Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán việt nam...

Tài liệu Pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán việt nam

.PDF
125
258
57

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VIÊN THẾ GIANG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội năm 2008 MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1. Lý luận về thông tin và công bố thông tin trên thị trường chứng 6 khoán 1.2. Những vấn đề cơ bản của pháp luật về công bố thông tin trên thị 32 trường chứng khoán 1.3. Khái quát quá trình phát triển pháp luật về công bố thông tin trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam 40 Kết luận chương 1 43 CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 2.1. Những kết quả đạt đƣợc 45 2.2. Một số hạn chế của pháp luật về công bố thông tin trên thị trường 67 chứng khoán Kết luận chương 2 79 CHƢƠNG 3 MỘT SỐ Ý KIẾN NHĂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 3.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam 80 1 3.2. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về công bố 93 thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam Kết luận 110 Tài liệu tham khảo 2 DANH SÁCH CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT UBCKNN: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước TTCK: Thị trường chứng khoán CBTT: Công bố thông tin GDCK: Giao dịch chứng khoán LCK: Luật chứng khoán 2006 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công bố thông tin là một yêu cầu không thể thiếu để đảm bảo lòng tin và sự công bằng cho các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán (TTCK). Các tổ chức phát hành, niêm yết phải thực hiện chế độ công bố thông tin kịp thời, chính xác và theo đúng quy định của pháp luật. Công bố thông tin là nguyên tắc công khai, được coi là nguyên tắc hoạt động cơ bản nhất của TTCK. Việc thực hiện pháp luật về công bố thông tin và giám sát quá trình công bố thông tin trên TTCK Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. So với các nước trong khu vực và trên thế giới, TTCK nước ta còn non trẻ và ẩn chứa trong nó nhiều nguy cơ. Cũng giống như những thị trường mới nổi khác, TTCK Việt Nam cũng chịu tác động rất lớn của tình trạng thông tin bất cân xứng (thông tin không đầy đủ, khó tiếp cận thông tin, rò rỉ thông tin, mua bán thông tin nội gián...). Những thăng trầm, biến đổi của TTCK Việt Nam có một phần “đóng góp” không nhỏ của thông tin trên TTCK. Nhận thức được điều đó, các nhà lập pháp nước ta cũng đã quan tâm đến việc xây dựng một hành lang pháp lý thống nhất cho hoạt động CBTT trên TTCK để bảo đảm cho TTCK phát triển minh bạch, an toàn và phát triển bền vững. Việc nghiên cứu quá trình phát triển của pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin đã không ngừng được hoàn thiện theo hướng nâng cao khả năng kiểm soát thông tin của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; bảo đảm tính khách quan, công bằng giữa các công ty niêm yết cũng như các công ty không niêm yết; khả năng tiếp cận được chính xác, đầy đủ các thông tin của nhà đầu tư... như Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Chứng khoán 2006, Thông tư số 38/2007/TT-BTC ngày 18/04/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn về việc công bố thông tin trên TTCK... Các quy định pháp luật này đã tạo thành khung pháp lý bảo đảm cho hoạt động cung cấp thông tin trên TTCK. Tuy nhiên, mức độ tuân thủ các quy định này chưa được cao, tình trạng sử dụng thông tin nội gián để trục lợi vẫn còn khá phổ biến. 4 Tình trạng thông tin bất cân xứng, hạn chế thông tin, thông tin không đầy đủ đã để lại những hậu quả xấu trong cách nhìn nhận của các nhà đầu tư vào thị trường. Nhà đầu tư khó có thể đưa ra được quyết định đúng đắn nhằm giảm thiểu các rủi ro trong hoạt động đầu tư. Việc tìm kiếm các giải pháp cho TTCK Việt Nam phát triển ổn định và bền vững là yêu cầu hết sức cấp bách. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu các nội dung liên quan đến thông tin trên TTCK Việt Nam cũng đã được rất nhiều người quan tâm. Tuy nhiên các nghiên cứu đó mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá, bình luận của của báo giới, của những người có chức trách trong các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc của các chuyên gia tài chính, như GS.,TSKH Nguyễn Duy Gia đề cập đến việc minh bạch và công khai đối với TTCK trong cuốn “Một số vấn đề cần biết về TTCK Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2003; Chương 8 Hệ thống thông tin trên TTCK Giáo trình TTCK, trường Đại học Kinh tế quốc dân, Nxb Tài chính Hà Nội, 2002; Chương 8 Hệ thống thông tin thị trường, Giáo trình TTCK, Học viện Ngân hàng, Nxb Thống Kê, Hà Nội 2002; TS Nguyễn Minh Phong (2007) Nhận diện những rủi ro trong đầu tư chứng khoán, Tạp chí Tài chính số tháng 5, tr 43-45; PGS.,TS Lê Hoàng Nga (2007) Cách thức đầu tư và phòng chống rủi ro chứng khoán đối với nhà đầu tư cá nhân tham gia TTCK, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam, số 103, tháng 5/2007, tr 8-11, Viên Thế Giang (2007), Thông tin trên thị trường chứng khoán những vấn đề cần lưu ý, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng số 12/2007, Viên Thế Giang (2008), Hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 1+2/2008, Viên Thế Giang (2008), Vai trò của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giám sát hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 6/2008, Viên Thế Giang (2008), Minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 13 tháng 7/2008... Những nghiên cứu mang tính tổng thể đánh giá về các tác động của thông tin, công bố thông tin và pháp luật về CBTT trên TTCK đến hoạt động đầu tư chứng khoán lại chưa có nhiều. Chính vì vậy, việc lựa chọn đề tài 5 “Pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học luật là một đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu Là luận văn chuyên ngành luật học, Luận văn tập trung phân tích, đánh giá, bình luận về các quy định pháp luật hiện hành về công bố thông tin trên TTCK trong mối tương quan với quá trình xây dựng và hoàn thiện TTCK trong điều kiện hội nhập quốc tế, nhất là các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ chứng khoán, thì các quy định pháp luật hiện hành về CBTT cần phải hoàn thiện như thế nào. Để làm được điều này, luận văn tập trung nghiên cứu, xây dựng hệ thống các vấn đề lý luận về thông tin trên TTCK trên cơ sở đó phân tích các nhân tố tác động đến chất lượng thông tin, hoạt động CBTT trên TTCK; các yêu cầu đối với thông tin trên TTCK làm tiền đề cho các yêu cầu đối với pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam. Từ những vấn đê lý luận trên, Luận văn phân tích thực trạng pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam, chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế của các quy định hiện hành làm cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các quan điểm khoa học nhằm hoàn thiện pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như chuẩn mực về quản lý thị trường của Tổ chức quốc tế của các UBCKNN. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp từ đó rút ra các đặc điểm, quy luật về thông tin và CBTT trên TTCK Việt Nam, nhận diện những bất cập trong các quy định pháp luật về CBTT và đề xuất một số quan điểm nhằm hoàn thiện pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam. Ngoài các phương pháp trên, tác giả cũng sử dụng phương pháp điều tra xã hội học đối với các nhà đầu tư cũng như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về thực trạng pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam. 5. Nội dung nghiên cứu chính của đề tài Luận văn nghiên cứu và xây dựng hệ thống lý luận về thông tin, công bố thông tin trên TTCK Việt Nam. Phân tích sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động công bố thông tin trên TTCK, những đặc trưng, yêu cầu của pháp luật 6 về CBTT trên TTCK, nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật một số nước về CBTT trên TTCK từ đó rút ra những bài học cho việc xây dựng, thực thi pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam. Luận văn khái quát quá trình hình thành và phát triển pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam, phân tích những kết quả đã đạt được, chỉ ra những bất cập cần tiếp tục hoàn thiện trong tình hình mới. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đã đạt được từ việc phân tích thực trạng thi hành pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam, luận văn nghiên cứu và đề xuất cơ sở và phương hướng hoàn thiện pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam. 6. Những đóng góp về khoa học và thực tiễn của đề tài 6.1. Những đóng góp về khoa học. - Luận văn đã hệ thống hóa được những lý luận về thông tin, hoạt động công bố thông tin trên TTCK Việt Nam. Chỉ ra những nhân tố tác động đến hoạt động CBTT và xây dựng được hệ thống các tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin trên TTCK Việt Nam. Luận văn chỉ ra sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động CBTT trên TTCK, đặc trưng và các yêu cầu của pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam; - Luận văn đã khái quát được quá trình hình thành và phát triển pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam, phân tích những kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam, trên cơ sở đó, Luận văn xây dựng được hệ thống quan điểm lý luận và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam. 6.2. Những đóng góp về thực tiễn Thông qua các tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin trên TTCK, cơ quan quản lý thị trường, nhà đầu tư và tổ chức phát hành có được cơ sở lý luận nhằm từng bước nâng cao chất lượng thông tin trên TTCK, để thông tin trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất giúp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh chứng khoán. Những quan điểm, đề xuất trong luận văn cũng sẽ giúp ích cho cơ quan nhà 7 nước có thẩm quyền trong việc sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành về CBTT trên TTCK Việt Nam. 7. Kết cầu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cầu làm ba chương sau: Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về thông tin và pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Chƣơng 2. Thực trạng pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam Chƣơng 3. Hoàn thiện về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 8 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THÔNG TIN VÀ CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thông tin và công bố thông tin trên thị trƣờng chứng khoán 1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thông tin trên thị trường chứng khoán a) Khái niệm thông tin trên thị trường chứng khoán “Biết địch biết ta trăm trận trăm thắng”, lời dạy của cổ nhân đến nay vẫn còn nguyên giá trị nhất là trong hoạt động đầu tư chứng khoán với những biến động không ngừng, bởi chỉ cần một quyết định đúng đắn hay sai lầm của nhà đầu tư sẽ biến họ thành kẻ trắng tay hay là những tỷ phú. Phân tích những rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán, thì rủi ro thông tin được coi là rủi ro lớn nhất và cũng là nguồn cội của mọi rủi ro trong đầu tư chứng khoán đó chính là rủi ro từ sự dại dột và những sai lầm do thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng tổng hợp, phân tích và phản ứng thị trường nhạy bén, chính xác của nhà đầu tư. Do đó, khả năng lắng nghe, phân tích các “chiêu thức” và cả nghệ thuật “tung tin đồn”, gây nhiễu thông tin của các “đại gia” hoặc đại bợm kinh doanh chứng khoán, hay bản thân các công ty, tổ chức phát hành chứng khoán sẽ là bùa hộ mệnh để nhà đầu tư bảo vệ mình tránh được những cạm bẫy và gắn với thế giới thông tin thường luôn mờ ảo trên thị trường đặc thù này [19, tr43-45]. Giá trị của thông tin trên TTCK đã và đang mang lại những hiệu quả hết sức to lớn, song ẩn sau những thông tin được công bố là những hiểm hoạ mà nếu không được kiểm soát, giám sát chặt chẽ thì có thể làm đảo lộn trật tự, quy luật thị trường. Thanh tra Ủy ban Chứng khoán đã tiến hành kiểm tra tình hình thực hiện việc CBTT của một số công ty niêm yết với những đánh giá chi tiết và đề xuất các lưu ý đối với các tổ chức này trong hoạt động CBTT. 9 TTCK được coi là thị trường của thông tin, thông tin là mối dây liên kết các nhà đầu tư, cơ quan quản lý với thị trường bởi bất cứ một thông tin nào mới trên TTCK cũng ngay lập tức ảnh hưởng đến hành vi của nhà đầu tư chứng khoán. Việc thành bại trên thị trường của nhà đầu tư một phần là do việc nhà đầu tư có nắm bắt được thông tin hay không, kỹ năng tiếp cận và xử lý thông tin như thế nào. Các thông tin trên TTCK được nhiều các chủ thể khác nhau công bố và ở mỗi chủ thể CBTT, pháp luật lại có các yêu cầu khác nhau nhằm hướng tới mục tiêu bảo đảm sự phát triển nhanh, bền vững của TTCK đáp ứng các yêu cầu của tiến trinh hội nhập quốc tế. Dưới góc độ kinh tế, thông tin trên TTCK được hiểu là toàn bộ các thông tin phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong những giai đoạn phát triển nhất định. Tình hình tài chính của doanh nghiệp được phản ánh thông qua các báo cáo tài chính, bảng kê chi tiết tài sản, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chiến lược phát triển của doanh nghiệp trong tương lai... và như vậy, khi nhìn vào những tài liệu này chúng ta có thể thấy được độ “lành mạnh” của tình hình tài chính của doanh nghiệp, cũng như tiềm năng, khả năng sinh lợi của doanh nghiệp ở hiện tại và tương lai. Dưới góc độ xã hội, thông tin trên TTCK là một bộ phận không thể thiếu của TTCK. Thông qua kênh thông tin, nhà đầu tư có được cái nhìn tổng thể về TTCK cũng như thông tin đối với các công ty niêm yết. Các thông tin trên TTCK như thông tin về tổ chức phát hành, thông tin về chỉ số chứng khoán, thông tin về diễn biến các giao dịch trên thị trường... phản ánh quy mô, mức độ phát triển của TTCK, khẳng định vai trò là “hàn thử biểu” của TTCK đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Việc tiếp cận thông tin của nhà đầu tư có dễ dàng hay không cũng là một yếu tố giúp cho thị trường hoạt động có hiệu quả và an toàn. Thông qua hệ thống thông tin được công bố trên thị trường, nhà đầu tư có được các quyết định đầu tư phù hợp với những thông tin mà mình đã có được. Với hệ thống thông tin minh bạch, rõ ràng, TTCK sẽ thu hút được tối đa các nguồn lực của xã hội cho hoạt động đầu tư. Thông 10 tin trên thị trường chứng khoán là hệ thống các dữ liệu liên quan đến tổ chức niêm yết do các chủ thể có thẩm quyền cung cấp theo quy định của pháp luật. Dưới góc độ pháp lý, thông tin trên TTCK phản ảnh mức độ tuân thủ các quy định pháp luật được áp dụng đối với các chủ thể tham gia thị trường, phản ánh hàng loạt các quan hệ pháp luật đa dạng phức tạp trong nội bộ của doanh nghiệp, như quan hệ giữa cổ đông với thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Ban Giám đốc; thể hiện mức độ tuân thủ pháp luật về CBTT đối với các chủ thể tham gia thị trường. Như vậy, dưới góc độ pháp lý, thông qua các thông tin về doanh nghiệp là điều kiện để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét quyết định cho phép tổ chức phát hành được chào bán cổ phiếu ra công chúng để huy động vốn. Pháp luật về CBTT cũng quy định rõ điều kiện, đối tượng, hình thức, phương tiện CBTT đối với các chủ thể tham gia thị trường. Từ những phân tích trên, có thể rút ra những nhận định cơ bản sau đây [9]: Một là, thông tin trên TTCK là nhân tố quan trọng giúp cho nhà đầu tư đưa ra các quyết định đầu tư. Các thông tin đó định hướng và giúp cho các nhà đầu tư lựa chọn được các công ty có triển vọng để quyết định đầu tư nhằm giảm thiểu rủi ro; Hai là, minh bạch thông tin là một trong những yếu tố quan trọng giúp làm lành mạnh thị trường, hoạt động an toàn và bền vững; Ba là, giá trị của thông tin trên TTCK rất lớn, ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư chứng khoán cũng như của các cơ quan quản lý. Điều này đặt ra yêu cầu khi tiếp cập đối với các thông tin trên TTCK buộc nhà đầu tư cũng như nhà quản lý phải có những chọn lọc rất kỹ càng trước khi đưa ra quyết định; Bốn là, khung pháp luật về CBTT trên TTCK và việc tổ chức thực hiện là vấn đề mấu chốt hiện nay để nâng cao tính minh bạch của TTCK. Yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan quản lý nhà nước là phải tìm ra được các biện pháp để nâng việc tuân thủ pháp luật về CBTT của các chủ thể; Năm là, nâng cao nhận thức của nhà đầu tư trong việc phân tích thông tin trên TTCK vẫn vần vấn đề mang tính thời sự đối với nhà đầu tư nước ta hiện nay, đặc 11 biệt là trên thị trường OTC, bởi lẽ, chỉ khi nhà đầu tư có được các kỹ năng phân tích thông thi thì sẽ hạn chế được rủi ro bầy đàn trong đầu tư chứng khoán; b) Đặc điểm thông tin trên thị trường chứng khoán. Thứ nhất, thông tin trên thị trường chứng khoán là hệ thống các dữ kiện liên quan đến hoạt động của các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán. Hệ thống các dữ kiện này được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như, các báo cáo tài chính hàng năm, Nghị quyết đại hội đồng cổ đông, việc xây dựng chiến lược và các biện pháp bảo đảm thực thi Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông của Hội đồng quản trị… Thông qua hệ thống thông tin này, nhà đầu tư có được cái nhìn nhận về hiện trạng và xu hướng phát triển của công ty ở hiện tại và tương lai trên cơ sở đó đưa ra quyết định đầu tư. Hệ thống các dữ kiện này được truyền tải qua các phương tiện thông tin đại chúng cũng như hệ thống lưu trữ dữ kiện/tài liệu nội bộ của tổ chức niêm yết và cơ quan quản lý thị trường. Tổ chức niêm yết chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chân thực của các thông tin này. Yêu cầu đối với hệ thống dữ kiện của tổ chức niêm yết là phải dễ dàng tiếp cận với những ai muốn tìm hiểu về công ty. Thứ hai, thông tin trên TTCK là một bộ phận cấu thành nên thị trường. Thông qua kênh thông tin, nhà đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, các chuyên gia tài chính ngân hàng có thể nhận biết được xu hướng phát triển của thị trường từ đó đưa ra được những cảnh báo hoặc định hướng phát triển. Tuy nhiên, trong điều kiện ai cũng có thể đưa ra thông tin, bình luận thông tin trong cách nhìn nhận riêng của cá nhân mình dễ dẫn đến tình trạng loạn thông tin và nếu không thận trọng thì sẽ dễ dẫn đến những quyết định sai lầm hoặc gây thiệt hại cho các tổ chức niêm yết một cách vô tình hay hữu ý. Là bộ phận cấu thành nên thị trường, hệ thống thông tin cần được kiểm duyệt chặt chẽ, nhất là các thông tin có nguy cơ gây nhiễu loạn thị trường. Minh định trong chính sách về phát triển thị trường, ấn định hệ thống các thông tin phải công bố là một trong những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của bộ phận thông tin của 12 thị trường. Chỉ khi có được hệ thống thông tin thị trường minh bạch mới có thể tạo lập được TTCK phát triển ổn định và bền vững. Thứ ba, thông tin trên TTCK là cơ sở để các nhà đầu tư phân tích, đánh giá, thương lượng với nhau. Thông tin là thước đo phản ánh giá trị của doanh nghiệp. Thông qua hệ thống các chỉ số về vốn, về lợi nhuận, về chiến lược kinh doanh… nhà đầu tư có thể thấy được tiềm năng phát triển của tổ chức phát hành. Không phải ngẫu nhiên mà mỗi lần đấu giá cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) đều rất được giới đầu tư chú ý. Các nhà đầu tư đua nhau tìm kiếm các thông tin, không chỉ từ các báo cáo có liên quan mà còn thông qua báo chí, thậm chí là các mối quan hệ của những người có liên quan đến tổ chức niêm yết. Nhận thấy tiềm năng phát triển của tổ chức niêm yết, nhà đầu tư sẵn sàng mua với mức giá cao miễn là được sở hữu cổ phần của công ty. Từ đó có thể khẳng định, thông tin liên quan đến tổ chức niêm yết là cơ sở không thể thiếu được để nhà đầu tư ra quyết định đầu tư. Riêng đối với TTCK Việt Nam thông tin lại càng quan trọng hơn, bởi lẽ, thông tin trên TTCK Việt Nam đa dạng, đủ loại, song việc kiểm định độ chính xác, khách quan những thông tin là không dễ dàng, thêm vào đó, đa phần các nhà đầu tư nước ta ít hiểu biết về TTCK, tâm lý đầu tư theo đám đông nên các nhà đầu tư thường hay nghe ngóng và có thiên hướng ngả theo đám đông nên hiện tượng “thông tin rỉ tai” là phổ biến. Điều nguy hại là các nhà đầu tư của ta tỏ ra tin tưởng với các luồng thông tin này và dạng “thông tin rỉ tai” như một “vết dầu loang” có sức lan toả nhanh song hết sức mỏng manh và dễ tan vỡ. Đã không ít nhà đầu tư cá nhân thường tìm đến những “tay không tham gia thị trường”. Họ là những sinh viên các trường kinh tế tham gia thị trường vừa để học tập kinh nghiệm thực tiễn vừa kiếm tiền, vì họ là những người ít nhiều có kiến thức về chứng khoán và TTCK nên thường được nhờ đặt lệnh mua hoặc bán, đôi khi còn đưa ra lời khuyên cho không ít nhà đầu tư. Còn nhà đầu tư tổ chức thường tìm đến các công ty chứng khoán với đội ngũ cán bộ môi giới – tư vấn của chính am hiểu thị trường. Cách làm này có ưu điểm là nhà đầu tư dễ có được những lời khuyên và 13 định hướng được hoạt động đầu tư, song theo các chuyên gia thì cách làm này ẩn chứa những nguy cơ [9]. Do biết được các thông tin nội bộ nên đã không ít các trường hợp, người quản trị doanh nghiệp lợi dụng sự hiểu biết của mình để bán thông tin hoặc tìm cách để đưa người thân của mình vào để mua cổ phiếu của công ty. Thực tế này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của công ty. Công ty bị tước đoạt đi các giá trị mà đáng lẽ công ty được hưởng đồng thời làm mất đi các cơ hội kinh doanh của các nhà đầu tư khác; đồng thời làm mất đi tính công bằng, khách quan của thị trường. Để bảo đảm cho thông tin để các nhà đầu tư phân tích, đánh giá, thương lượng với nhau thì thông tin phải bảo đảm các yêu cầu: - Các thông tin về diễn biến hoạt động của công ty phải được công bố kịp thời, nhất là các thông tin bất thường, các giao dịch lớn, giao dịch của cổ đông lớn trong công ty; - Mỗi tổ chức phát hành cần có bộ phận chuyên trách để thu thập, phân tích, xử lý và công bố thông tin về tình hình hoạt động của công ty; - Tổ chức phát hành phải thường xuyên cập nhật thông tin lên trang thông tin điện tử của mình; - Nâng cao ý thức và vai trò của cổ đông trong việc yêu cầu công ty cung cấp thông tin đáp ứng yêu cầu của mình để bảo đảm sự bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin của nhà đầu tư. Do vậy, vấn đề kiểm soát thông tin công bố trên TTCK, các biện pháp chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về CBTT trên TTCK là công cụ thiết lập trật tự kỷ cương của thị trường, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống thông tin thị trường, từ đó giúp cho thị trường hoạt động theo đúng quy luật, an toàn và phát triển bền vững phải được quan tâm hàng đầu và tiến hành thường xuyên. Thứ tƣ, thông tin trên TTCK là một trong những biểu hiện và làm gia tăng giá trị của công ty niêm yết, song nó cũng có thể gây bất lợi cho công ty. Một công ty làm ăn có hiệu quả, chiến lược kinh doanh khả thi, tình hình tài chính lành mạnh tất yếu sẽ được nhà đầu tư chú ý và giá cổ phiếu niêm yết của công ty sẽ cao. Đây là 14 điều hiển nhiên. Thực tế cho thấy, một công ty với nhiều thành tích, được báo giới nhắc đến nhiều, hoặc là các nhà tài trợ cho các chương trình thì càng được công chúng biết đến và điều đó đã làm gia tăng đáng kể giá trị của công ty. Một trong những lợi ích của việc niêm yết trên TTCK, đó là các tổ chức niêm yết có được phương tiện quảng cáo rất hữu hiệu, tạo thêm được lợi thế cạnh tranh trên trường vì thông qua số lượng giao dịch cổ phiếu của công ty được giao dịch hàng ngày, công ty sẽ thu hút được thêm nhà đầu tư cũng như đối tác mới. Tuy nhiên, nếu các thông tin về tổ chức niêm yết bị bóp méo, hoặc thông tin sai lệch thì đó lại là điều hết sức tai hại và có thể “giết chết” tổ chức niêm yết. Tổ chức niêm yết càng có uy tín, càng được sự tin tưởng của công chúng bao nhiêu, khi có những thông tin ngược chiều, thì càng nguy hiểm bấy nhiêu, vì tổ chức niêm yết không chỉ mất các nhà đầu tư hiện tại, mà còn mất luôn các nhà đầu tư tiềm năng. Hoạt động đầu tư chứng khoán, niêm tin là yếu tố quan trọng nhất, là động lực, lực đẩy TTCK nói chung và tổ chức niêm yết nói riêng phát triển. Và như vậy, khi tổ chức niêm yết mất niềm tin đối với công chúng đầu tư thì sẽ không thể tồn tại và phát triển được. Tính hai mặt của thông tin trên TTCK đặt ra yêu cầu đối với cổ đông, nhà quản trị, cơ quan quản lý nước có thẩm quyền là cần hết sức thận trọng trước các thông tin liên quan đến hoạt động của tổ chức niêm yết, nhất là các thông tin có nguy cơ gây hại. Bởi lẽ, trong tình huống đó, bất cứ một động thái nào của những người có liên quan cũng ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức niêm yết. Thứ năm, thông tin trên TTCK có tác động rất lớn đối với thị trường cũng như cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiện toàn hoạt động của thị trường và việc hoạt định chính sách phát triển TTCK. Thông tin trên TTCK chính là biểu hiện của những phản ứng thị trường đối với cơ chế chính sách, pháp luật của Nhà nước, cung cách quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Những phản ứng thị trường đó cần được các cơ quan quản lý nhà nước nghiêm túc tiếp nhận và từng bước nghiên cứu và có những bước hiệu chỉnh cho phù hợp. TTCK Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện, những phản ứng thị trường đó phải được 15 coi là những dấu hiệu đáng mừng, vì thông qua những phản ứng thị trường đó những điểm yếu của TTCK mới được bộ lộ và như vậy Nhà nước sẽ dễ dàng hơn trong việc “bốc thuốc trị bệnh” cho TTCK trong những trường hợp cần thiết. 1.1.1.2. Hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán a) Khái niệm công bố trên thị trường chứng khoán Để thông tin đến được người có nhu cầu không thể không có hoạt động công bố. Hoạt động CBTT là hoạt động thường xuyên của các chủ thể có nghĩa vụ CBTT. Hoạt động CBTT không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân tổ chức phát hành mà còn có ý nghĩa đối với cả nhà đầu tư, với cơ quan quản lý nhà nước. Thực tiễn hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp không chỉ bó hẹp trong một vài quan hệ kinh doanh, mà các quan hệ kinh doanh đó tồn tại đan xen và phức tạp. Các thông tin liên quan đến hoạt động của công ty nếu chỉ bó hẹp trong phạm vi “quản trị nội bộ” thì không ai có thể tiếp cận được với các luồng thông tin nội bộ đó. Hoạt động của công ty gắn liền với thị trường và cần có sự giám sát của thị trường bên cạnh sự giám sát của cổ đông công ty. Thông qua hoạt động giám sát từ bên ngoài, từ thị trường, công ty buộc phải điều chỉnh hành vi của mình, của cổ đông và của người quản trị công ty. Công ty hoạt động với quy mô và tính chất đại chúng càng cao thì yêu cầu công khai và minh bạch hoá thông tin càng lớn. Có rất nhiều thông tin công ty cần phải công khai hoá, như thực trạng và cơ cấu sở hữu, mục tiêu hoạt động, thực trạng tài chính, tiềm năng và rủi ro… đến tập thể và cá nhân những người quản lý công ty và những lợi ích có liên quan đều phải công khai hoá. Thông quan hoạt động CBTT, chúng ta có được một cái nhìn toàn diện về TTCK trong một giai đoạn nhất định. Bởi lẽ, pháp luật quy định việc CBTT không phải chỉ là của các tổ chức niêm yết mà còn cả của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tất cả các hoạt động CBTT đó được cộng hưởng cùng với các phương tiện truyền thông đại chúng giúp cho các thông tin được công bố đến với công chúng đầu tư nhanh hơn. 16 Độ chính xác, khách quan, kịp thời của hoạt động CBTT luôn là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Nếu thông tin không chính xác, không khách quan, không kịp thời thì ngay lập tức nó ảnh hưởng đến kết quả đầu tư của công ty cũng như của các nhà đầu tư. Người quản lý công ty phải chịu trách nhiệm về tính đầy đủ, chính xác, tin cậy và kịp thời của các thông tin được công khai hoá. Đối với TTCK bên cạnh thông tin của các công ty, thì thông tin từ Sở Giao dịch/Trung tâm GDCK và từ UBCKNN cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Nguyên tắc 11 và Nguyên tắc 12 trong bộ 30 nguyên tắc quản lý TTCK của IOSCO quy định rõ: cơ quan quản lý TTCK cần có thẩm quyền chia sẻ thông tin công khai và không công khai với các đối tác trong và ngoài nước. Cơ quan quản lý TTCK cần xác lập cơ chế chia sẻ thông tin với các đối tác trong và ngoài nước. Như vậy, cùng với thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác về kết quả tài chính và thông tin khác có tính chất trọng yếu đối với quyết định của người đầu tư cần được công bố của tổ chức phát hành và của Sở giao dịch/Trung tâm GDCK và của UBCKNN tạo thành một hệ thống thông tin trên TTCK. Tất cả hệ thống thông tin đó phải được công bố kịp thời. CBTT trên TTCK là hoạt động của các chủ có thẩm quyền nhằm công bố các thông tin liên quan đến tổ chức và hoạt động của tổ chức phát hành, của hoạt động quản lý các GDCK và hoạt động quản lý nhà nước về TTCK. b) Đặc điểm của hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Một là, CBTT trên TTCK là hoạt động thường xuyên của các chủ thể. Thị trường luôn biến động không ngừng, theo đó, các quan hệ kinh doanh giữa các chủ thể cũng phải biến đổi theo cho phù hợp với các yêu cầu của thị trường. Thông qua hoạt động CBTT, các nhà đầu tư thấy được diễn biến hoạt động của công ty trong thời gian dài, từ đó họ có thể dễ dàng đưa ra nhận định về xu hướng phát triển của công ty trong thời gian tới. Đối với Trung tâm/Sở GDCK, hoạt động CBTT thường xuyên của công ty niêm yết giúp cho nhà đầu tư có điều kiện đối chiếu, so sánh các thông số kinh tế của công ty và của Trung tâm/Sở GDCK. Là đầu mối tập trung hệ thống thông tin, UBNCKNN là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng 17 khoán và TTCK, cùng với hệ thống chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm lại hoàn toàn khách quan và công tâm trong việc phân tích đánh giá hệ thống thông tin thị trường từ đó đưa ra các khuyến cáo đối với thị trường. Chỉ khi hoạt động CBTT được tiến hành thường xuyên, tính minh bạch, công khai, liên tục của TTCK mới được bảo đảm. Điều này càng có ý nghĩa hơn đối với thị trường mới nổi như TTCK Việt Nam. Nói cách khác, thông tin về doanh nghiệp được công bố thường xuyên sẽ góp phần rất lớn vào việc tạo lập, củng cố niềm tin của giới đầu tư và các bên có liên quan vào thị trường vốn; là yếu tố không thể thiếu đối với sự ổn định và hiệu quả hoạt động của thị trường. Nó ngăn ngừa và làm giảm được những ửng xử trái đạo đức và hành vi lạm dụng, trái đạo đức, trái pháp luật gây hại không chỉ quyền lợi của công ty, của cổ đông mà còn cả nền kinh tế. Hai là, hoạt động CBTT trên TTCK gắn liền với diễn biến hoạt động của tổ chức phát hành và của thị trường. Đây là yếu tố sống còn để thị trường hoạt động có hiệu quả và phát huy được hiệu lực của hoạt động giám sát theo cơ chế thị trường đối với công ty. Các quy định về giao dịch tư lợi trong Luật Doanh nghiệp sẽ trở nên vô nghĩa nếu tất các các thông tin liên quan đến hoạt động công ty không đến được với cổ đông, đến được với thị trường. Thông qua các thông tin được công bố, các cổ đông có điều kiện thực hiện các quyền chủ sở hữu, thông qua đó bảo vệ lợi ích của họ ở công ty, nhất là các cổ đông thiểu số. Pháp luật về CBTT trên TTCK các nước đều yêu cầu việc CBTT của các tổ chức phát hành tập trung vào các dạng thông tin: thông tin định kỳ, thông tin bất thường, thông tin theo yêu cầu, quy định này không ngoài mục đích giúp cho nhà đầu tư, cơ quan quản lý theo sát được diễn biến hoạt động của tổ chức niêm yết, kịp thời phát hiện các thông tin sai lệch, xử lý kịp thời các hành vi trục lợi/vi phạm pháp luật về CBTT để tránh các thiệt hại có thể phát sinh. Loại thông tin yêu cầu phải công khai hoá và mức độ công khai hoá có thể khác nhau giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ. Nhưng nhìn chung, xét về khung quản trị tốt, thì thông tin về các vấn đề sau đây nên được công khai hoá: i) Thông tin về sứ mạng và mục tiêu của công 18 ty; ii) Thông tin về sở hữu và quyền biểu quyết; iii) Thông tin về tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty; iv) Thông tin về Hội đồng quản trị; v) Thông tin về các giao dịch đối với các bên liên quan [8, tr 15-18]. Ba là, hoạt động CBTT gắn liền với thẩm quyền của các chủ thể nhất định. Công ty là một thực thể nhân tạo, nên tự nó không thể thực hiện được các hoạt động mà phải thông qua người đại diện có thẩm quyền. Người đại diện có thẩm quyền sẽ là người thay mặt cho công ty công bố các thông tin. Phạm vi quyền được công bố những thông tin nhất định do pháp luật và Điều lệ công ty quy định. Chỉ những thông tin của người có thẩm quyền công bố mới được coi là nguồn thông tin chính thức của công ty và công ty chỉ phải chịu trách nhiệm về các thông tin do người có thẩm quyền của mình công bố. Đặc điểm này đưa đến một khuyến cáo đối với nhà đầu tư khi tiến hành tìm hiểu về thông tin được một công ty công bố là xem xét thông tin đó có phải do các chủ thể có thẩm quyền công bố hay không, nhất là các thông tin về tình hình tài chính, như bảng cân đối tài sản, quyết toán lỗ và lãi, bảng lưu chuyển dòng tiền và giải trình về báo cáo tài chính. Vì đây là các thông tin được sử dụng nhiều nhất, là các thông tin “cứng”, thông tin chuẩn mực cho phép các nhà đầu tư đánh giá giá trị của công ty theo đúng những gì đã diễn ra trong quá khứ; hoặc cho phép nhà đầu tư ước tính được giá trị giải thể công ty theo cách các tài sản của công ty được bán một cách đơn lẻ; tạo điều kiện cho các bên có liên quan có thể giám sát theo có chế thị trường đối với công ty; đồng thời, đó cũng là cơ sở để xác định trị giá công ty [8, 15-18]. c) Vai trò của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc kiểm soát việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Tổ chức quốc tế của các UBCKNN (International Organization of Securities Commissions - IOSCO) đã chỉ rõ mục tiêu của hoạt động quản lý TTCK phải bảo đảm: Bảo vệ người đầu tư; Đảm bảo thị trường công bằng, hiệu quả và minh bạch; và giảm thiểu rủi ro hệ thống. Thực hiện được mục tiêu này, cơ quan quản lý TTCK còn rất nhiều việc phải làm và phải nỗ lực trong thời gian dài. Một thị trường mới 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan