Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phân tích tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam...

Tài liệu Phân tích tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam

.DOC
30
48
126

Mô tả:

Phân tích tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam
Chuyên đề: Phân tích tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam 1 1.1. LỜI MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Ngày 11/1/2007,Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Từ đó, xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa ngày càng trở nên mạnh mẽ khiến các doanh nghiệp Việt Nam đứng trước những cơ hội cũng như thách thức. Đặc biệt, đối với hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) phải mở cửa gần như hoàn toàn theo các cam kết quốc tế lại càng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi xu thế này. Trước bối cảnh đó, cơ quan quản lý nhà nước (cụ thể là NHNN) cũng như hệ thống TCTD Việt Nam phải chủ động nhận thức và sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập để có thể biến thách thức thành cơ hội, biến những khó khăn thành lợi thế. Chính vì thế, NHNN phải ban hành các văn bản luật pháp phù hợp và hệ thống TCTD phải cố gắng nâng cao vị thế, năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế bằng cách tuân thủ theo một số điều ước quốc tế đã được cụ thể hóa bằng các văn bản luật tại Việt Nam. Để từ đó có cơ sở so sánh, đánh giá và xếp hạng giữa các TCTD Việt Nam với các TCTD của các quốc gia khác trên thế giới. Một trong những điều ước quốc tế được hầu hết nhà quản trị ngân hàng trên thế giới đặc biệt quan tâm chính là Hiệp ước quốc tế về an toàn vốn do Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng ban hành lần đầu vào năm 1988 (với tên gọi Basel I). Sau đó hiệp ước vốn này được thay thế bằng Basel II và cuối cùng là Basel III. Ở Việt Nam, NHNN và hệ thống TCTD đã áp dụng các hiệp ước vốn này vào chính sách quản lý vĩ mô cũng như quản trị rủi ro của từng TCTD. Tuy nhiên, việc ứng dụng các hiệp ước Basel vẫn còn nhiều vướng mắc, nên chỉ mới dừng lại ở việc lựa chọn một số tiêu chí đơn giản trong các Hiệp ước Basel để vận dụng và vẫn chưa tiếp cận hoàn toàn các điều khoản. Trong tương lai, NHNN phải hoàn thiện hệ thống pháp luật và các ngân hàng ở Việt Nam, đặc biệt là những ngân hàng có hoạt động quốc tế, sớm hay muộn sẽ phải tuân thủ các chuẩn mực Basel để hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu thật sâu và nắm 2 rõ các quy định trong Basel, cũng như nghiên cứu những khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân vì sao Việt Nam chưa ứng dụng được các Basel trong từng giai đoạn cụ thể để xây dựng lộ trình ứng dụng Hiệp ước vốn vào Việt Nam một cách hợp lý và có hiệu quả. Đó cũng chính là lý do để em chọn đề tài “Phân tích tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam” để nghiên cứu cho chuyên đề của mình. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu chung Phân tích tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam giai đoạn 19992012. Trên cơ sở đó, đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong việc ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam và đề ra các giải pháp để việc ứng dụng các Hiệp ước vốn trong thời gian tới có hiệu quả và phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam. 2.2. Mục tiêu cụ thể - Phân tích tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam trong giai đoạn 1999-2012. - Đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong việc ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam trong giai đoạn 1999-2012. - Đề xuất những giải pháp thực thi, có tính đồng bộ giúp nâng cao hiệu quả ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam trong tương lai. 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Phạm vi không gian Đề tài nghiên cứu thực trạng ứng dụng các Hiệp ước vốn tại NHNN và hệ thống TCTD tại Việt Nam. 3.2. Phạm vi thời gian Đề tài chủ yếu sử dụng số liệu thứ cấp thu thập được trong giai đoạn từ khi NHNN ban hành văn bản luật đầu tiên tiếp cận các điều khoản của Basel, tức 1999 đến hết năm 2012. 3.3. Đối tượng nghiên cứu 3 Đề tài nghiên cứu về tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Phương pháp thu thập số liệu Đề tài được thực hiện chủ yếu dựa trên nguồn số liệu thứ cấp thu thập từ NHNN Việt Nam, Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, Tổng cục thống kê, các báo cáo thường niên và báo cáo tài chính của các ngân hàng. Ngoài ra, số liệu được thu thập thêm từ các báo, tạp chí chuyên ngành, Internet,... 4.2. Phương pháp phân tích số liệu - Sử dụng phương pháp so sánh số tương đối và số tuyệt đối để thấy được tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam giai đoạn 1999-2012. - Sử dụng phương pháp thống kê suy luận để đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong việc ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam trong giai đoạn 1999-2012. - Sử dụng phương pháp tự luận để đưa những giải pháp thực thi, có tính đồng bồ giúp nâng cao hiệu quả ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam trong tương lai. PHẦN NỘI DUNG 4 CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU HIỆP ƯỚC VỐN BASEL 1.1. Đôi nét về ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS) Vào năm 1974, nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng từ những cuộc khủng hoảng về tiền tệ quốc tế và thị trường ngân hàng, mà đáng quan tâm nhất là sự sụp đổ của ngân hàng Herstatt ở Tây Đức, một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) đã thành lập nên Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision – BCBS) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ. Hiện nay, các thành viên của Ủy ban gồm đại diện ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của các 13 nước: Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý. Để duy trì và củng cố hoạt động, Ủy ban Basel tổ chức nhóm họp 4 lần trong năm và họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) tại Washington hoặc tại Thành phố Basel, Thụy Sĩ. Tuy nhiên, để hoạt động hiệu quả và thường xuyên, một Hội đồng thư ký thường trực được đề xuất bởi Ngân hàng Thanh toán Quốc tế ở Basel, gồm 15 thành viên là những nhà giám sát hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái tạm thời từ các tổ chức tín dụng tài chính thành viên. Hội đồng thư kí thường trực của Ủy ban có trụ sở làm việc tại Washington DC, Mỹ. Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết luận của Uỷ ban này không có tính pháp lý cũng như yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, Ủy ban Basel báo cáo với thống đốc ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của nhóm G10.Từ đó, tìm kiếm sự hậu thuẫn cho những sáng kiến của Ủy ban. Chính vì vậy, Ủy ban Basel chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng rộng rãi thông qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy ban khuyến khích việc áp dụng cách tiếp 5 cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố gắng can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên. Quan điểm của Ủy ban Basel là sự yếu kém trong hê thống Ngân hàng của một quốc gia dù là phát triển hay đang phát triển, đều có thể đe dọa không chỉ đến sự ổn định về tài chính của quốc gia đó mà còn cả trên phạm vi toàn thế giới. Ủy ban Basel thường xuyên tổ chức các cuộc thảo luận về vấn đề xoay quanh sự hợp tác quốc tế để giảm bớt khoảng cách trong công tác giám sát ngân hàng, nâng cao chất lượng công tác giám sát hoạt động ngân hàng trên toàn thế giới. Để làm được điều này, Ủy ban Basel đã cố gắng tìm hiểu và thực hiện được 3 điều cơ bản: (1) Trao đổi thông tin về hoạt động giám sát cấp quốc gia. (2) Cải thiện hiệu quả kỹ thuật giám sát hoạt động ngân hàng quốc tế. (3) Đặt ra những tiêu chuẩn giám sát tối thiểu trong những lĩnh vực ma Ủy ban thực sự quan tâm. 1.2. Lịch sử vắn tắt quá trình hình thành các Basel Vào những năm 1980, khi hệ thống NHTM trên thế giới phát triển mạnh mẽ cũng là lúc việc cạnh tranh không lành mạnh và công bằng giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng phổ biến. Để giải quyết vấn đề này, lãnh đạo các nước phát triển đã tìm giải pháp thích hợp vừa khuyến khích cạnh tranh công bằng giữa các ngân hàng vừa đảm bảo an toàn cho người gửi tiền. Giải pháp ấy chính là giới thiệu Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I. Basel là yêu cầu về an toàn vốn do các ngân hàng thuộc các nước nhóm G10 khởi xướng và được Ủy ban Quản lí ngân hàng thuộc ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) ban hành lần đầu tiên vào năm 1988 và có hiệu lực từ 1992. Basel I cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%. Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. Năm 1996, Basel I được sửa đổi bằng việc bổ sung thêm rủi ro thị trường (được thực thi chậm nhất vào ngày 1/1/1998). Tuy vậy, Hiệp ước vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất một khung Hiệp ước vốn mới với chương trình tư vấn lần thứ nhất (First Consultative Package – CP1). Sau đó, chương trình tư vấn này được diễn ra lần thứ hai và ba lần lượt vào tháng 1/2001 và tháng 4/2003. Mãi đến quý 4/2003, 6 phiên bản mới của Hiệp ước vốn (Basel II) được hoàn thiện với khung đo lường mới gồm 3 trụ cột chính: (i) yêu cầu ốn tối thiểu trên cơ sở kế thừa Basel I; (ii) Sự xem xét giám sát của quá trình đánh giá nội bộ và sự đủ vốn của các tổ chức tài chính; (iii) sử dụng hiệu quả của việc công bố thông tin nhằm làm lành mạnh kỷ luật thị trường như là một sự bổ sung cho các nỗ lực giám sát. Tháng 1/2007, Basel II có hiệu lực. Năm 2010, chấm dứt quá trình chuyển đổi Basel I và II. 1.3. Nội dung cơ bản của các Basel 1.3.1. Nội dung cơ bản của Basel I Nhằm chuẩn mực hóa hoạt động ngân hàng trong trào lưu toàn cầu hóa,Uỷ ban Basel đã xây dựng chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả trong hoạt động ngân hàng. Tiêu chí đầu tiên đánh giá khả năng tham gia vào thị trường vốn quốc tế là mức độ tuân thủ chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu, đây là nội dung nền tảng của Basel I. Ngoài ra, Ủy ban Basel còn đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng.Theo đó, vốn của ngân hàng được chia làm 2 cấp là vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Trong đó, vốn cấp 1 bao gồm vốn cổ phần thường và các khoản dự trữ công khai. Vốn cấp 2 bao gồm các khoản dự trữ không công khai, giá trị tăng thêm của việc đánh giá lại tài sản, dự phòng chung và dự phòng tổn thất tín dụng, các công cụ nợ cho phép chuyển đổi thành cổ phiếu và các khoản nợ thứ cấp. Như vậy, tổng vốn cấp 1 và cấp 2 chính là vốn tự có hay vốn cơ bản của tổ chức tín dụng. Dựa trên cách tính vốn tự có này, Basel 1 đưa ra chỉ tiêu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) mà đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia. Công thức tính như sau: CAR = [(Vốn tự có hay vốn cơ bản) / (Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] * 100%. Trong đó: Tài sản đã điều chỉnh rủi ro (RWA) = Tổng (Tài có nội bảng x Hệ số rủi ro) + Tổng (Tài sản ngoại bảng x Hệ số chuyển đổi x Hệ số rủi ro) Tuy nhiên, thời đó, các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước mới chỉ nhìn nhận ra một số vấn đề nên Basel I có những hạn chế nhất định. Thứ nhất, Basel I chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng chứ chưa đề cập đến các rủi ro khác như rủi ro hoạt động, rủi ro hệ thống, rủi ro 7 thanh khoản,…Thứ hai, Basel I không phân biệt theo loại rủi ro. Nghĩa là, một khoản nợ đối với tổ chức xếp hạng AAA được coi như một khoản nợ đối với tổ chức xếp hạng B. Điều này chỉ ra rằng có thể các ngân hàng có cùng tỷ lệ an toàn vốn nhưng sẽ đối mặt với các loại rủi ro khác nhau, ở mức độ khác nhau. Thứ ba, Basel I chưa tính đến lợi ích của đa dạng hóa hoạt động. Các lí thuyết về đầu tư chỉ ra rủi ro sẽ giảm thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư. Tuy nhiên, theo Basel I, quy định về vốn tối thiểu không khác biệt giữa một ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa dạng (ít rủi ro hơn) và một ngân hàng kinh doanh tập trung (nhiều rủi ro hơn); một khoản nợ riêng lẻ yêu cầu một lượng vốn giống như một danh mục đầu tư được đa dạng hóa với cùng một giá trị. Thứ tư, một số quy tắc do Basel I đưa ra chỉ có thể vận dụng trong trường hợp ngân hàng hoạt động theo kiểu ngân hàng đơn, không dựa trên một sự sáp nhập hay hoạt động theo kiểu tập đoàn ngân hàng, ngân hàng mẹ, ngân hàng – chi nhánh,… 1.3.2. Nội dung cơ bản của Basel II Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm 1996 vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Để khắc phục những hạn chế này, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất khung đo lường mới. Đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn Basel mới (Basel II) đã chính thức được ban hành gồm 3 trụ cột chính. Theo đó, trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Tỷ lệ vốn bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro tác nghiệp (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro tác nghiệp. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng. Đối với trụ cột thứ II, các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn về những loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng những giám sát viên sẽ có thể đánh giá được tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá này. Ngoài ra, trụ cột thứ II còn liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những công cụ tốt hơn so với 8 Basel I. Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, gồm rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro pháp lý, rủi ro thanh khoản, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk). Với cột trụ này, Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát: (1) Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn của họ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó; (2) Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức vốn nội bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng. Họ cũng phải có khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này; (3) Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định; (4) Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu. Trụ cột thứ ba, các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường. Với cột trụ này, Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này. Như vậy, quá trình phát triển của Basel mà BCBS đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro. Tuy nhiên, dù được coi như một cơ chế quan trọng để đẩy mạnh cải cách và củng cố toàn bộ công tác điều hành trong lĩnh vực tài chính, nhưng cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại đã cho thấy những thiếu sót, bất cập của Basel II. Thứ nhất, việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến chưa có các tiêu chuẩn có thể được chấp nhận rộng rãi. Thứ hai, các phương pháp giám sát, đánh giá rủi ro chưa tính đến các hoạt động của chu kỳ kinh doanh. Thứ ba, các cơ quan quản 9 lý chưa theo kịp tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản phẩm dịch vụ có khoa học công nghệ cũng như mức độ rủi ro cao. 1.3.3. Nội dung cơ bản của Basel III Để đối phó với những thiếu sót trong các qui định của Basel II, đồng thời nỗ lực ngăn chặn sự tái diễn của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, BCBS đã phát triển Hiệp ước vốn Basel II thành Hiệp ước vốn Basel III với những quy định nghiêm ngặt hơn dành cho 27 ngân hàng thành viên. Như vậy, mục tiêu gói cải cách của BCBS là nhằm cải thiện khả năng của lĩnh vực ngân hàng để hấp thụ những cú sốc phát sinh từ sự căng thẳng tài chính và kinh tế, bất kể nguồn gốc, do đó giảm nguy cơ khủng hoàng tràn từ khu vực tài chính cho các nền kinh tế. Basel III với nhiều đề xuất mới về vốn, đòn bẩy và các tiêu chuẩn về tính thanh khoản để củng cố các quy định, giám sát và quản lý rủi ro của ngành ngân hàng. Các tiêu chuẩn vốn và các vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi các ngân hàng giữ vốn nhiều hơn và chất lượng cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành Basel II. Các đòn bẩy mới và tỷ lệ tính thanh khoản giới thiệu một biện pháp phi rủi ro nhằm bổ sung các yêu cầu về vốn tối thiểu dựa trên rủi ro và các biện pháp để đảm bảo đủ kinh phí được duy trì trong trường hợp xảy ra khủng hoảng. Cụ thể,. Basel III cũng quy định đối với tất cả các khoản vay có mức độ rủi ro cao cần phải đạt hệ số rủi ro cao nhất là 150% (nghĩa là khi ngân hàng tính toán tài sản có rủi ro sẽ nhân với 1.5 ) Tóm tắt các thay đổi: (1) Thứ nhất, chất lượng, tính nhất quán, và tính minh bạch của nguồn vốn cơ sở sẽ được nâng lên. Trong đó, chủ yếu của vốn cấp 1 là phải bao gồm vốn cổ phần thường và lợi nhuận giữ lại. Hệ số tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn được giữ ở mức 8% nhưng yêu cầu vốn vốn cấp I phải đạt 6% trên 8% đó. Đáng chú ý là trong 6% vốn cấp I đó phải có 4.5% là vốn của các cổ đông thông thường. Thời hạn để thực hiện riêng quy định này là ngày 1/1/2015, với một lộ trình rõ ràng và chi tiết hơn. Lộ trình để thực hiện Basel III bắt đầu từ tháng 1/2013 và hoàn thành vào cuối năm 2018. Ngoài ra, các công cụ vốn cấp 2 sẽ được cân đối hài hòa và vốn cấp 3 sẽ được loại bỏ. (2) Thứ hai, mức vốn để bảo đảm các rủi ro phát sinh sẽ được tăng cường: Tăng cường các yêu cầu về vốn cho các khoản tín dụng 10 với khách hàng phát sinh, các nghiệp vụ bảo đảm cho các khoản vay, chứng khoán phái sinh và các giao dịch tài chính. Đồng thời, nâng cao vốn dự phòng cho các rủi ro, giảm các chu kỳ và cung cấp các ưu đãi bổ sung để di chuyển các hợp đồng phái sinh trên thị trường tự do đến các giao dịch ngoại hối tại Ngân hàng (trung tâm thanh toán bù trừ). Cung cấp ưu đãi để tăng cường quản lý rủi ro tín dụng đối ứng. (3) Thứ ba, Ủy ban sẽ đưa ra một tỷ lệ đòn bẩy là một biện pháp bổ sung cho khung rủi ro được thiết lập ở Basel II. Do đó, Ủy ban đang trình bày một yêu cầu tỷ lệ đòn bẩy nhằm đạt được các mục tiêu. Một là, xây dựng thêm lớp thứ hai cho đòn bẩy trong lĩnh vực Ngân hàng. Hai là, đề xuất biện pháp bảo vệ bổ sung chống lại rủi ro mô hình và sai số đo bằng cách bổ sung biện pháp chống rủi ro, một biện pháp đơn giản là dựa trên rủi ro tổng thể. (4) Thứ tư, Ủy ban đang đề xuất một loạt các biện pháp thúc đẩy xây dựng các vùng đệm vốn trong thời điểm tốt và có thể được rút ra khi trong thời kỳ căng thẳng ("Giảm chu kỳ và thúc đẩy các bộ đệm phản chu kỳ"). ( 5) Thứ năm, Ủy ban đang triển khai một tiêu chuẩn quốc tế về tính thanh khoản tối thiểu cho hoạt động ngân hàng quốc tế bao gồm một yêu cầu tỷ lệ thanh khoản đảm bảo trong 30 ngày được củng cố bằng một tỷ lệ cấu trúc thanh khoản dài hạn được gọi là Tỷ lệ dự phòng bình ổn. Uỷ ban cũng đang xem xét lại nhu cầu vốn bổ sung, thanh khoản hoặc các biện pháp giám sát khác để làm giảm yếu tố ngoại tác được tạo ra bởi các tổ chức quan trọng được thành lập có hệ thống.Vào tháng 9/2010, Basel III định mức yêu cầu tỷ lệ là: 7-9,5% (4,5%- 2,5% (bảo tồn vùng đệm), + 02,5% (theo thời kỳ đệm)) cho cổ phần phổ thông và 8,5-11% cho Vốn cấp 1 và 10,513 cho tổng số vốn. 11 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CÁC BASEL TẠI VIỆT NAM 2.1. Về phía cơ quan quản lý nhà nước NHNN Việt Nam và các TCTD Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng cũng như nâng cao năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là năng lực quản trị rủi ro của các NHTM, tiến dần từng bước đến các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Trong đó, NHNN là cơ quan ban hành các văn bản luật cập nhật các điều khoản của Basel mà cách tiếp cận phù hợp với tình hình Việt Nam. Đồng thời, NHNN cũng là cơ quan trực tiếp quản lý, giám sát việc thực hiện các văn bản luật này từ đó có hướng điều chỉnh thích hợp. Mặc dù, NHNN chỉ mới ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Luật các Tổ chức tín dụng (TCTD) đầu tiên vào năm 1997. Tuy nhiên, chỉ sau 2 năm sau, tức năm 1999, NHNN cũng đã nhanh chóng cập nhật những chuẩn mực quốc tế về đảm bảo an toàn vốn, nghiên cứu và cụ thể hóa bằng 2 Quyết định: (1) Quyết định số 296/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/8/1999 quy định về giới hạn cho vay với một khách hàng của TCTD; (2) Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/8/1999 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD. Tuy nhiên, mặc dù, NHNN đã có nhiều cố gắng nhưng hai Quyết định này đã không tránh khỏi những hạn chế. Bởi lẽ, khi NHNN ban hành văn bản luật tiếp cận với Basel I, cũng là lúc BCBS bắt đầu đề xuất một khung Hiệp ước vốn mới (Basel II). Cho nên, đến ngày 23/4/2003, NHNN có Quyết định số 381/2003/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều, khoản của Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 297/1999/QĐNHNN5 ngày 25/8/1999 của Thống đốc NHNN. Tiếp theo đến năm 2005, để cụ thể hơn các quy định của Basel, NHNN đã ban hành các quyết định nhằm thay thế các QĐ 296 và Quyết định 297, bao gồm: (1) Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, trong 12 đó quy định về cách xác định: Vốn tự có = vốn cấp I + vốn cấp II; thông qua đó, xác định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. (2) Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD. Theo đó, nợ của TCTD được chia làm 5 loại: Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn), Nhóm 2 (Nợ cần chú ý), Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) và Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn). Tương ứng với từng nhóm nợ có các mức trích lập dự phòng khác nhau: Nhóm 1: 0%, Nhóm 2: 5%, Nhóm 3: 20%, Nhóm 4: 50% và Nhóm 5: 100%. Các quy định tại QĐ 457 và 493 tuy đã đề cập đến 1 số vấn đề liên quan đến các điều khoản trong hiệp định Basel nhưng vẫn còn ở mức hạn chế. Chính vì vậy, vào tháng 5/2010, NHNN đã ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng (thay thế QĐ 457 và các sửa đổi có liên quan). Trong đó ngoài việc quy định lại về việc xác định Vốn tự có= vốn cấp I + vốn cấp II, NHNN đã hướng dẫn cách xác định tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ và tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất, nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của tổ chức tín dụng lên 9%. 2.2. Về phía các TCTD Bên cạnh việc tuân thủ các quy định bắt buộc của NHNN, các TCTD cũng đang rất nỗ lực để hoàn thiện hơn nữa hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng mình cho phù hợp với điều kiện hoạt động cụ thể của mỗi ngân hàng và từng bước tiếp cận với các chuẩn mực của các Basel. Các NHTM đã chuyển từ quản lý rủi ro thụ động (với các đặc trưng: Quản lý sau đối với các hoạt động kinh doanh có phát sinh rủi ro; Đơn thuần thực hiện báo cáo các kết quả đã xảy ra) sang quản lý rủi ro chủ động (với các đặc trưng: Quản lý trước và trong quá trình của các hoạt động kinh doanh có phát sinh rủi ro; Thực hiện giám sát trong quá trình hoạt động, cảnh báo những ngưỡng rủi ro; Đưa ra các báo cáo rủi ro, phân tích rủi ro). Theo đó: (1) Các NHTM đã có bộ phận quản lý rủi ro chuyên biệt, ngoài việc quản lý rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, các TCTD đã quan tâm đến rủi ro tác nghiệp, một số NHTM lớn như BIDV, VCB, Vietinbank, Agribank, Techcombank, ACB… đã thành lập bộ phận quản lý rủi ro tác nghiệp; (2) Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Ví dụ: 13 BIDV đang hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo thông lệ quốc tế với 3 nhóm khách hàng: khách hàng doanh nghiệp, khách hàng cá nhân và khách hàng là các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào các thông tin tài chính và phi tài chính của khách hàng, BIDV chấm điểm và xếp khách hàng thành 10 loại: AAA, AA, A, BBB, BB, B, CCC, CC, C và D. Đối với mỗi hạng khách hàng, BIDV có chính sách riêng, cụ thể như: chính sách về tiếp thị, chính sách về cấp tín dụng, chính sách về tài sản đảm bảo… Để có cái nhìn cụ thể, chúng ta chia việc thực hiện các văn bản pháp luật về an toàn vốn theo 3 giai đoạn: (1) Giai đoạn thứ nhất (1999-2005): Áp dụng Quyết định 297/1999/QÐ-NHNN quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của NHTM. Mặc dù, QĐ 457/2005/QĐ-NHNN được ban hành vào ngày 19/04/2005, tuy nhiên,do độ trễ của vấn đề, ta vẫn xem xét đến hết năm 2005; (2) Giai đoạn hai (2006-2010): Giai đoạn thực hiện Quyết định 457/2005/QÐ-NHNN. Mặc dù, Thông Tư sô 13/2010/TT-NHNN có hiệu lực vào ngày 01/10/2010, tuy nhiên, ta vẫn tính hết năm 2010; (3) Giai đoạn thứ ba (2011- 2012): Thực hiện đảm bảo an toàn vốn tối thiểu 9% theo tinh thần của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN. 2.2.1. Giai đoạn 1999-2005 Vào giai đoạn này, thị phần hoạt động của 5 ngân hàng thương mại nhà nước (NHTM NN), gồm NHTM NN Ngoại Thương Việt Nam (VCB), NHTM NN Công Thương Việt Nam (CTG), NHTM NN Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), NHTM NN Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam (AGR), NHTM NN Phát triển Nhà đồng bằng song Cửu Long (MHB), chiếm đến 70-75 %. Ngoài ra, tại thời điểm năm 2000, trước thực trạng tỷ lệ nợ xấu quá cao, có nguy cơ dẫn đến sự phá sản của các NHTM NN, Chính phủ đã trực tiếp cấp 12.000 tỷ đồng dưới dạng cấp trái phiếu đặc biệt với thời hạn 20 năm để tăng vốn tự có cho 4 NHTM NN đưa tổng mức vốn tự có của khối này lên mức hơn 18.000 tỷ VND, chiếm 51% vốn tự có của toàn hệ thống. Chính vì vậy, có thể nói sự an toàn trong hoạt động của nhóm ngân hàng này quyết định sự an toàn của toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, khi nhìn vào hệ số an toàn vốn (CAR) của 5 NHTM NN tại thời điểm 14 31/12/2005, ta thấy, hầu hết các NHTM NN đều chưa đạt được yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, trừ MHB. Hình 1: Hệ số an toàn vốn (hệ số CAR) của các NHTM NN thời điểm 31/12/2005 Tuy nhiên, nếu xét trên toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể nhận thấy, trong khi các NHTM NN gặp khó khăn trong việc đạt chuẩn an toàn vốn thì các NHTMCP thời điểm này lại đảm bảo được mức an toàn vốn. Hình 2: Hệ số an toàn vốn của hệ thống TCTD Việt Nam tính đến 31/12/2005 15 Cụ thể, ngoại trừ, nhóm NHTM NN có CAR rất thấp là 4.10%, tất cả các nhóm còn lại có CAR cao hơn quy định. Trong đó, NHTM CP đô thị có CAR là 8.00%, vừa đủ để đáp ứng yêu cầu của quy định. Đối với nhóm chi nhánh NH nước ngoài và NH liên doanh lần lượt có hệ số CAR là 9.20% và 12.00%. Đặc biệt, NHTM CP nông thôn có hệ số CAR lên đến 24%. Tuy nhiên, do thị phần lớn cũng như tỷ trọng vốn tự có của nhóm NHTMNN cao hơn rất nhiều so với tất cả các nhóm còn lại, nên tổng thể, hệ thống NHTM vẫn có CAR rất thấp là 5.50%. Hơn thế nữa, mặc dù, các NHTM Việt Nam đã nỗ lực và hầu hết các NHTM CP đều đạt được hệ số an toàn vốn trên 8%, song nếu so sánh với cách tính hệ số an toàn của Basel II, tức là mẫu số phải cộng thêm cả vốn dành cho rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động thì chắc chắn rất ít NHTM Việt Nam giai đoạn này đạt được tỷ lệ an toàn vốn ở mức trên 8%. 2.2.2. Giai đoạn 2005-2010 Trong giai đoạn này, nhìn chung, CAR của các NHTM đạt trên mức quy định là 8%. Tuy nhiên, vẫn là vấn đề của giai đoạn trước: các NHTM NN có ảnh hưởng lớn đến cả hệ thống nhưng lại không thỏa mãn yêu cầu theo QĐ 457. Trong đó, AGR không đạt được hệ sô CAR suốt giai đoạn thứ hai này. Thậm chí, CAR ở mức rất thấp. Ngoài ra, BIVD, CTG, VCB cũng có thời điểm không thỏa mãn yêu cầu về an toàn vốn của QĐ 457 và các sửa đổi, bổ sung có liên quan. 16 Bảng 1: CAR của một số NHTM giai đoạn 2006-2010 Đơn vị tính: % CAR VCB 2006 12.60 2007 9.20 2008 8.90 2009 7.64 2010 9 CTG 5.18 11.62 12.02 8.06 8.02 ARG 4.90 7.20 7.9 4.86 6.09 BIDV 5.50 6.67 6.50 7.55 9.32 TCB 17.28 14.30 13.99 9.6 13.11 STB 11.82 11.07 12.16 10.90 10.32 ACB 10.89 16.19 12.44 9.97 10.4 EAB 13.57 14.36 10.75 n.a 10.84 ( Nguồn: tổng hợp từ website NHNN) Để hiểu rõ hơn về sự biến động của CAR trong giai đoạn này, ta xem xét hình sau: Hình 3: Hệ số CAR của một số NHTM tại Việt Nam giai đoạn 2006-2010 Giai đoạn 2006-2010 là giai đoạn đầy biến động. Thứ nhất, giai đoạn 20062008, nhìn chung, đa số các ngân hàng đều có CAR trên mức quy định và có xu 17 hướng tăng trưởng. Bởi vì, đây là giai đoạn có sự thuận lợi của môi trường kinh doanh cũng như sự bùng nổ của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, giai đoạn thứ hai, từ năm 2008 đến năm 2009, do tác động của chính sách kích cầu cũng như việc thực hiện nới lỏng tiền tệ của NHNN nên tín dụng tại các NHTM đã tăng đột biến. Ðiều này dẫn đến hệ lụy tổng tài sản rủi ro của các NHTM tăng lên và kết quả là các NHTM trong nhóm trên đều có xu hướng sụt giảm tỷ lệ an toàn vốn. Trong đó, VCB từ tình trạng đạt tiêu chuẩn trên 8%, giảm xuống chỉ còn 7.64%. Sau đó, giai đoạn 2009-2010, CAR của hầu hết các ngân hàng đều tăng trưởng đáng kể. Bởi lẽ, nếu căn cứ theo Nghị định 141/2006/NÐ-CP (ngày 22/11/2006), thì đến cuối năm 2010, các NHTMCP phải đạt mức vốn pháp định tối thiểu là 3.000 tỷ VND. Một số ngân hàng đã thực hiện tăng mức vốn pháp định theo qui định để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Vì thế, vốn tự có được nâng lên, nghĩa là phần tử số trong công thức tính CAR tăng lên, dẫn đến hệ số này tăng lên đáng kể. 2.2.3. Giai đoạn 2011-2012 Trong giai đoạn này, bức tranh về đảm bảo an toàn vốn là khá phức tạp. Nếu nhìn vào mức tính toán cho toàn hệ thống, hệ thống NHTM Việt Nam đã đảm bảo được hệ số an toàn vốn tối thiểu 9% theo Thông tư số 03/2010/TT-NHNN. Đầu tiên, có những tín hiệu tốt khi hầu hết các NHTM đều đạt CAR trên 9%, mặc dù AGR chỉ đạt được 8% nhưng đây cũng là dấu hiệu đáng mừng vì nếu so với tiêu chuẩn của cả Basel I, II và III thì AGR cũng thỏa mãn quy định. Hình 4: Hệ số CAR của các NHTM năm 2011 18 Dấu hiệu đáng quan tâm thứ hai là, nếu xét trên toàn hệ thống ngành Ngân hàng thì CAR có xu hướng tăng lên, từ 11.92% vào thời điểm tháng 9/2011 đến 13.7% vào ngày 31/10/2012. Một trong những nguyên nhân là các NHTM CP đều cố gắng thực hiện theo NĐ 141/2006/NĐ-CP về việc tăng vốn điều lệ trên 3000 tỷ đồng. Tính đến 31/10/2012, không còn ngân hàng nào có mức vốn điều lệ thấp hơn 3000 tỷ đồng. Bảng 2: Tỷ lệ an toàn vốn của ngành Ngân hàng Đơn vị tính: % CAR(%) 9/2011 31/10/2012 11.92 13.7 Nguồn: tổng hợp từ NHNN Tuy nhiên, với hai dấu hiệu trên, chúng ta vẫn chưa thể kết luận các NHTM Việt Nam đã sẵn sang đối phó với những nguy cơ từ các loại rủi ro bởi các nguyên nhân sau: (1) Mặc dù là ngân hàng lớn nhất VN cả về vốn, tài sản lẫn đội ngũ nhân viên, mạng lưới hoạt động, số lượng khách hàng, Agribank vẫn không thể đạt được quy định về mức an toàn vốn tối thiểu 9% trong năm 2011. Mặc dù, sau đó, CAR của Agribank lên mức 9,5% vào tháng 3/2012 nhờ vốn Chính phủ, nhưng cũng chỉ mới cao hơn chút đỉnh so với yêu cầu tối thiểu. Ngoài ra, chất lượng vốn vay suy 19 giảm vẫn là một rủi ro lớn đối với vốn của Agribank xét tới viễn cảnh yếu kém về chất lượng tài sản và khả năng sinh vốn nội tại hạn chế của ngân hàng này. Ðiều này là đáng lo ngại nếu xét trên phương diện rủi ro hệ thống. Bởi lẽ, sự sụp đỗ của AGR sẽ dẫn đến sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hàng. (2) Ðối với khối NHTMCP,các ngân hàng quy mô lớn đều có xu thế đạt được yêu cầu mới của NHNN về tỷ lệ an toàn vốn. Trái lại, các NHTMCP nhỏ thực sự gặp khó khăn trước yêu cầu tăng vốn tự có nhằm đảm bảo an toàn. Cụ thể đến thời điểm 31/6/2011, tỷ lệ CAR của nhiều các ngân hàng cổ phần như ACB, Sacombank, Eximbank, Techcombank, Ðông Á, Quân đội… đã đạt trên 9% theo tinh thần của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN. Trong khi đó, đến tháng 11/2011, vẫn còn 5 NHTM cổ phần vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Nếu xem xét theo tinh thần Nghị định 141/NÐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ thì tính đến thời điểm hết tháng 6 năm 2011, vẫn còn 15 NHTMCP có vốn điều lệ dưới 3.000 tỷ đồng, chủ yếu ở khoảng 2.000 tỷ đồng. Như vậy, dù giãn tiến độ 1 năm nhưng một số ngân hàng nhỏ của Việt Nam vẫn không thể đạt được các quy định đảm bảo mức vốn pháp định. Mặc dù, sau đó, đến 31/10/2012, tất cả đều thỏa mãn quy định của NĐ 41/2006/NĐCP, nhưng rõ ràng, đã có sự phân nhóm trong hệ thống ngân hàng. Điều này tìm ẩn nhiều nguy cơ từ khối những ngân hàng nhỏ này, thậm chí ảnh hưởng đến cả hệ thống. (3) Hơn thế, như khuyến nghị của Basel III, trong tình huống hệ số an toàn vốn ổn định nhưng tỷ lệ đòn bẩy tăng cao cũng có thể báo hiệu những rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống NHTM. Ðối với khối NHTMCP, xu hướng hệ số đòn bẩy tài chính cao có thể nhận thấy khá rõ. (4) Trong giai đoạn này, thị trường bất động sản xuống dốc, nhiều khoản vay đến hạn không trả được nợ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng (ngân hàng buộc phải chuyển nhóm nợ và trích lập dự phòng rủi ro, tình hình thanh khoản bị suy giảm). Tỷ lệ nợ xấu được NHNN công bố cho toàn ngành Ngân hàng là 3,39%, tương đương với khoảng 20% mức vốn tự có. Tuy nhiên, số liệu nợ xấu chưa phản ánh đúng thực chất RRTD của hệ thống ngân hàng Việt Nam do tiêu chuẩn phân loại nợ cũng như công tác phân loại nợ của các ngân hàng còn nhiều bất 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất