ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
---------------
NGUYỄN THỊHUỆ
PHÁP LUẬT VỀGIẢI QUYẾT TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG
ỞVIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HàNội-2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊHUỆ
PHÁP LUẬT VỀGIẢI QUYẾT TRANH CHẤPMÔI TRƯỜNG
ỞVIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ THỊCHÂU
Hà Nội –2013
MỤC LỤCTrang
MỞĐẦU11.
Tính cấp thiết của đềtài 12.
Mục tiêu nghiên cứu33.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu44.
Phương pháp nghiên cứu45.
Tổng quan tình hình nghiên cứu đềtài46.
Kết cấu của đềtài7
Chương 1. TỔNG QUAN VỀTRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG VÀ
PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG ỞVIỆT
NAM9
1.1 Tranh chấp môi trường9
1.1.1 Khái niệm tranh chấp môi trường9
1.1.2 Đặc trưng của tranh chấp môi trường19
1.1.2.1 Sốlượng chủthểtrong tranh chấp môi trường lớn và vịthếcủa
các bên tranh chấp không cân bằng19
1.1.2.2 Trong tranh chấp môi trường lợi ích công và lợi ích tư gắn
liền với nhau.21
1.1.2.3 Thiệt hại trong tranh chấp môi trường rất lớn và khó xác
định22
1.1.2.4 Tranh chấp môi trường có thểphát sinh từkhi chưa có hành vi
gây thiệt hại đến môi trường
1.1.3 Phân loại tranh chấp môi trường23
1.1.3.1 Phân loại theo chủthểtrong tranh chấp Môi trường23
1.1.3.2Phân loại theo lợi ích mà tranh chấp hướng tới23
1.1.3.3Phân loại theo đối tượng tranh chấp26
1.1.3.4 Phân loại theo phạm vi xảy ra tranh chấp26
1.1.3.5 Phân loại theo nội dung tranh chấp28
1.2 Giải quyết tranh chấp môi trường28
1.2.1 Khái niệm giải quyết tranh chấp môi trường 28
1.2.2 Các yêu cầu đối với giải quyết tranh chấp môi trường31
1.2.2.1 Giải quyết tranh chấp môi trường phải hướng tới đảm bảo
duy trì mối quan hệlâu dài giữa các bên tranh chấp.31
1.2.2.2 Giải quyết triệt đểnguyên nhân dẫn đến tranh chấp nhằm
hạn chếcác tranh chấp tiếp tục lặp lại trong tương lai. 31
1.2.2.3 Ngăn chặn sớm nhất những thiệt hại có thểxảy ra đối với
môi trường. 32
1.2.2.4 Đảm bảo xác định một cách có căn cứgiá trịthiệt hại trong
tranh chấp môi trường. 33
1.3 Pháp luật hiện hành vềgiải quyết tranh chấp môi trường ởViệt
Nam33
1.3.1 Sựphát triển của pháp luật vềgiải quyết tranh chấp môi trường
ởViệt Nam33
1.3.1.1 Giai đoạn trước khi có luật BVMT 200535
1.3.1.2 Giai đoạn từkhi có luật BVMT 200538
1.3.2Kinh nghiệm điều chỉnh bằng pháp luật vềgiải quyết tranh chấp
môi trường ởmột sốnước44
1.3.3.1 Quy định vềgiải quyết tranh chấp môi trường của Nhật Bản45
1.3.3.2 Quy định vềgiải quyết tranh chấp môi trường của Trung
Quốc46
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP MÔI TRƯỜNG ỞVIỆT NAM HIỆN NAY51
2.1.Thực trạng các quy định giải quyết tranh chấp môi trường ởViệt
Nam hiện nay 51
2.1.1Quy định vềcác phương thức giải quyết tranh chấp môi trường
51
2.1.1.1 Các phương thức giải quyết tranh chấpmôi trường51
2.1.1.2 Một sốbất cập trong các quy định vềphương thức giải quyết
tranh chấp môi trường60
2.1.2 Quy định vềngười đại diện tham gia giải quyết tranh chấp
môi trường 63
2.1.2.1 Người đại diện tham gia giải quyết tranh chấp môi trường63
2.1.2.2 Một sốbất cập trong các quy định vềngười đại tham gia
giải quyết tranh chấp môi trường. 66
2.1.3 Quy định vềthẩm quyền giải quyết tranh chấp môi trường67
2.1.3.1 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp môi trường67
2.1.3.2 Một sốbất cập trong quy định vềthẩm quyền giải quyết
tranh chấp môi trường71
2.1.4 Quy định vềnghĩa vụchứng minh và chứng cứtrong giải quyết
tranh chấp môi trường72
2.1.4.1 Nghĩa vụchứng minh và chứng cứtrong giải quyết tranh
chấp môi trường72
2.1.4.2 Bất cập trong các quy định vềnghĩa vụchứng minh và chứng
cứtrong giải quyết tranh chấp môi trường77
2.1.5 Quy định vềthời hiệu giải quyết tranh chấp môi trường77
2.1.5.1 Thời hiệu khởi kiện tranh chấp môi trường77
2.1.5.2 Bất cập trong quy định vềthời hiệu giải quyết tranh chấp
môi trường78
2.2Thực trạng thực hiện pháp luật vềgiải quyết tranh chấp môi trường
ởViệt Nam hiện nay 79
2.2.1 Thực trạng thực hiện pháp luật vềphương thức giải quyết tranh
chấp môi trường 79
2.2.2Thực trạng thực hiện pháp luật vềđại diện tham gia giải quyết
tranh chấp môi trường 82
2.2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật vềthẩm quyền giải quyết
tranh chấp môi trường 84
2.2.4 Thực trạng thực hiện pháp luật vềnghĩa vụchứng minh trong
giải quyết tranh chấp môi trường 85
2.2.5Thực trạng thực hiện pháp luật vềthời hiệu giải quyết tranh chấp
môi trường 86
Chương 3. MỘT SỐKIẾN NGHỊHOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG ỞVIỆT NAM.89
3.1Kiến nghịhoàn thiện các quy định vềgiải quyết tranh chấp môi
trường ởViệt Nam89
3.1.1Phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật vềgiải quyết
tranh chấp môi trường ởViệt Nam 89
3.1.2Một sốkiến nghịcụthểnhằm hoàn thiện các quy định pháp luật
vềgiải quyết tranh chấp môi trường ởViệt Nam 93
3.1.2.1 Xây dựng khung pháp lý riêng cho giải quyết tranh chấp môi
trường93
3.1.2.2 Thành lập tòa án môi trường93
3.1.2.3 Người đại diện và khiếu kiện tập thể94
3.1.2.4 Hoán đổi nghĩa vụchứng minh95
3.1.2.5 Kéo dài thời hiệu khởi kiện 97
3.2Kiến nghịnâng cao hiệu quảthực hiện pháp luật giải quyết tranh
chấp môi trường98
3.2.1 Phương hướng nâng cao hiệu quảthực hiện pháp luật giải quyết
tranh chấp môi trường98
3.2.2Một sốkiến nghịcụthểnhằm nâng cao hiệu quảthực hiện phápluật
giải quyết tranh chấp môi trường99
3.2.2.1 Khuyến khích các tổchức, cá tham gia hỗtrợgiải quyết tranh
chấp môi trường99
3.2.2.2 Sửdụng công cụtruyền thông & công khai thông tin 101
3.2.2.3 Nâng cao nhận thức của người dân và doanh nghiệp về“trách
nhiệm xã hội102
KẾT LUẬN104
TÀI LIỆU THAM KHẢO106
MỞĐẦU
1. Tínhcấp thiết của đềtài Trong những năm gần đây, Việt Nam cũng
như các quốc gia khác, số lượng và mức độ tranh chấp môi trường
(Environmental Disputes) ngày càng tăng. Thời báo New York (New
York time) ra ngày thứ 4, ngày 15 tháng 11 năm 2007 đã thống kê
hàng năm, Hoa Kỳ phải giải quyết hàng nghìn vụ tranh chấp môi
trường; TạiNhật Bản, theo số liệu của Hiệp hội liên kết giải quyết các
tranh chấp môi trường từ 01 tháng 4 năm 2000 đến 31 tháng 3 năm
2001, trên toàn nước Nhật có 83.881 đơn thư khiếu kiện có liên quan
đến tranh chấp môi trường được gửi đến các cấp chính quyền cơ sở.
Còn tại Trung Quốc, Theo Chủ tịch Hội đồng Bảo vệ môi trường
(BVMT) quốc gia thì trong năm 2005, Trung Quốc đã có trên 50.000
vụ tranh chấp môi trường xảy ra. Vì vậy, giải quyết tranh chấp môi
trường trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quản lý
nhà nước về môi trường. Nhiều quốc gia đã thành lập các cơ quan, tổ
chức có chức năng chuyên về tư vấn và giải quyết tranh chấp môi
trường, như hệ thống tòa án môi trường của Trung Quốc; Hội đồng
chất lượng môi trường (Council on Environmental Quality -CEQ) của
Hoa Kỳ; Viện giải quyết các tranh chấp về môi trường (Institute fo
mediate disputes on Environment), Hoa Kỳ; Trung tâm đánh giá và
giải quyết tranh chấp môi trường (Center for Environment Disputes
Assessment and Resolution -CEDAR), Đại học NewSouthWales,
Australia hay Hiệp hội liên kết giải quyết tranh chấp môi trường
của Nhật Bản (The Environmental Dispute Coordination
Commission) [28]... Ở Việt Nam chưa có thống kê chính thức về số
vụ tranh chấp môi trường đã được giải quyết, nhưng thực tế có thể
thấy, số vụ tranh chấp môi trường đã được giải quyết ở Việt Nam thấp
hơn nhiều so với số vụ tranh chấp môi trường đã được giải quyết tại
Nhật, Hoa Kì và Trung Quốc, nhưng điều này liệu có đồng nghĩa rằng
môi trường của Việt Nam ít ô nhiễm hơn, pháp luật BVMTcủa Việt
Nam được thực thi tốt hơn, quyền được sống trong môi trường trong
lành của người dân Việt Nam được đảm bảo tốt hơn hay nguyên tắc
người gây thiệt hại cho môi trườngphải bồi thường ở Việt Nam được
thực hiện tốt hơn ở Nhật Bản, Hoa Kì và Trung Quốc hay không?
Theo kết quảkiểm tra được công bốcủa BộTài Nguyên và Môi trường
thì hiện có đến 40% các khu công nghiệp trên cảnước vi phạm pháp
luật vềmôi trường, gây ảnh hưởng rất lớn tới các yếu tốmôi trường và
cuộc sống của người dân xung quanh.Vụviệc Công ty Vedan xảtrực
tiếp nước thải chưa qua xửlý gây hủy diệt dòng sông ThịVải được
phát hiện vào cuối năm 2008 đã gây chấn động dư luận vềmức độảnh
hưởng tới môi trường, tới cuộc sống người dân và xã hội. Với
sựhỗtrợtừrất nhiều chủthể, (Hội nông dân, Hội luật gia, cơ quan
truyền thông, các siêu thị, người tiêu dùng...) vụviệc cũng đã được
giải quyết trên thực tế, người dân đã được nhận tiền bồi thường,
nhưng rất nhiều vấn đềpháp lý đặt ra trong quá trình giải quyết vụviệc
đến nay vẫn còn chưa được giải quyết, như chủthểcó quyền đòi bồi
thường cho những thiệt hại vềmôi trường do Vedan gây ra; Thủtục
khiếu kiện tập thể? Vai trò của tòa án trong giải quyết tranh chấp môi
trường...Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng này
nhưng có lẽ nguyên nhân chính đó chính là bởi pháp luật của Việt
Nam về giải quyết tranh chấp môi trường còn nhiều vấn đề chưa hoàn
thiện. Trước thực tế đó, việc nghiên cứu, đánh giá, định hướng hoàn
thiện pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc BVMTvà đảm bảo sự phát triển bền vững ở Việt
Nam
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Pháp luật về giải quyết tranh chấp
môi trường ở Việt Nam” để làm đề tài của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu tổng quát-Luận giải cơ sởlý luận của giải quyết tranh
chấp môi trường và thực tiễn giải quyết tranh chấp môi trường ởViệt
Nam hiện nay.-Nghiên cứu và đánh giá một cách những điểm bất
cập, hạn chếcủa pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật giải quyết
tranh chấp môi trường ởViệt Nam hiện nay trên cơ sởphân tích thực
trạng và so sánh với pháp luật của các nước khác.-Định hướng hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện các quy địnhpháp luật của
ViệtNam vềgiải quyết tranh chấp môi trường.
2.2 Mục tiêu cụthể-Phân tích khái niệm, đặc trưng, phân loại tranh
chấp môi trường, phân biệt với xung đột môi trường và các tranh chấp
khác-Nghiên cứu quá trình hình thành các quy định pháp luật vềgiải
quyết tranh chấp môi trường ởViệt Nam và pháp luật giải quyết
tranh chấp môi trường của một sốquốc gia-Phân tích, đánh giá những
bất cập, hạn chếcủa các quy định pháp luật giải quyết tranh chấp môi
trường của Việt Nam và so sánh với các quy định giải quyết tranh
chấp môi trường của một sốnước.-Đánh giá những bất cập trong việc
thực hiện các quy định pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường ở
Việt Nam hiện nay.
-Định hướng xây dựng và hoàn thiện các quy địnhpháp luật của Việt
Nam vềgiải quyết tranh chấp môi trường.-Định hướng và kiến
nghịnhằm nâng cao hiệu quảthực hiện pháp luật giải quyết tranh chấp
môi trường
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu: Các quy
định của pháp luật Việt Nam vềgiải quyết tranh chấp môi trường;
quy định của một sốquốc gia vềgiải quyết tranh chấp môi trường
và một sốvụtranh chấp môi trường đã xảy ra ởViệt Nam.Phạm vi
nghiên cứu: Tranh chấp môi trường là một khái niệm có nội hàm
rộng, là một vấn đềrộng và phức tạp, vì vậy trong phạm vi nghiên cứu
của đểtài,tôi chỉtập trung nghiên cứu các tranh chấp môi trường có nội
dung đòi bồi thường thiệt hại vềtính mạng, sức khỏe, tài sản và môi
trường trong phạm vi một quốc gia vì đây là dạng tranh chấp môi
trường chủyến hiện nay chứkhông chú trọng đến các dạng tranh chấp
khác.
4. Phương pháp nghiên cứuĐềtài được thực hiện dựa trên phương
pháp luận của Chủnghĩa Mác-Lênin và đường lối đổi mới của Đảng
Cộng sản Việt Nam đồng thời đối chiếu với các quy định của pháp
luật môi trường, dân sự, hành chính... Đồng thời trong quá trình
nghiên cứu, tôi vận dụng các phương pháp cụthểtrong nghiên cứu
khoa học như phương pháp so sánh, đối chiếu, tổng hợp đểnghiên cứu
đềtài này.
5. Tổng quan tình hình nghiên cứu đềtàiGiải quyết tranh chấp môi
trường là một vấn đềpháp lý còn nhiều bất cập, vì vậy, việc nghiên
cứu nhằm hoàn thiện các quy định vềgiải quyết tranh chấp môi trường
là rất cần thiết. Đến nay, đã có một sốcông trình nghiên cứu liên quan
đến đềtài như: -“Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp
trong lĩnh vực BVMTtại Việt Nam” luận án tiến sĩ luật học của Vũ
Thu Hạnh, 2004; -“Giải quyết các tranh chấp quốc tế về môi trường:
Khiếm khuyết của các cơ chế hiện có và hướng khắc phục”, Tạp chí
nghiên cứu quốc tế 12/2005 của Ths Lý Vân Anh, Học viện quan hệ
quốc tế; -“Tranh chấp môi trường (Environmental Disputes)”,Đào
Thanh Trường, http://www.cepsta.net/web/ReadMessage.php?
news=45&lang=1&boy=2&it8x=13&title=Tranh-chap-moitruong.html-“Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường ngoài tòa
án thực tiễn áp dụng cụ thể”, Trần Thị Hương Trang-Khái niệm và đặc
điểm của tranh chấp môi trường, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện
Nhà nước và pháp luật, số 1 năm 2003, ThS Vũ Thu Hạnh,-“Bồi
thường thiệt hại về môi trường”, thuộc chương trình hợp tác Việt Nam
–Thụy Điển về tăng cường năng lực quản lý nhà nước về đất đai và
môi trường; -“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm
pháp luật về môi trường gây nên tại Việt Nam”, đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Trường của Đại học Luật Hà Nội, 2007; -“Bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trườngtheo pháp luật dân sự Việt Nam”,
Luận văn thạc sĩ của Chu Thu Hiền, 2010;
-Trách nhiệm bồi thườngthiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi
trường gây nên tại Việt Nam, Đềtài nghiên cứu khoa học cấp
trường, Chủnhiệm đềtài Vũ Thu Hạnh-Các quy định pháp luật về
thiệt hại, xác định thiệt hại do hành vi làm ÔNMTgây ra và định
hướng xây dựng, hoàn thiện, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện
Nhà nước và pháp luật, số 1 năm 2011, PGS.TS Phạm Hữu Nghị, Bùi
Đức Hiển-Pháp luật về bảo đảm quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
do vi phạm pháp luật môi trường ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, Viện Nhà nước và pháp luật số 1 năm 2012, Võ Thị Mỹ
Hương-Một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm dân sự trong lĩnh
vực BVMTtheo quy định của pháp luật Việt Nam, Tạp chí Tòa án,
Tòa án nhân dântối cao số 4 năm 2005, Nguyễn Xuân An-Căn cứ xác
định thiệt hại về môi trường, Tạp chí Tòa án, Tòa án nhân dântối cao
số 14 năm 2009, ThS Nguyễn Ngọc Anh Đào-“Các phương thức giải
quyết tranh chấp môi trưởng ở Australia” của Vũ Thu Hạnh và Trần
Thị Hương Trang; Các công trình nghiên cứu này đã phân tích các
khía cạnh khác nhau vềtranh chấp môi trường như định nghĩa, đặc
điểm của tranh chấp môi trường; phương thức giải quyết tranh chấp
môi trường; so sánh giữa tranh chấp môi trường và xung đột môi
trường; Pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường của một sốnước
trên thếgiới; Các quy định vềxác định thiệt hại, bồi thường thiệt hại do
hành vilàmô nhiễm môi trường (ÔNMT)...Luận án tiến sĩ của PGS.TS
Vũ Thu Hạnh về“Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực BVMTtại Việt Nam”, đã phân tích một cách toàn
diện về cơ chếgiải quyết tranh chấp môi trường ởViệt Nam, tuy
nhiên công trình này lại được thực hiện giai đoạn trước khi có luật
BVMT2005; Bên cạnh đó, có nhiều công trình nghiên cứu vềxác định
thiệt hại, bồi thường thiệt hại do hành vi làm ÔNMT. Các công trình
này sẽlà nguồn tài liệu tham khảo quan trọng cho luận văn của tôi vì
xác bồi thường thiệt hại môi trường là một trong những nội dung
tranh chấp môi trường chủyếu mà đềtài của tôi sẽtập trung vào đểphân
tích. Như vậy trong sốcác công trình nghiên cứu liên quan đến giải
quyết tranh chấp môi trường thì chưa có công trình nào nghiên cứu
toàn diện vềpháp luật giải quyết tranh chấp môi trường ởViệt Nam
hiện nay, vì vậy luận văn của tôi sẽtập trung vào phân tích những bất
cập của pháp luậtvà thực hiện pháp luật giải quyết tranh chấp môi
trường từ đó đưa ra những khuyến nghị cụ thể, khoa học nhằm hoàn
thiện pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam là không
trùng lặp với bất kì công trình nào trước đây. Theo lộ trình, đến năm
2013, Chính phủ sẽ trình Quốc hội thông qua dự thảo sửa đổi luật
BVMT2005. vì vậy hiện nay, VCCI đang tiến hành rà soát các quy
định của Luật BVMT2005 cùng các văn bản có liên quan và đã đưa ra
bản thảo của báo cáo rà soát tuy nhiên báo cáo không đề cậpđến thực
trạng của các quy định về giải quyết tranh chấp môi trường. Tôi hi
vọng công trình này sẽ là một trong những nguồn thông tin để VCCI
có thể tham khảo và góp phần hoàn thiện luật BVMT2005.
6. Kết cấu của đề tàiĐề tài gồm ba Chương:
Chương 1. Tổng quan vềtranh chấp môi trường và pháp luật giải
quyết tranh chấp môi trường ởViệt Nam.
Chương 2.Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường
ởViệt Nam hiện nay.
Chương 3. Một sốkiến nghịhoàn thiện pháp luật giải quyết tranh
chấp môi trườngởViệt Nam.
Chương 1TỔNG QUAN VỀTRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG VÀ
PHÁP LUẬTGIẢI QUYẾT TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG ỞVIỆT
NAM
1.1 Tranh chấp môi trường
1.1.1 Khái niệm tranh chấp môi trườngCuối năm 2008, vụviệc công ty
Vedan xảnước thải chưa qua xửlý ra sông ThịVải biến dòng sông này
trởthành dòng sông chết được cơ quan chức năng phát hiện. Vụviệc
đã nhanh chóng thu hútđượcsựquan tâmcủa các cơ quanquản lý nhà
nước ởTrung ương, cơ quan truyền thông, các tổchức, cá nhân và xã
hội. Nguyên nhân khôngphải chỉbởi sốtiền phạt 216 triệuvàsốtiền phí
BVMT127 tỷđồng mà Vedan bịtruy thu mà chính bởi đơn khởi kiện
của hơn 5000 hộdân yêu cầu Vedan bồi thường cho những thiệt hại
vềtính mạng, sức khỏe và tài sản mà họphải gánh chịu do dòng
sôngThịVải bịô nhiễm và những khó khăn, vướng mắc vềmặt pháp lý
mà người dân gặp phải trong quá trình yêu cầu đòi bồi thường.
Vụviệc của Vedan không phải là vụviệc tranh chấp môi trường đầu
tiên nhưng có thểnói, vụviệcVedan đã chỉra nhiều lỗhổng trong các
quy định pháp luật vềgiải quyết tranh chấp môi trường. Trong bài
tham luận tại Hội thảo “Sựtham gia của các tổchức xã hội trong việc
bảo vệpháp luật môi trường và tranh tụng vì lợi ích cộng đồng”, ngày
20/3/2012 do Hội Luật gia Việt Nam phối hợpvới Chương trình
Phát triển Liên hợp quốc (United Nation Development Program, viết
tắt là UNDP) tổchức, luật sư Trương Trọng Nghĩa đã khẳng định
“Vụkiện Vedan: Một điển cứu pháp lý mang tính cột mốc” [25].
Chínhvì vậy, trong luận văn của mình, tôi sẽsửdụng vụviệc Vedan như
một minh chứng chủyếu đểluận giải các vấn đềvềpháp luật giải
quyết tranh chấp môi trường ởViệt Nam hiện nay.-Từphản ứng bức
xúc của người dân địa phương vềtình trạng lén lút xảnước thải không
qua xửlý ra môi trường, sau hơn 3 tháng theo dõi, ngày 13 tháng 9
năm 2008, đoàn kiểm tra liên ngành đã bắt quảtang Công ty
Vedanđóng tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Naixảmột lượng nước
thải lớn chưa qua xửlý ra sông ThịVải. -Theo ước tính, Vedan có
thểxảnước thải tới 5.000 m3/ngày ra sông. Ngay từnăm 1994, bắt đầu
hoạt động, Vedan đã tránh né việc đầu tư xửlý chất thải theo quy định,
đồng thời cốtình xảthải trái pháp luật, gây ÔNMT.-Thông thường, đối
với loại hình chếbiến thực phẩm của Vedan, kinh phí chi cho môi
trường bằng khoảng 10%-15% tổng giá trịđầu tư, nhưng đến lúc
bịphát hiện, Vedan mới chỉđầu tư khoảng 0,73% tổng giá trịđầu tư.
-Năm 2005, khi bịthanh tra của Bộphát hiện, Vedan chi 15
tỷ“hỗtrợnông dân nuôi trồng thủy sản”, rồi tiếp tục đầu độc sông
ThịVải. Trong suốt thời gian đó, bất chấp ý kiến của BộTNMT và
cảThủtướng, Vedan vẫn nhiều lần được phê duyệt mởrộng công suất
và thậm chí được đềnghịkhen thưởng về“thành tích BVMT” (!?), như
một thứ“đèn xanh” cho họtiếp tục giết chết dòng sông ThịVải bằng
thủđoạn mà chính Bộtrưởng BộTN& MT gọi là “gian lận”, “lừa đảo”.
Với hành vi này, Vedan tránh chi phí đầu tư hệthống xửlý là
143tỷđồng, chi phí vận hành hàng năm là 210 tỷđồng, trốn nộp phí
BVMTlên tới 127 tỷđồng. -BộTài nguyên -Môi trường áp dụng quy
định hiện hành, phạt Vedan 216 triệu và truy thu 127 tỉđồng phí
BVMT, buộc tháo dởhệthống xã thải trái phép. -Phần thiệt hại trực
tiếp cho hàng ngàn nông dân đánh bắt, nuôi trồng thủy sản ởBà Rịa –
Vũng Tàu, Đồng Nai và Thành phốHồChí Minh(TP.HCM) được Viện
Môi trường và Tài nguyênthuộc Đại học Quốc gia TPHCM tính ra
khoảng 217 tỉthì nông dân phải trực tiếp khởi kiện Vedan. Ban đầu,
Vedan không chấp nhận ‘bồi thường”, chỉđồng ý “hỗtrợ” khoảng 20
tỉđồng. Sau cùng, qua hòa giải, Vedan phải đồng ý bồi thường toàn
bộsốthiệt hại trên. -Riêng thiệt hại cho dòng sông ThịVải và môi
trường sinh sống của hàng ngàn nôngdân ba địa phương do hàng chục
triệu mét khối nước thải chưa qua xửlý gây ra trong 14 năm, mà chi
phí đểtái tạo đến nay vẫn chưa tính hết được, thì vẫn chưa có ai bồi
thường.Hộp 1. Một sốthông tin vềvụviệc của Vedan[25]Vậy thếnào là
tranh chấp môi trường?
ỞViệt Nam hiện nay, chưa có bất kì văn bản quy phạm pháp luật nào
đưa ra định nghĩa tranh chấp môi trường. Luật BVMT2005 chỉnêu ra
các nội dung tranh chấp môi trường tại Điều129 vềtranh chấp vềmôi
trường. Theo đó nội dung tranh chấpmôi trường bao gồm:“-Tranh
chấp vềquyền, trách nhiệm BVMTtrong khai thác, sửdụng thành
phần môi trường;-Tranh chấp vềviệc xác định nguyên nhân gây ra ô
nhiễm, suy thoái, sựcốmôi trường; vềtrách nhiệm xửlý, khắc phục hậu
quả, bồi thường thiệt hại doô nhiễm, suy thoái, sựcốmôi trường gây
ra”[7]Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học Luật môi
trường đã đưa ra những định nghĩa tranh chấp môi trường khác nhau.
Trên cơ sởphân tíchnội dung và đối tượng của tranh chấp môi
trường, PGS.TS Vũ Thu Hạnh đã định nghĩa “Tranh chấp môi
trườnglà những xung đột giữa các tổchức, cá nhân, cộng đồng dân cư
vềquyền và lợi ích liên quan đến việc phòng ngừa, khắc phục ô
nhiễm, suy thoái sựcốmôi trường; vềviệc khai thác, sửdụng hợp lý
các nguồn tàinguyên và môi trường; vềquyền được sống trong môi
trường trong lành và quyền được bảo vệtính mạng, sức khỏe, tài sản
do làm ÔNMTgây nên”[4, tr 408]Định nghĩa này đãchỉrađối tượng
hướng tới của tranh chấp môi trường và chủthểcủa tranh chấp môi
trường. Theo đó,chủthểcủa tranh chấp môi trường là các tổchức, cá
nhân, cộng đồng dân cư. Đối tượng hướng tới của các tranh chấp môi
trườnglà các quyền và lợi ích liên quan đến: -Việc phòng ngừa, khắc
phục ô nhiễm, suy thoái môi trường-Việc khai thác, sửdụng hợp lý các
nguồn tài nguyên và môi trường-Quyền được sống trong môi trường
trong lành -Quyền được bảo vệtính mạng, sức khỏe, tài sản do làm
ÔNMTgây nênTuy nhiên, theo quan điểm cá nhân, định nghĩa này
đến nay đã không còn phù hợp vì:-Thứnhất,các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cũng có thể là chủ thể của tranh chấp môi trường. Theo
quy định tại Nghị định số 113/2010/NĐ-CP do Chính phủ ban hành
ngày 03/12/2010 về việc xác định thiệt hại đối với môi trường,chủ thể
chịu trách nhiệm yêu cầu bồi thường thiệt hại và xác định thiệt hại đối
với môi trườnglà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như:UBNDcấp
xã; UBNDcấp huyện; UBNDcấp tỉnh và Bộ Tài nguyên và Môi
trường. Theo điều 14, Nghị định 113/2010/NĐ-CP, các cơ quan nhà
nước trên được quyềnlựa chọn một trong ba phương thức sau để đòi
bồi thường thiệt hạiđối với môi trường: 1) Thỏa thuận với người gây
thiệt hại;2) Yêu cầu trọng tài giải quyết; 3) Khởi kiện tại tòa án[3].
Hành động này của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là biểu hiện của
một tranh chấp môi trường. Trong trường hợp này, mối quan hệ giữa
cơ quan nhà nước có thẩm quyền với chủ thể gây ô nhiễm, suy thoái
là mối quan hệ tố tụng dân sự (TTDS), chứ không phải mối quan hệ
mệnh lệnh hành chính. Như vậy, chủ thể của tranh chấp môi trường
không chỉ là các tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư mà còn bao gồm
cơ quan nhà nước(Ví dụtrường hợp ở Hộp 2)-Đối tượng hướng tới
của tranh chấp môi trường không chỉlà các quyền và lợi ích liên
quan đến việc phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường
mà còn cảcác sựcốmôi trường phát sinh từhoạt động của con người.
Theo quy định tại Khoản 7, Điều 3 Luật BVMT(BVMT) 2005,
“Sựcốmôi trường là tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt
động của con người hoặc biến đổi thất thường của tựnhiên, gây ô
nhiễm, suy thoái hoặc biến đổi môi trường nghiêm trọng”. Như vậy,
sựcốmôi trường phân làm hai loại: 1) Những sựcốmôi trường phát
sinh từnhững biến đổi bất thường của tựnhiên như cháy rừng do sét
đánh, ô nhiễm do lũ lụt... 2) Những sựsốmôi trường phát sinh từnhững
hoạt động của con ngườinhư sựcốtràn dầu, sựcốlò phản ứng hạt
nhân...Các sựcốmôi trường phát sinh do biến đổi tựnhiênsẽkhông phát
sinh trách nhiệm pháp lý của các chủthể,còn các sựcốmôi trường phát
sinh từhoạtđộng của con người thì sẽphát sinh trách nhiệm pháp lý
cho các chủthểđó. Vì vậy, tranh chấp môi trường cũng phải hướng
đến việc phòng ngừa, khắc phục các sựcốmôi trường phát sinh từhoạt
động của con người. Ví dụnhư vụviệc Uỷban nhân dân (UBND) tỉnh
Bà Rịa -Vũng Tàu uỷquyền cho SởKhoa học Công nghệvà Môi
trường tỉnh khởi kiện Công ty Formosa Plastic Marine và Vitacotại
Tòa án nhân dân(TAND) tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu đòi bồi thường thiệt
hại do ÔNMTvà kinh tếdu lịch và thuỷ-hải sản của tỉnh lên tới 17,2
triệu USD(Hộp 2)cũng được coi là một tranh chấp môi trường.
Đâm tàu, du lịch Bà Rịa -Vũng Tàu thiệt hại 43 tỷ đồngCon số thống
kê trên vừa được Sở Du lịch tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu báo cáo ngày
19/9, vì sự cố tràn dầu do tàu Formosa One của Công ty Formosa
Plastic Marine, đâm vào tàu chở dầu Petrolimex 01, của Công ty Vận
tải xăng dầu khu vực II (Vitaco), ngày 7/9, gây nhiều thiệt hại cho
ngành kinh tế du lịch -dịch vụ tỉnh này.Báo cáo cho biết, ngay sau khi
xảy ra sự cố dầu tràn gây ô nhiễm, lượng khách du lịch tới Vũng Tàu
giảm 1/2. Từ ngày 10/9 trở đi, lượng khách tới Vũng Tàu chỉ còn 1/6,
ngày thứ bảy và chủ nhật chỉ còn 1/10 so với bình thường. Đặc biệt,
khách nước ngoài tới du lịch tại Vũng Tàu chỉ còn 30%, nên thiệt hại
do thất thu ngoại tệ khá lớn.Trước đó, ngày 17/9, UBND tỉnh Bà Rịa
-Vũng Tàu uỷ quyền cho Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường tỉnh
đâm đơn lên TAND tỉnh chính thức khởi kiện Công ty Formosa
Plastic Marine và Vitaco, đòi bồi thường thiệt hại do ÔNMTvà kinh tế
du lịch và thuỷ -hải sản của tỉnh lên tới 17,2 triệu USD. Và Vitaco
cũng đã có đơn khởi kiện tàu Formosa One, thuộc Công ty Formosa
Plastic Marine, bồi thường cho Vitaco 1,653 triệu USD.Ngay trong
ngày 17/9, TAND tỉnh đã triệu tập các bên nguyên đơn và bị đơn
tớitoà án đối chất và ghi lời khai.Hộp 2. UBND tỉnh Bà Rịa –Vũng
Tàu khởi kiện công ty Formosa Plastic Marine và Vitaco[6]Giáo
trình Luật Môi trường của Viện Đại học MởHà Nội, do Tiến sĩ
Nguyễn Văn Phương chủbiên đã định nghĩa“tranh chấp môi
trường là những mâu thuẫn, những bất đồng ý kiến của các
chủthểtham gia các quan hệpháp luật môi trường khi họcho rằng
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bịxâm phạm”[31, tr 225]
Theo định nghĩa này, tranh chấp môi trường sẽphát sinh khi có
chủthểcho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bịxâm phạm. Tuy
nhiên,trên thực tếtranh chấp môi trường có thểphát sinh từkhi quyền
và lợi ích của chủthểcó nguy cơ bịxâm phạm. Trường hợp này thường
liên quan đến các dựán đầu tưvà phát sinh từgiai đoạn đầu của dựán.
Ởgiai đoạn này, mặc dù các quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủthểchưa bịxâm phạm nhưng nếu có căn cứkhoa học cho rằng,
dựán đó có nguy cơ gây ra các vấn đềvềmôi trường nếu không có các
biện pháp ngăn chặnthì người dân vẫn được quyền khởi kiện yêu cầu
chủdựán đầu tư không được tiếp tục tiến hành dựán hoặc phải áp dụng
các biện pháp bảo vệmôi trường phù hợp.Bên cạnh đó, tranh chấp môi
trường không chỉphát sinh từhành vi xâm phạm các quyền và lợi ích
của các chủthểmà còn có thểphát sinh từviệc một chủthểkhông thực
hiện đúng nghĩa vụbảo vệmôi trườngcủa mình. Đào Thanh Trường
trong bài viết phân tích vềTranh chấp môi trường đã đưa ra một
định nghĩa ngắn gọn vềtranh chấp môi trường là “những mâu thuẫn,
tranh chấp, bất đồnggiữa các cá nhân, các nhóm xã hội trong việc khai
thác, sử dụng và BVMT”[28]Như vậy,theo quan điểm cá nhântranh
chấp môi trường“là những mâu thuẫn, bất đồng giữa các
chủthểvềquyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụliên quan đến môi
trường”. Tuy nhiên,tranh chấp chỉhình thành khinhững mâu thuẫn,
bất đồng đó được thểhiện ra ngoài thông qua những hành vi pháp lý
cụthểnhư: gửi văn bản yêu cầu bồi thường thiệt hại, khắc phục
sựcốmôi trường; gửi đơn khiếu kiện...Vậy, môi trường là gì?
Môi trường làmột thuật ngữquen thuộc và được sửdụng rất đa dạng.
Có nhiều định nghĩa khác nhau vềmôi trường được đưa ra tùy thuộc
vào hoàn cảnh và hướng tiếp cận của chủthể.Vềmặt xã hội: “Môi
trường là toàn bộnói chung những điều kiện tựnhiên và xã hội trong
đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệvới
con người hay sinh vật ấy”[21]Vềmặt pháp lý, khoản 1, điều 3 Luật
BVMT 2005 quy định “Môi trường bao gồm các yếu tốtựnhiên và
vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời
sống, sản xuất, sựtồn tại và phát triển của con người và sinh
vật”[7]Phân tích định nghĩa môi trường tại khoản 1, điều 3 ta thấy,
môi trường bao gồm hai nhóm yếu tố: 1) Nhóm yếu tốmôi trường
tựnhiên với các thành tốmôi trường cụthểnhư đất, nước, ánh sáng, âm
thanh, tài nguyên... Những thành tốmôi trường này được hình thành,
phát triển theo quy luật tựnhiên vốn có, không phụthuộc vào ý chí
con người. 2) Nhóm yếu tốvật chất nhân tạo là những vật chất do con
người tác động vào tựnhiên đểphục vụcho nhu cầu của bản thân mình
như đê điều, các công trình xây dựng... Như vậy, theo định nghĩa này,
phạm vi của tranh chấp môi trường sẽbao gồm các tranh chấp liên
quan đến các yếu tốtựnhiên và cảcác tranh chấp liên quan đến các yếu
tốvật chất nhân tạo. Ngày nay, môi trường đang bịbiến đổi theo
chiều hướng xấu đi với hàng loạt các vấn đềphức tạp như biến đổi khí
hậu; thảm họa thiên nhiên; suy giảm tầng Ozon; Cạn kiệt tài nguyên;
suy giảm của các hệđộng, thực vật... Đây là hậu quảtích hợp của nhiều
nguyên nhân khác nhau nhưng theo nhận thức chung thì nguyên nhân
chủyếu là do sựphát triển của các ngành công nghiệp; quá trình đô
thịhóa và dân sốtăng nhanh
- Xem thêm -