏi quá trình lưu thông trên thị trường. Người tiêu dùng là một khái niệm rất rộng, họ có thể là cá nhân, tổ chức, hay cơ quan nhà nước. Người nộp thuế cũng có thể trở thành người tiêu dùng nếu họ có hành vi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ chịu thuế. Luật thuế GTGT nước ta hiện nay không có quy định nào giới hạn người tiêu dùng. Chính vì vậy, thuế GTGT thuộc loại thuế tiêu dùng đánh trên bình diện rộng. - Thuế GTGT gắn liền với chế độ sổ sách kế toán và hóa đơn, chứng từ Thuế GTGT là sắc thuế có đòi hỏi nghiệp vụ kế toán rất khắt khe trong hệ thống các sắc thuế hiện hành. Xuất phát từ bản chất của thuế GTGT là đánh vào GTGT của hàng hóa, dịch vụ. Muốn xác định GTGT không có cách gì khác chủ thể nộp thuế GTGT phải tuân thủ nghiêm ngặt chế độ sổ sách kế toán, hóa đơn, chứng từ. Thuế GTGT năm 2008, có một hệ thống hóa đơn, biểu mẫu chứng từ đồ sộ. Các hóa đơn, chứng từ ghi nhận thuế GTGT được quy định rất chặt chẽ cả về hình thức lẫn cách thức sử dụng. Nếu cơ sở kinh doanh không có trình độ kế toán nhất định, sẽ không thể thực hiện tốt chế độ kê khai trong quá trình quản lý, kê khai, nộp thuế GTGT. Với mỗi loại hình kinh doanh lại có loại hóa đơn sử dụng riêng, cụ thể: Đối với các cơ sở kinh doanh thì nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT thì sử dụng loại hóa đơn thông thường. Đối với mỗi hoạt động kinh doanh thương mại khác nhau, pháp luật thuế GTGT sẽ yêu cầu một loại hình hóa đơn cụ thể như: Đối với mua bán hàng nông, lâm, thủy sản qua sơ chế sẽ sử dụng hóa đơn thu mua hàng nông, lâm, thủy sản... 11 Thuế GTGT được ghi nhận trên hóa đơn, chứng từ, căn cứ vào hóa đơn, chứng từ của các nhà sản xuất, kinh doanh có trách nhiệm lập sổ, sách kế toán theo quy định pháp luật. Người nộp thuế được khấu trừ số thuế đầu vào đã nộp, do đó, tổng số thuế ở các công đoạn của quá trình sản xuất, lưu thông sản phẩm luôn bằng giá bán cuối cùng nhân với thuế suất. Hóa đơn, chứng từ lại giữ vai trò hết sức quan trọng trong quá trình thu, nộp thuế GTGT. Nếu thuế GTGT tách rời khỏi hóa đơn, chứng từ thì sẽ không thể triển khai thực hiện được trên thực tế. Trong một đất nước mà các cơ sở kinh doanh không thực hiện tốt chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ thì thuế GTGT ở nước đó không thể phát huy được hết những tác dụng tích cực vốn có. Những ưu điểm của thuế GTGT như khuyến khích đầu tư, xuất khẩu hàng hóa, trung lập kinh tế... chỉ được bảo đảm khi ý thức tự giác chấp hành pháp luật thuế của người dân được nâng cao, cơ chế tự kiểm soát của thương trường tiên tiến, thuận lợi và việc sử dụng hóa đơn, chứng từ khi bán hàng hóa, dịch vụ đã trở thành thói quen của người tiêu dùng. Việc hoàn thiện các quy định pháp luật về hóa đơn, chứng từ và chế độ sử dụng hóa đơn, chứng từ là một nội dung quan trọng của pháp luật thuế GTGT nhằm xây dựng ý thức tự giác sử dụng hóa đơn, chứng từ trong đại bộ phận dân chúng. Trước thời điểm Luật thuế GTGT chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009, thì Chính phủ đã có những bước nghiên cứu, thử nghiệm, cũng như chuẩn bị về nhân sự, cơ sở vật chất, mặt bằng nghiệp vụ kế toán. Vì vậy, xét trên các phương diện này cho thấy, thuế GTGT đã góp phần thúc đẩy các cơ sở sản xuất, kinh doanh chấp hành nghiêm chỉnh quy định lập sổ, sách kế toán, quản lý hóa đơn, chứng từ. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng * Khái niệm về khấu trừ và hoàn thuế GTGT: Tại Khoản 1, điểm a, Điều 10 luật thuế GTGT quy định: "Số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp khấu trừ thuế bằng số thuế giá trị gia 12 tăng đầu ra trừ số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ" [29]. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 7 Nghị định số 123/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08/12/2008 thì: "Số thuế giá trị gia tăng phải nộp tính theo phương pháp khấu trừ bằng số thuế giá trị gia tăng đầu ra (-) số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ" [11]. Khấu trừ thuế là căn cứ quan trọng trong việc hoàn thuế GTGT hiện nay. Tại chương III, Điều 10, Nghị định số 123/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08/12/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thuế GTGT của Việt Nam quy định về hoàn thuế GTGT như sau: "Việc hoàn thuế giá trị gia tăng thực hiện theo quy định tại Điều 13 Luật Thuế giá trị gia tăng..." [11]. Tại Điều 52, Luật thuế giá trị gia tăng của nước Cộng hòa Serbia được đăng trong "Công báo" số 84/2004 ngày 24/7/2004 và số 86/2004 ngày 30/7/2004 quy định: "Nếu số thuế đầu vào cao hơn số tiền nợ thuế, người nộp thuế giá trị gia tăng được hoàn trả phần thuế chênh lệch…" và "hoàn trả thuế giá trị gia tăng trong vòng 15 ngày đối với người nộp thuế chủ yếu thực hiện cung cấp hàng hóa ở nước ngoài" 51. Tại Điều 24, Luật Thuế GTGT của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ngày 16/01/2007 quy định về hoàn thuế GTGT như sau: "… đối với các nhà khai thác kinh doanh có thu nhập doanh nghiệp xuất phát từ hoạt động sản xuất trong nước hoặc hoạt động xuất khẩu, nếu gia tăng giá trị thuế đầu vào thì được khấu trừ không hoàn toàn trong tháng, chỉ có tỷ lệ xuất khẩu sẽ được hoàn thuế giá trị gia tăng …" 47 và "hoàn thuế giá trị gia tăng được thực hiện khi có văn bản của cấp có thẩm quyền về thuế…" 47. Như vậy, hoàn thuế GTGT được hiểu là việc cơ quan quản lý thuế có thẩm quyền hoàn trả lại cho đối tượng số tiền thuế GTGT đã nộp thừa hoặc chưa được khấu trừ hết. Việc hoàn thuế GTGT được thực hiện theo yêu cầu của các chủ thể khi họ đáp ứng đủ các điều kiện hoàn thuế GTGT theo quy định của pháp luật. 13 Ở nước ta, Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn về thuế hiện hành không đưa ra khái niệm, định nghĩa cụ thể về hoàn thuế GTGT. Tuy nhiên, có thể xem xét khái niệm hoàn thuế GTGT dưới các góc độ khác nhau, cụ thể: Xét dưới góc độ kinh tế - tài chính, hoàn thuế GTGT là việc nhà nước hoàn trả lại cho doanh nghiệp một khoản tiền thuế nhất định đúng bằng với số thuế doanh nghiệp đã nộp khi doanh nghiệp thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật. Xét dưới góc độ nghiệp vụ thuế thì hoàn thuế GTGT chỉ đơn thuần là một biện pháp kỹ thuật trong công tác hành thu thuế. Xét dưới góc độ pháp lý thì hoàn thuế là quyền của đối tượng nộp thuế được nhà nước trả lại một khoản tiền thuế nhất định khi có đơn yêu cầu của doanh nghiệp và doanh nghiệp chứng minh thỏa mãn các điều kiện pháp luật quy định. Hơn nữa hoàn thuế GTGT còn là một chế định pháp luật mà nội dung của nó là tập hợp các quy phạm pháp luật quy định về các trường hợp được hoàn thuế, điều kiện hoàn thuế, đối tượng được hoàn thuế, thẩm quyền ra quyết định hoàn thuế và trình tự, thủ tục hoàn thuế… Đây là những quan điểm về hoàn thuế GTGT nhìn từ những góc độ khác nhau trong quá trình nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, thực tiễn pháp lý cho thấy hoàn thuế GTGT là việc nhà nước hoàn trả lại một khoản tiền nhất định cho đối tượng nộp thuế khi họ thỏa mãn các điều kiện pháp luật quy định. Như vậy, hoàn thuế là việc hoàn trả lại số tiền thuế nộp thừa cho tổ chức, cá nhân nộp thuế khi: + Tổ chức, cá nhân nộp thuế có số tiền thuế đã nộp lớn hơn số tiền thuế phải nộp. + Tổ chức, cá nhân nộp thuế có số tiền thuế được hoàn theo quy định của pháp luật về thuế GTGT. 14 Mặt khác, quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối sản phẩm là chu trình kinh tế có sự tham gia của nhiều chủ thể. Cơ sở sản xuất, kinh doanh chỉ là người nộp hộ thuế GTGT nên việc hoàn thuế GTGT là một nghiệp vụ rất quan trọng của thuế GTGT. Phạm vi đối tượng nộp thuế GTGT rộng, việc hoàn thuế GTGT cũng diễn ra trên phạm vi rất rộng, bao hàm nhiều quan hệ phức tạp và có sự liên hoàn giữa các đối tượng nộp thuế. Vì thế, hoàn thuế GTGT được hiểu là trường hợp đặc biệt của khấu trừ thuế nên hoàn thuế chỉ đặt ra đối với đối tượng nộp thuế theo phương thức khấu trừ thuế. Các cơ sở kinh doanh trong ba tháng liên tục trở lên (không phân biệt niên độ kế toán) có số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết sẽ được hoàn lại. Số thuế được hoàn là số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết của thời gian xin hoàn thuế. Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nếu có số thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nếu có số thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ bán trong nước thì cũng được tính vào số thuế được hoàn trong tháng. Về nguyên tắc, nếu trong thời kỳ nộp thuế mà thuế đầu vào được khấu trừ không hết thì sẽ phát sinh quyền hoàn thuế. Như vậy, qua phân tích ở trên, có thể hiểu: Hoàn thuế là hệ quả của hành vi khấu trừ thuế đầu vào, nếu số thuế đầu vào được khấu trừ không hết thì nhà nước có nghĩa vụ hoàn thuế cho doanh nghiệp, tức trả lại số thuế nộp thừa cho doanh nghiệp trong kỳ đó. Nếu Nhà nước không hoàn lại kịp thời số tiền thừa này thì coi như Nhà nước chiếm dụng vốn của doanh nghiệp. Số tiền này thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, Nhà nước chỉ là người nắm giữ tạm thời khi chưa xác định được số tiền doanh nghiệp phải nộp là bao nhiêu. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 7 Nghị định số 123/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08/12/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thuế GTGT của Việt Nam quy định về hoàn thuế GTGT quy định: Số thuế giá trị gia tăng đầu ra bằng tổng số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ bán ra ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng. 15 Thuế giá trị gia tăng ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng bằng giá tính thuế của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế bán ra nhân (x) với thuế suất thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ đó [11]. Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, khi bán hàng hóa, dịch vụ phải tính và thu thuế của hàng hóa, dịch vụ bán ra. Khi lập hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế GTGT và tổng số tiền người mua hàng hóa, dịch vụ phải thanh toán. Trường hợp hóa đơn chỉ ghi giá thanh toán, không ghi giá chưa có thuế và thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ bán ra thì phải tính trên giá thanh toán ghi trên hóa đơn, chứng từ. Thuế GTGT đầu vào (=) tổng số thuế GTGT ghi trên hóa đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ (bao gồm cả tài sản cố định) dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT. Số thuế GTGT ghi trên chứng từ nộp thuế của hàng hóa nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài chính áp dụng đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài có hoạt động kinh doanh tại Việt Nam không thuộc các hình thức đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trường hợp hàng hóa, dịch vụ mua vào là loại được dùng chứng từ đặc thù ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì cơ sở được căn cứ vào giá đã có thuế GTGT và phương pháp tính được nêu tại Điểm k, Khoản 1, Điều 7 Luật thuế GTGT 2008 (Giá chưa có thuế giá trị gia tăng = Giá thanh toán chia cho 1+ thuế suất của hàng hóa, dịch vụ (%)), để xác định giá chưa có thuế và thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Chẳng hạn như trong kỳ, công ty B thanh toán dịch vụ đầu vào được khấu trừ là loại được dùng chứng từ đặc thù: Tổng giá trị thanh toán là 150 triệu đồng (giá đã có thuế GTGT), dịch vụ này chịu thuế là 10%, số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ được tính như sau: Giá chưa có thuế GTGT = 150 triệu đồng chia cho (/) (1 + 10%). 16 * Đặc điểm của khấu trừ và hoàn thuế GTGT Đặc điểm của phương pháp khấu trừ thuế là chỉ áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ và đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. Chế định hoàn thuế GTGT thể hiện ưu điểm của Luật thuế GTGT so với Luật thuế doanh thu, khắc phục hiện tượng thuế đánh trùng lặp từ khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Hoàn thuế GTGT hỗ trợ tích cực đến xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ do mức thuế suất 0% cho một số hàng hóa xuất khẩu. Vì vậy, hoàn thuế GTGT có những đặc điểm nổi bật sau: Thứ nhất: Chủ thể được hoàn thuế GTGT là đối tượng nộp thuế GTGT theo quy định của pháp luật. Tại Khoản 1, Điều 2, Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 8/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế GTGT quy định: "Người nộp thuế giá trị gia tăng là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế giá trị gia tăng" [11]. Như vậy, chỉ những tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và các tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế GTGT mới là đối tượng được hoàn thuế GTGT. Thực chất của việc hoàn thuế là việc Nhà nước trả lại đối tượng nộp thuế một khoản tiền thuế tương ứng với số tiền thuế mà chủ thể đó đã nộp thừa. Như vậy, cá nhân, tổ chức thuộc diện nộp thuế GTGT mà chưa hoàn thành nghĩa vụ thuế nộp thuế với Nhà nước thì cũng không có quyền yêu cầu hoàn thuế GTGT. Thứ hai: Tổ chức, cá nhân đã thực hiện nghĩa vụ thuế của mình, đó là chuyển quyền sở hữu một khoản tiền nhất định (tiền thuế) vào ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, sau đó tổ chức, cá nhân căn cứ vào quy định hiện hành về hoàn thuế GTGT, nếu phù hợp các quy định này, thì tổ chức, cá nhân sẽ nộp đơn tới cơ quan thuế có thẩm quyền để yêu cầu được hoàn trả số tiền thuế. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan