Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ở việt nam ...

Tài liệu Pháp luật về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ở việt nam hiện nay luận văn ths. luật

.PDF
124
458
70

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THU TRANG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM BẮT BUỘC TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THU TRANG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM BẮT BUỘC TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuyến Hà nội – 2011 MỤC LỤC Trang Lời mở đầu .................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài........................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................... 2 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ....................................................................... 2 4. Mục đích nghiên cứu của đề tài ..................................................................... 3 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài ..................................................................... 3 6. Kết quả mới đạt được của luận văn ............................................................... 3 7. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 4 Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới .............................................................................. 5 1.1. Tổng quan về bảo hiểm trách nhiệm dân sự ................................................... 5 1.1.1. Cơ sở ra đời và tồn tại của bảo hiểm.............................................................. 5 1.1.2. Khái niệm bảo hiểm trách nhiệm dân sự .............................................................. 7 1.1.3. Đặc điểm của bảo hiểm trách nhiệm dân sự ......................................................... 8 1.1.4. Các loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự ......................................................... 13 1.1.5. Những nguyên tắc chung của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự ............... 16 1.2. Tổng quan về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ....... 19 1.2.1. Khái niệm và các hình thức bảo hiểm xe cơ giới............................................... 19 1.2.2. Khái niệm và đặc trưng của bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới................................................................................................ 20 1.2.3. Vai trò của bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ............ 22 1.2.4. Các nội dung cơ bản của chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ................................................................................................ 24 1.3. Khái quát về pháp luật bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ở Việt Nam........................................................................................ 34 1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới .................................................................................... 34 1.3.2. Cấu trúc pháp luật bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ............................................................................................................... 36 1.4. Pháp luật về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới của một số nước trên thế giới ........................................................................ 37 1.4.1. Vài nét về pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ở một số nước trên thế giới......................... 37 1.4.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam từ thực tế điều chỉnh pháp luật của Trung Quốc và Nhật Bản ........................................................................ 41 Kết luận chương 1 ......................................................................................... 43 Chƣơng 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ở Việt 44 Nam.............................................................................................................. 2.1. Thực trạng pháp luật về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay ..................................................................... 44 2.1.1. Những nội dung chủ yếu của pháp luật hiện hành về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ở Việt Nam…………. 44 2.1.2. Đánh giá thực trạng pháp luật về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ở Việt Nam ...................................................................... 49 2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ......................................................................................... 73 Kết luận chương 2 ......................................................................................... 96 Chƣơng 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ở 97 Việt Nam ...................................................................................................... 3.1. Các kiến nghị liên quan đến cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm ............. 97 3.1.1. Hoàn thiện khung pháp lý cho chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới .............................................................................. 97 3.1.2. Tăng cường kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ............. 104 3.1.3. Xây dựng các thiết chế hỗ trợ quản lý nhà nước về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ........................................................... 107 3.2. Các giải pháp liên quan đến doanh nghiệp bảo hiểm ..................................... 109 3.3. Các giải pháp liên quan đến người tham gia bảo hiểm và Hiệp hội bảo hiểm 112 Kết luận chương 3................................................................................................ 115 Kết luận chung ................................................................................................... 116 Tài liệu tham khảo ............................................................................................. 118 LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài : Bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới là một loại hình bảo hiểm mà theo đó doanh nghiệp bảo hiểm cam kết bồi thường cho người được bảo hiểm các khoản tiền nằm trong giới hạn bảo hiểm mà người được bảo hiểm có nghĩa vụ phải trả cho những thiệt hại về người và tài sản phát sinh từ những rủi ro bất ngờ trong quá trình hoạt động của xe cơ giới. Bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới có vai trò quan trọng góp phần ổn định tài chính, khắc phục hậu quả khi rủi ro xảy ra cho người tham gia bảo hiểm đồng thời cũng là một trong các biện pháp hỗ trợ, có ý nghĩa quan trọng trong việc hạn chế, khắc phục hậu quả tai nạn giao thông và xây dựng văn hoá giao thông lành mạnh. Trên thực tế, khi có tai nạn xảy ra, chủ phương tiện giao thông nhiều trường hợp không có khả năng tài chính để khắc phục sẽ để lại hậu quả lâu dài cho bản thân và người không may gặp tai nạn. Nhưng khi mua bảo hiểm, DNBH sẽ đứng ra giải quyết hậu quả bằng việc bồi thường tai nạn, giúp đỡ chủ phương tiện và người bị nạn giảm tổn thất về tài chính trên cơ sở sử dụng tiền phí bảo hiểm của nhiều người, giúp đỡ những người không may gặp rủi ro. Mặt khác, các DNBH cũng sử dụng chính số tiền mua bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới để thực hiện công tác đề phòng và hạn chế tai nạn giao thông như xây dựng hành lang an toàn giao thông, hỗ trợ xây dựng biển báo… góp phần làm giảm tai nạn giao thông. Với ý nghĩa xã hội to lớn đó của bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới, ở nước ta, chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới trong thời gian qua đã được Nhà nước quan tâm triển khai. Tuy nhiên do một số lý do khách quan và chủ quan từ phía người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm, cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm, các Bộ, ngành có liên quan và sự hạn chế, thiếu tính khả thi của một số quy định pháp luật nên pháp luật về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới chưa thực sự được doanh nghiệp bảo hiểm, chủ xe cơ giới 1 tuân thủ đầy đủ, do vậy chưa phát huy được hết giá trị xã hội của loại hình bảo hiểm này. Xuất phát từ thực tế đó thì việc nghiên cứu đề tài để tiếp tục đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới là vấn đề cần thiết. Với lý do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM BẮT BUỘC TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY để làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay mới chỉ được đề cập dưới dạng các bài viết được đăng tải rải rác trên các tạp chí hoặc dưới hình htức các ý kiến tản mạn của các chuyên gia, các đại diện của cơ quan quản lý nhà nước trong các cuộc trả lời phỏng vấn của các cơ quan báo chí. Vì vậy, đề tài “Pháp luật về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay” là một đề tài độc lập và không trùng lặp với các đề tài đã được nghiên cứu từ trước đến nay. Tuy nhiên, tác giả luôn có ý thức kế thừa, học hỏi những kết quả mà các công trình khoa học, các bài viết và các ý kiến của các chuyên gia cũng như các kinh nghiệm thực tiễn có liên quan đến đề tài trong quá trình thực hiện đề tài. 3. Phạm vi nghiên cứu đề tài Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn chọn những yếu tố ảnh hưởng tới việc triển khai thực hiện pháp luật về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới làm đối tượng nghiên cứu. Từ đó tìm hiểu sự ảnh hưởng của các yếu tố đó tới quá trình thực hiện pháp luật về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy những yếu tố ảnh hưởng tới quá trình thực hiện pháp luật về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới là rất phong phú và phức tạp. Việc nghiên cứu ảnh hưởng của tất cả các yếu tố đó là không phù hợp 2 trong khuôn khổ của bản luận văn này. Vì thế, tác giả chỉ lựa chọn những yếu tố chủ yếu (được trình bầy trong chương 2) làm đối tượng nghiên cứu của luận văn. 4. Mục đích nghiên cứu đề tài: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới, đề tài đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới hiện nay ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm mục đích đưa bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm của chủ xe cơ giới thực sự được triển khai một cách rộng rãi tại Việt Nam và phát huy được ý nghĩa xã hội to lớn của nó. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài: Phương pháp được luận văn sử dụng nghiên cứu là các phương pháp phổ biến để nghiên cứu luật học đặt trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đó là: - Phương pháp khai thác tài liệu sẵn có bởi các bài viết, các kết quả nghiên cứu của các tác giả đã nghiên cứu trong những lĩnh vực có liên quan đến đề tài. - Phương pháp thống kê - Phương pháp phân tích và so sánh luật - Phương pháp diễn dịch và phương pháp tổng hợp. 6. Kết quả mới đạt đƣợc của luận văn - Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới: khái niệm, đặc điểm, vai trò của bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới để rút ra ý nghĩa xã hội to lớn của loại hình bảo hiểm bắt buộc này. - Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới hiện nay ở Việt Nam, qua đó đưa ra được những hạn chế, thiếu xót dẫn đến loại hình bảo hiểm này chưa được phổ biến và đi sâu vào mọi tầng lớp dân cư ở Việt Nam.. - Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm mục đích đưa bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm của chủ xe cơ giới thực sự được triển khai một cách rộng rãi tại Việt Nam và phát huy được ý nghĩa xã hội to lớn của nó. 3 7. Bố cục của luận văn Luận văn có bố cục gồm 3 chương: i) Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới. ii) Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay. iii) Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới ở Việt Nam . Với trình độ của tác giả còn hạn chế, đề tài luận văn lại liên quan đến một lĩnh vực tương đối rộng nên luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Tuy nhiên, tác giả cũng đã nỗ lực cố gắng trình bầy các ý tưởng của mình một cách có hệ thống, làm rõ những tồn tại, thiếu xót ảnh hưởng đến quá trình triển khai pháp luật về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra được những giải pháp, kiến nghị nhằm đưa loại hình bảo hiểm này đi vào cuộc sống. Hy vọng luận văn sẽ giúp ích đôi chút cho công cuộc đưa bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới triển khai một cách rộng rãi tại Việt Nam và là tài liệu hữu ích cho những người đang nghiên cứu các lĩnh vực liên quan đến đề tài. 4 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM BẮT BUỘC TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI 1.1. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ 1.1.1. Cơ sở ra đời và tồn tại của bảo hiểm Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, loài người luôn phải đối mặt với rất nhiều rủi ro như thiên tai, địch họa, tai nạn, bệnh tật… và cao hơn nữa là những biến động về kinh tế, chính trị, xã hội… gây xáo trộn cuộc sống, thậm chí đe doạ tới tính mạng và của cải của mình. Chính vì vậy, con người luôn luôn tìm cách để bảo vệ mình khỏi những tác động không mong muốn đó, cũng như dự trữ tài chính để bù đắp cho những thiệt hại có thể xảy ra nhằm nhanh chóng ổn định cuộc sống và công việc. Ngay từ xa xưa, con người đã biết dự trữ lương thực để đề phòng mất mùa, hạn hán…, đóng góp thành lập các quỹ dự trữ chung cho cộng đồng để đề phòng những thảm họa, hoặc những tổn thất lớn liên tiếp ngoài sự chống đỡ của mỗi cá nhân, mỗi gia đình. Đời sống kinh tế xã hội của loài người càng phát triển, các rủi ro tiềm ẩn mà loài người có thể gặp phải càng phức tạp, khó lường và vì thế mà nhu cầu được bảo vệ, được an toàn của con người ngày càng cao. Ngành bảo hiểm ra đời chính là để đáp ứng nhu cầu đó của con người. Vậy bảo hiểm là gì và nó đã hình thành và phát triển như thế nào? Trên thực tế, hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về bảo hiểm. Dưới góc độ tài chính, “bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những chi phí mất mát không mong đợi”, dưới góc độ pháp lý, giáo sư Hemard đưa ra khái niệm “bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó, một bên là người được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền (phí bảo hiểm hay đóng góp bảo hiểm) cho chính mình hoặc cho một người thứ ba khác để trong trường hợp rủi ro xảy ra, sẽ được trả một khoản tiền bồi thường từ một bên khác là người được bảo hiểm, người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù những thiệt hại theo Luật Thống kê” [18, tr.10]. 5 Tuy nhiên, khái niệm có nội dung đầy đủ và logic nhất đó là: “bảo hiểm là phương pháp chuyển giao rủi ro được thực hiện qua hợp đồng bảo hiểm, trong đó bên mua bảo hiểm chấp nhận trả phí bảo hiểm và DNBH cam kết bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm” [20, tr. 16]. Như vậy, thực chất của hoạt động bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm. Ý niệm về dự trữ và nguồn gốc của bảo hiểm đã có từ hàng trăm năm trước công nguyên, nhưng hợp đồng bảo hiểm chính thức đầu tiên được phát hiện cho đến nay được ký kết năm 1347 tại Italia. Đó là hợp đồng bảo hiểm hàng hải đầu tiên. Sự ra đời của bảo hiểm và bảo hiểm hàng hải đã có vai trò hỗ trợ rất lớn đối với cuộc “cách mạng thương mại” diễn ra vào thế kỷ 15 khi châu Âu thực hiện cuộc viễn chinh vào châu Á và châu Mỹ. Tiếp theo bảo hiểm hàng hải, năm 1666, ở Anh đã xảy ra một vụ cháy lớn, một thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử, đã thiêu huỷ trên 13.000 toà nhà, dẫn đến nhu cầu bảo hiểm hoả hoạn trở nên cần thiết, và đầu năm 1667 công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên được thành lập tại nước Anh [20, tr. 39]. Dần dần, bảo hiểm đã được mở rộng với nhiều loại hình khác nhau như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm con người, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm nông nghiệp… Như vậy, bảo hiểm xuất hiện do sự tồn tại khách quan của các rủi ro và từ mong muốn được bảo đảm an toàn về mặt tài chính của con người. Đó là một hình thức phân tán rủi ro áp dụng theo nguyên lý cộng đồng. Bảo hiểm thực chất là việc những người tham gia bảo hiểm đóng góp làm hình thành nên một quỹ chung để từ đó thực hiện chi trả cho những trường hợp rủi ro xảy ra đối với các thành viên. Ban đầu bảo hiểm ra đời một cách tự phát, một nhóm người đứng ra thu phí và nhận trách nhiệm thanh toán bồi thường cho những người tham gia bảo hiểm trong trường hợp rủi ro, quy mô bảo hiểm nhỏ và cũng chỉ ở một số lĩnh vực hạn hẹp. 6 Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội, để đáp ứng các yêu cầu bảo hiểm ngày càng đa dạng, với độ phức tạp ngày càng cao, đòi hỏi sự ra đời của các công ty bảo hiểm có tổ chức khoa học, chặt chẽ và hoạt động ngày càng chuyên nghiệp. 1.1.2. Khái niệm bảo hiểm trách nhiệm dân sự Trước khi đưa ra được khái niệm bảo hiểm TNDS, cần tìm hiểu TNDS là gì? TNDS thường được các luật gia hiểu là một loại trách nhiệm pháp lý – trách nhiệm pháp lý được cho là việc một chủ thể phải gánh chịu những hậu quả bất lợi theo quy định của pháp luật do có hành vi vi phạm pháp luật. TNDS không phải là một sự trừng phạt mà là một biện pháp buộc người có hành vi vi phạm pháp luật vào nghĩa vụ bồi thường cho người bị tổn hại do hành vi đó gây ra. Vì TNDS được coi là trách nhiệm pháp lý nên nhiều quan điểm cho rằng, TNDS cũng có các đặc điểm như trách nhiệm pháp lý, bao gồm: (1) chỉ được áp dụng khi có hành vi vi phạm pháp luật và chỉ áp dụng đối với người có hành vi vi phạm đó; (2) là một hình thức cưỡng chế nhà nước và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng; và (3) luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm pháp luật (3). Trong chế độ bảo hiểm TNDS thì TNDS cũng được hiểu theo nghĩa là nghĩa vụ dân sự của người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm mà nghĩa vụ dân sự đó phát sinh. Theo nghĩa này, TNDS được xác định dựa trên các căn cứ sau đây: - Có hành vi trái pháp luật; - Có thiệt hại xảy ra trong thực tế; - Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và thiệt hại xảy ra; - Có lỗi của người vi phạm. Tuy nhiên, yếu tố lỗi không phải là bắt buộc trong mọi trường hợp. Có rất nhiều cách hiểu về bảo hiểm TNDS. Có quan điểm cho rằng, bảo hiểm TNDS là bảo hiểm cho nghĩa vụ dân sự của người được bảo hiểm khi có sự kiện 7 bảo hiểm mà nghĩa vụ dân sự đó phát sinh. Tuy nhiên, cũng có quan điểm khác cho rằng, bảo hiểm TNDS là loại hình bảo hiểm bao gồm các nghiệp vụ bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là phần TNDS của người được bảo hiểm đối với người thứ ba phát sinh có nguyên nhân từ những rủi ro khách quan. Theo chúng tôi, bảo hiểm TNDS có thể hiểu một cách chung nhất như sau: Bảo hiểm TNDS là một loại bảo hiểm mà theo đó DNBH cam kết bồi thường phần TNDS của người được bảo hiểm theo cách thức và mức độ đã được hai bên thoả thuận trong hợp đồng khi có sự kiện bảo hiểm phát sinh với điều kiện người tham gia bảo hiểm phải nộp một khoản phí cho DNBH. 1.1.3. Đặc điểm của bảo hiểm trách nhiệm dân sự Bảo hiểm trách nhiệm có một số đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, bảo hiểm TNDS có bản chất là một loại hình của bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm thiệt hại. Bảo hiểm thiệt hại có nghĩa là bảo hiểm đối với thiệt hại mà bên mua bảo hiểm đã gây ra cho người thứ ba trong phạm vi trách nhiệm bảo hiểm và theo giới hạn bảo hiểm đã được các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. - Thiệt hại về tài sản gồm: tài sản bị mất; tài sản bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng; lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại. - Thiệt hại về sức khỏe bao gồm: Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại; chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại. Ngoài ra, xâm phạm sức khỏe của người khác còn phải bồi thường thiệt hại một khoản tiền khác để bù đắp 8 tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định. - Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí hợp lý cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng cho người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng. Người xâm phạm tính mạng của người khác còn phải bồi thường thiệt hại một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại phải trực tiếp nuôi dưỡng, người phải trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Bảo hiểm TNDS chính là bảo hiểm cho những khoản chi phí cần thiết để khắc phục hậu quả của tai nạn, rủi ro cho người bị thiệt hại. Mặc dù việc bồi thường của DNBH không phải là những thiệt hại trực tiếp về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người được bảo hiểm mà là những thiệt hại về tài chính của người được bảo hiểm đối với người thứ ba căn cứ vào những tổn thất về tài sản, sức khỏe, tính mạng mà họ đã gây ra cho bên thứ ba. DNBH bồi thường trên cơ sở quy định của pháp luật hoặc quy định trong hợp đồng đối với số tiền tối đa bằng với thiệt hại của người thứ ba. Thứ hai, đối tượng của bảo hiểm bắt buộc TNDS mang tính trừu tượng, không nhìn thấy được, không tồn tại hiện hữu – là TNDS của người được bảo hiểm đối với người bị thiệt hại. TNDS ở đây là trách nhiệm bồi thường về tài sản mà người được bảo hiểm phải đảm nhận do đã gây thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe cho người khác. Khác với các loại bảo hiểm khác, ví dụ như bảo hiểm tài sản có đối tượng là tài sản - phần lớn được thể hiện dưới dạng vật chất hữu hình, còn trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường các thiệt hại rất trừu tượng. Chúng ta không thể 9 nhìn thấy được, không thể cảm nhận bằng các giác quan của con người vì thực tế chúng không hiện hữu trong không gian. Đối với bảo hiểm tài sản, người bảo hiểm có thể xác định giới hạn tổn thất tối đa của tài sản khi giao kết hợp đồng còn TNDS đó là bao nhiêu cũng không xác định được ngay lúc tham gia bảo hiểm. Nếu có sự cố xảy ra thì mức TNDS phát sinh bao nhiêu cũng khó xác định mà thường phải dựa trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên và dựa vào các quy định của pháp luật và căn cứ vào mức độ lỗi của người gây thiệt hại và thiệt hại thực tế của người thứ ba. Ví dụ, theo căn cứ Phụ lục 6 bảng quy định trả tiền bồi thường thiệt hại về người ban hành kèm theo Thông tư 126/2009/TT-BTC ngày 22/12/2008 để xác định mức bồi thường thiệt hại về người. Tuy nhiên, trong thực tế cũng có những trường hợp toà án sẽ không căn cứ vào mức độ lỗi để phán xử mà căn cứ vào khả năng tài chính của người gây ra thiệt hại. Những trường hợp này thường hay gặp ở các nước áp dụng hệ thống thông luật (gọi theo tên tiếng Anh là common law), ví dụ như ở nước Mỹ. Thứ ba, trong bảo hiểm TNDS, yếu tố lỗi có vai trò rất quan trọng. Lỗi của người tham gia bảo hiểm khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho người thứ ba chính là cơ sở để phát sinh TNDS của người tham gia bảo hiểm đối với người thứ ba và do đó cũng làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của bên bảo hiểm đối với người thứ ba. Theo cách hiểu thông thường thì lỗi là những sai sót trong xử xự, về bản chất lỗi được các ngành luật quy định giống nhau – đó là quan hệ giữa chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định những yêu cầu của xã hội đã được thể hiện thông qua các quy định của pháp luật: khi một người có đủ nhận thức và điều kiện để lựa chọn cách xử sự sao cho xử sự đó phù hợp với pháp luật, tránh gây thiệt hại cho người khác nhưng vẫn thực hiện hành vi gây thiệt hại thì người đó bị coi là có lỗi. Như vậy, lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ đã thực hiện. Khái niệm về lỗi chưa được luật hóa mà các nhà làm luật 10 mới chỉ xác định biểu hiện ở hai hình thức là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Theo quy định tại khoản 1 Điều 308 BLDS 2005 thì: “Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu TNDS do lỗi vô ý hay lỗi cố ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Như vậy, có thể suy ra rằng nếu không có thỏa thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác thì chỉ khi nào người vi phạm nghĩa vụ có lỗi mới phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên về nguyên tắc, lỗi trong dân sự là lỗi suy đoán. Vì vậy mà người gây thiệt hại chỉ không phải bồi thường nếu họ chứng minh được thiệt hại xảy ra là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên kia. Ví dụ, theo quy định tại khoản 3, Điều 623 BLDS 2005 thì chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ sẽ không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp nạn nhân lao vào ô tô với ý định tự tử. Ngoài vai trò xác định xem người gây thiệt hại có phải bồi thường không, DNBH có phải thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm không thì lỗi còn có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Căn cứ vào mức độ lỗi mà tòa án xác định người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ, một phần hay liên đới bồi thường - từ đó mà TNDS thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm của mình. Thứ tư, bảo hiểm TNDS bao giờ cũng có mối liên quan đến chủ thể thứ ba. Quan hệ giữa người bảo hiểm, người được bảo hiểm là quan hệ hợp đồng mà ở đó người bảo hiểm phải bồi thường thay cho người được bảo hiểm khi TNDS của họ phát sinh đó chính là trách nhiệm bồi thường khi gây thiệt hại cho người thứ ba. Trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, người thứ ba là bất kể cá nhân, tổ chức nào bị thiệt hại. Trong bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, có hai loại hợp đồng được thiết lập: hợp đồng giữa người được bảo hiểm với người thứ ba và hợp đồng giữa người bảo hiểm với người được bảo hiểm; người thứ ba ở đây mang tính cụ thể hơn và trách nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm có thể xác định trước mức độ tối đa. Giữa người thứ ba và người bảo hiểm không có mối quan hệ hợp đồng mà họ là bên có quyền đối với người được bảo hiểm. Theo quy định tại khoản 1 Điều 11 53 Luật KDBH năm 2000: “DNBH chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường khi người được bảo hiểm nhận được yêu cầu phải bồi thường của người bị thiệt hại”. Nếu đã phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng người thứ ba không đòi người được bảo hiểm phải bồi thường và người được bảo hiểm không phải trả tiền bồi thường thì do đó DNBH cũng không phải chịu trách nhiệm đối với người được bảo hiểm. Khi xảy ra rủi ro về trách nhiệm, người gây thiệt hại phải chịu TNDS trước pháp luật, nhưng DNBH không có trách nhiệm trực tiếp với người bị thiệt hại. Như vậy hợp đồng bảo hiểm chỉ tồn tại giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm (đồng thời là người được bảo hiểm). Thứ năm, trong bảo hiểm TNDS có thể áp dụng giới hạn trách nhiệm hoặc không. Như ở trên đã đề cập, TNDS là rất trừu tượng, những thiệt hại xảy ra thường chưa thể xác định được ngay tại thời điểm tham gia bảo hiểm và thiệt hại đó có thể là rất lớn. Do vậy, để đảm bảo lợi ích kinh doanh và nâng cao trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm, các công ty bảo hiểm thường đưa ra các giới hạn trách nhiệm, tức là các mức bồi thường tối đa của bảo hiểm (số tiền bảo hiểm). Khi gây thiệt hại, mức TNDS của người được bảo hiểm đối với người thứ ba có thể là rất lớn nhưng về nguyên tắc công ty bảo hiểm chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người thứ ba trong phạm vi giới hạn trách nhiệm đã cam kết theo hợp đồng bảo hiểm. Hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm TNDS đều áp dụng hạn mức trách nhiệm, nghĩa là số tiền bảo hiểm được ấn định trước theo thỏa thuận, DNBH chỉ bồi thường tối đa bằng số tiền này như bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm TNDS của chủ sử dụng lao động đối với người lao động, trách nhiệm chủ hãng vận chuyển đối với hành khách, hàng hoá… Ưu điểm của loại hình bảo hiểm này là DNBH đánh giá được mức độ bồi thường tối đa, chủ động trong việc đề phòng các tình huống xảy ra; giảm mức phí bảo hiểm phải đóng. Tuy nhiên, người được bảo hiểm không được bảo vệ hoàn toàn, phải tự bảo hiểm một phần trách 12 nhiệm vượt quá số tiền bảo hiểm trong hợp đồng. Trên thực tế, cũng có một số nghiệp vụ bảo hiểm TNDS không áp dụng giới hạn trách nhiệm nhưng ít được triển khai (thiệt hại TNDS phát sinh bao nhiêu, công ty bảo hiểm bồi thường bấy nhiêu) ví dụ bảo hiểm TNDS của chủ tàu, tuy nhiên, hạn chế của loại hình bảo hiểm này là nhà bảo hiểm có nguy cơ bị đẩy đến phá sản khi có nhiều tổn thất lớn liên tiếp. Do đó, phải dùng mọi biện pháp để phân tán rủi ro. Thứ sáu, trong bảo hiểm TNDS, DNBH chỉ có trách nhiệm bồi thường bảo hiểm cho người thứ ba khi TNDS được cấu thành bởi các yếu tố sau: - Có thiệt hại thực tế của bên bị hại; - Có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật của bên gây hại (người tham gia bảo hiểm TNDS); - Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại trái pháp luật của bên gây hại và thiệt hại thực tế của bên bị hại; - Có lỗi của người gây thiệt hại (người tham gia bảo hiểm). 1.1.4. Các loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự Bảo hiểm TNDS có thể phân loại dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau. • Căn cứ vào tính pháp lý thì bảo hiểm TNDS được chia thành: (i) Bảo hiểm TNDS bắt buộc; (ii) Bảo hiểm TNDS tự nguyện. Bảo hiểm TNDS bắt buộc: Là loại hình bảo hiểm TNDS theo đó bên tham gia bảo hiểm bắt buộc phải ký kết hợp đồng bảo hiểm với một bên bảo hiểm nào đó đang hoạt động tại Việt Nam. Loại hình bảo hiểm này có mục đích nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm trong việc bồi thường tổn thất cho người khác, do hành vi của mình gây ra và phòng ngừa, hạn chế, khắc phục thiệt hại đảm bảo ổn định tài chính cho người được bảo hiểm, bảo vệ quyền lợi cho phía nạn nhân, bảo vệ lợi ích công và an toàn xã hội. Theo quy định tại Điều 8 Luật KDBH năm 2000: “Bảo hiểm bắt buộc là loại hình bảo hiểm do pháp luật quy định về điều 13 kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và DNBH có nghĩa vụ thực hiện. Bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng đối với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội”. Bảo hiểm TNDS bắt buộc thường liên quan đến các hoạt động mà nguy cơ rủi ro cao, nạn nhân thường bị thiệt hại lớn nếu có rủi ro ấy – đó là các hoạt động như: + Hoạt động có nguy cơ gây tổn thất cho nhiều nạn nhân trong cùng một sự cố (kinh doanh vận chuyển hành khách); + Những thiệt hại mà chỉ cần có một sơ suất nhỏ cũng có thể dẫn đến thiệt hại trầm trọng về người (hoạt động của bác sĩ); + Những hoạt động cung cấp dịch vụ trí tuệ có thể gây thiệt hại lớn về tài chính (môi giới bảo hiểm, tư vấn pháp luật). Ở Việt Nam, theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật KDBH năm 2000 thì bảo hiểm TNDS bắt buộc bao gồm: - Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới, bảo hiểm TNDS của người vận chuyển hàng không đối với hành khách; - Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật; - Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Ngoài ra, còn có chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS của người kinh doanh vận tải hành khách, hàng hóa dễ cháy và dễ nổ trên đường thủy nội địa theo quy định tại Nghị định 125/2005/NĐ-CP ngày 07/10/2005 của Chính phủ và Quyết định 99/2005/QĐ-BTC ngày 22/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành quy tắc, biểu phí và mức TNDS bảo hiểm bắt buộc của chế độ bảo hiểm trên. Các chủ thể là đối tượng tham gia các loại nghiệp vụ bảo hiểm TNDS trên đều phải tham gia theo quy định của pháp luật. Bảo hiểm TNDS tự nguyện: Là các nghiệp vụ bảo hiểm TNDS mà việc tham 14 gia bảo hiểm hay không là tùy thuộc vào ý chí của mỗi khách hàng. Loại hình bảo hiểm này gồm có: bảo hiểm TNDS của chủ sử dụng lao động đối với người lao động, bảo hiểm TNDS đối với sản phẩm của người sản xuất, kinh doanh… • Căn cứ vào TNDS phát sinh, bảo hiểm TNDS được chia làm hai loại: (i) Bảo hiểm TNDS phát sinh từ hợp đồng; (ii) Bảo hiểm TNDS phát sinh ngoài hợp đồng. Bảo hiểm TNDS phát sinh từ hợp đồng: Trách nhiệm hợp đồng phát sinh khi hợp đồng không được thực hiện gây thiệt hại cho bên bị vi phạm và bên bị vi phạm đòi bồi thường. Trách nhiệm này có thể được đưa ra trên cơ sở quy định chung của pháp luật nhưng cũng có thể chỉ là những thỏa thuận riêng. Ví dụ, trong một hợp đồng dịch vụ pháp lý, hai bên thỏa thuận rằng bên tư vấn phải bồi thường cho bên yêu cầu tư vấn trong trường hợp nội dung tư vấn không đảm bảo tính pháp lý hoặc không đáp ứng yêu cầu của bên yêu cầu tư vấn. Trong trường hợp này, bên tư vấn phải chịu trách nhiệm bồi thường ngay cả khi anh ta không có lỗi. Như vậy, bảo hiểm TNDS phát sinh từ hợp đồng chính là bảo hiểm cho phần trách nhiệm mà các bên đã cam kết thực hiện trong hợp đồng. Bảo hiểm TNDS phát sinh ngoài hợp đồng: Trách nhiệm ngoài hợp đồng phát sinh khi một người có lỗi gây thiệt hại cho một người khác và người bị thiệt hại đòi hỏi sự bồi thường. Khác với trách nhiệm hợp đồng, TNDS phát sinh ngoài hợp đồng được thực hiện trên cơ sở những quy định chung của pháp luật hoặc có thể các bên có hợp đồng nhưng việc gây thiệt hại không liên quan đến việc thực hiện hợp đồng đó. Ví dụ, bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới, khi một cá nhân điều khiển phương tiện xe cơ giới gây thiệt hại cho chủ thể khác đi trên đường phải bồi thường thì được coi là bảo hiểm TNDS phát sinh ngoài hợp đồng. • Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm cụ thể, bảo hiểm TNDS được chia thành nhiều loại sau: - Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới; - Bảo hiểm trách nhiệm công cộng; 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan