Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phân tích tình hình tài chính tại công ty cổ phần công nghệ...

Tài liệu Phân tích tình hình tài chính tại công ty cổ phần công nghệ

.PDF
65
119
119

Mô tả:

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.1. Tổng quan chung về tài chính DN và phân tích tài chính DN 1.1.1. Khái niệm và vai trò của TCDN 1.1.1.1. Khái niệm tài chính doanh nghiệp: Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm phục vụ cho quá trình tái sản xuất trong mỗi doanh nghiệp và góp phần tích lũy vốn cho nhà nước. Nhìn từ góc độ tài chính cho thấy quá trình hoạt động của doanh nghiệp cũng là quá trình huy động, phân phối và sử dụng các nguồn lực hợp thành hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Trong quá trình đó, làm phát sinh, tạo ra sự vận động của các dòng tiền bao hàm dòng tiền vào, dòng tiền ra gắn liền với hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh thường xuyên hàng ngày của doanh nghiệp. Xét về hình thức, tài chính doanh nghiệp phản ánh quá trình tạo lập, phân phối, sử dụng, vận động của các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Xét về bản chất, tài chính doanh nghiệp gắn liền với các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị nảy sinh giữa doanh nghiệp với các bên có liên quan trong quá trình tạo lập, sử dụng, vận động các quỹ tiền tệ và phân phối kết quả của doanh nghiệp với mục tiêu không ngừng gia tăng lợi ích của mỗi bên – nhất là lợi ích của doanh nghiệp. Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế với doanh nghiệp tạo ra sự vận động của các dòng tiền vào, ra gắn liền với hoạt động đầu tư, hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Mô hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp sơ đồ hóa trong sơ đồ 1.1 sau đây: Sơ đồ 1.1: Mô hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp Các chủ thể kinh thế Hoạt Hoạt động động - Kinh doanh đầu tư - Tài chính Các chủ thể kinh thế QUỸ TIỀN TỆ TẠO LẬP SỬ DỤNG 1 1.1.1.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp: Huy động và đảm bảo đầy đủ, kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Sự hoạt động của quy luật cung cầu rất mạnh mẽ. Ở đâu, ở lĩnh vực nào có nhu cầu thì ở đó sẽ có nguồn cung cấp. Vì vậy, khi các doanh nghiệp có nhu cầu vốn thì tất yếu thị trường vốn sẽ được hình thành với những hình thức đa dạng của nó. Vấn đề là chỗ người quản lý phải xác định chính xác nhu cầu vốn, cân nhắc lựa chọn các hình thức, phương pháp thích hợp để khai thác thu hút vốn, sử dụng các công cụ đòn bấy kinh tế như lãi suất vay, cổ tức khi phát hành trái phiếu, cổ phiếu nhằm khai thác huy động vốn, lựa chọn phương án đầu tư có hiệu quả, linh hoạt sử dụng các nguồn vốn, đảm bảo khả năng thanh toán chi trả...Đó chính là việc khai thác các chức năng phân phối và giám đốc tài chính để nâng cao vai trò của tài chính doanh nghiệp trong việc tạo lập, khai thác, huy động vốn phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Tổ chức sử dụng vốn kinh doanh tiết kiệm và hiệu quả: Việc khai thác, huy động vốn, việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Đã đặt ra trước mọi doanh nghiệp những chuẩn mực hết sức khe khắt: sản xuất không thể với bất kỳ giá nào, phải bán được những hàng hoá, dịch vụ mà thị trường cần và chấp nhận được chứ không phải bán những cái gì mà mình có. Trước sức ép nhiều mặt của thị trường đã buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả. Điều lưu ý ở đây là cần có sự phân biệt giữa chỉ tiêu lợi nhuận với chỉ tiêu hiệu quả kinh tế. Nói chung, sự gia tăng hiệu quả kinh tế sẽ bao hàm cả yếu tố tăng chỉ tiêu lợi nhuận. Song ngược lại, có những trường hợp tăng chỉ tiêu lợi nhuận nhưng lại không có hiệu quả. Vì thế, hiệu quả kinh tế chỉ có thể có được khi vốn được sử dụng tiết kiệm mà vẫn đảm bảo mức gia tăng lợi nhuận. Đòn bẩy kích thích và điều tiết kinh doanh: Vai trò này của tài chính doanh nghiệp được thể hiện thông việc tạo ra sức mua hợp lý để thu hút vốn đầu tư, lao động vật tư, dịch vụ, đồng thời xác định giá bán hợp lý khi phát hành cổ phiếu hàng hóa bán dịch vụ và thông qua hoạt động phân phối thu nhập của doanh nghiệp, phân phối quỹ tiền thưởng, tiền lương, thực hiện các hợp đồng kinh tế… Giám sát kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tình hình tài chính của doanh nghiệp là một tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu tài chính thực hiện mà các nhà quản lý doanh nghiệp dễ dàng nhận thấy thực trạng quá trình kinh doanh của doanh 2 nghiệp, phát hiện kịp thời những vướng mắc tồn tại để từ đó đưa ra quyết định điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nhằm đạt tới mục tiêu đã định. 1.1.2. Khái niệm và vai trò của phân tích tài chính: 1.1.2.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp: Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp cho người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp. Phân tích tài chính doanh nghiệp trước hết tập trung vào các số liệu được cung cấp trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, kết hợp với các thông tin bổ sung từ các nguồn khác nhau, làm rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ, chỉ ra những thay đổi chủ yếu, những chuyển biến theo xu hướng, tính toán nhân tố, những nguyên nhân của sự thay đổi trong các hoạt động tài chính phát hiện những quy luật của các hoạt động, làm cơ sở cho các quyết định hiện tại và dự báo cho tương lai. 1.1.2.2. Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp: Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp hay cụ thể hoá là việc phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp là quá trình kiểm tra, đối chiếu, so sánh các số liệu, tài liệu về tình hình tài chính hiện hành và trong quá khứ nhằm mục đích đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai. Do đó, phân tích báo cáo tài chính là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như nhà quản lý doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các khách hàng, các nhà cho vay tín dụng, các cơ quan chính phủ, người lao động... Mỗi nhóm người này có những nhu cầu thông tin khác nhau. Đối với người quản l doanh nghiệp: Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà quản lý doanh nghiệp phải giải quyết ba vấn đề quan trọng sau đây : Thứ nhất : Doanh nghiệp nên đầu tư vào đâu cho phù hợp với loại hình sản xuất kinh doanh lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp. Thứ hai : Nguồn vốn tài trợ là nguồn nào? Để đầu tư vào các tài sản, doanh nghiệp phải có nguồn tài trợ, nghĩa là phải có tiền để đầu tư. Các nguồn tài trợ đối với một doanh nghiệp được phản ánh bên phải của bảng cân đối kế toán. Một doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc vay nợ dài hạn, ngắn hạn. Nợ ngắn hạn có thời hạn dưới một năm còn nợ dài hạn có thời hạn trên 3 một năm. Vốn chủ sở hữu là khoản chênh lệch giữa giá trị của tổng tài sản và nợ của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra ở đây là doanh nghiệp sẽ huy động nguồn tài trợ với cơ cấu như thế nào cho phù hợp và mang lại lợi nhuận cao nhất. Liệu doanh nghiệp có nên sử dụng toàn bộ vốn chủ sở hữu để đầu tư hay kết hợp với cả các hình thức đi vay và đi thuê? Điều này liên quan đến vấn đề cơ cấu vốn và chi phí vốn của doanh nghiệp. Thứ ba : Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế nào? Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ đến vấn đề quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính ngắn hạn gắn liền với các dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ. Nhà quản lý tài chính cần xử lý sự lệch pha của các dòng tiền. Ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi khía cạnh về tài chính doanh nghiệp, nhưng đó là những vấn đề quan trọng nhất. Phân tích tài chính doanh nghiệp là cơ sở để đề ra cách thức giải quyết ba vấn đề đó. Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp: Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm hàng đầu của họ là thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi và sự rủi ro. Vì vậy, họ cần các thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của các doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp Cổ phần, các cổ đông là người đã bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp và họ có thể phải gánh chịu rủi ro. Những rủi ro này liên quan tới việc giảm giá cổ phiếu trên thị trường, dẫn đến nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. Chính vì vậy, quyết định của họ đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức độ rủi ro và doanh lợi đạt được. Vì thế, mối quan tâm hàng đầu của các cổ đông là khả năng tăng trưởng, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị chủ sở hữu trong doanh nghiệp. Trước hết họ quan tâm tới lĩnh vực đầu tư và nguồn tài trợ. Trên cơ sở phân tích các thông tin về tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh hàng năm, các nhà đầu tư sẽ đánh giá được khả năng sinh lợi và triển vọng phát triển của doanh nghiệp; từ đó đưa ra những quyết định phù hợp. Các nhà đầu tư sẽ chỉ chấp thuận đầu tư vào một dự án nếu ít nhất có một điều kiện là giá trị hiện tại ròng của nó dương. Khi đó lượng tiền của dự án tạo ra sẽ lớn hơn lượng tiền cần thiết để trả nợ và cung cấp một mức lãi suất yêu cầu cho nhà đầu tư. Số tiền vượt quá đó mang lại sự giàu có cho những người sở hữu doanh nghiệp. Đối với các chủ nợ của doanh nghiệp: Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của họ chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ chú ý đặc biệt đến số 4 lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển nhanh thành tiền, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm tới số vốn của chủ sở hữu, bởi vì số vốn này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp bị rủi ro. Như vậy, kỹ thuật phân tích có thể thay đổi theo bản chất và theo thời hạn của các khoản nợ, nhưng cho dù đó là cho vay dài hạn hay ngắn hạn thì người cho vay đều quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay. Đối với người lao động trong doanh nghiệp: Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ của doanh nghiệp, người được hưởng lương trong doanh nghiệp cũng rất quan tâm tới các thông tin tài chính của doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt động của doanh nghiệp có tác động trực tiếp tới tiền lương, khoản thu nhập chính của người lao động. Ngoài ra trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham gia góp vốn mua một lượng cổ phần nhất định. Như vậy, họ cũng là những người chủ doanh nghiệp nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp. Đối với các cơ quan quản l hà nước: Dựa vào các báo cáo tài chính doanh nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà nước thực hiện phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có tuân thủ theo đúng chính sách, chế độ và luật pháp quy định không, tình hình hạch toán chi phí, giá thành, tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và khách hàng... Tóm lại, phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua một hệ thống các phương pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát, lại vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp. 1.2. Phƣơng pháp phân tích tài chính Để phân tích tài chính, người ta thường dùng các biện pháp cụ thể mang tính chất nghiệp vụ kỹ thuật. Tuỳ thuộc vào tính chất và đặc điểm riêng biệt của từng đơn vị kinh tế mà phân tích hoạt động lựa chọn từng phương pháp cụ thể để áp dụng sao cho có hiệu quả nhất. 5 1.2.1. Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất trong phân tích tài chính doanh nghiệp nhằm đánh giá sự khác biệt hay xu hướng biến đổi của từng chỉ tiêu phân tích, từ đó giúp các đối tượng quan tâm thấy rõ mức biến động của các đối tượng để đưa ra các quyết định đúng đắn. Kết quả so sánh chỉ có ý nghĩa khi các chỉ tiêu đem đi so sánh phải được đảm bảo tính đồng nhất, phản ánh cùng một nội dung kinh tế, đơn vị tính, phương pháp tính, thời gian và điều kiện môi trường của các chỉ tiêu. Khi so sánh , căn cứ để so sánh hay còn gọi là gốc so sánh sẽ phụ thuộc vào mục đích phân tích để lựa chọn cho phù hợp. Cụ thể là: - Số liệu so sánh với số liệu của kỳ trước với mục đích đánh giá xu hướng và tốc độ phát triển của các chỉ tiêu. - So sánh với số liệu dự kiến nhằm đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu đã đề ra. - So sánh với trung bình ngành kinh doanh và các công ty cùng ngành để đánh giá vị trí doanh nghiệp trong ngành. Kỹ thuật so sánh thường được sử dụng trong phân tích là so sánh bằng số tuyệt đối, so sánh bằng số tương đối và so sánh với số bình quân. So sánh bằng số tuyệt đối là sự chênh lệch giữa số liệu kỳ so sánh với số liệu kỳ gốc, phản ánh sự biến động về quy mô của các chỉ tiêu nghiên cứu giữa kỳ so sánh và kỳ gốc. So sánh bằng số tương đối là tỷ lệ giữa số liệu kỳ so sánh với số liệu kỳ gốc, phản ánh tốc độ phát triển của các chỉ tiêu nghiên cứu. Có ba loại số tương đối: số tương đối động thái, số tương đối kế hoạch và số tương đối phản ánh mức độ thực hiện. 1.2.2. Phương pháp phân tích tỷ số Phân tích tỷ số là kỹ thuật phân tích căn bản và quan trọng nhất của phân tích tài chính. Phân tích các tỷ số tài chính liên quan đến việc xác định và sử dụng các tỷ số tài chính để đo lường và đánh giá tình hình và hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Phương pháp này thường được thực hiện theo các bước như sau: Bước 1: Dựa trên cơ sở các chỉ tiêu phân tích TCDN đã có sẵn hoặc nhà phân tích tự xây dựng chỉ tiêu phân tích phù hợp với mục đích phân tích của mình, nhà phân tích chọn lọc các số liệu trong BCTC để tính toán. Bước 2: Trên cơ sở các kết quả đã thu được từ việc tính toán các tỷ số, nhà phân tích nêu ra mối quan hệ giữa tử số và mẫu số. 6 Bước 3: Nhận định mức độ cao thấp của các con số này, tìm hiểu tác động của các kết quả đó đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thông qua đó tìm hiểu các nguyên nhân tăng giảm của các con số. Bước 4: Rút ra kết luận, đánh giá về tình hình TCDN, từ đó đưa ra các giải pháp phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, tạo tiền đề phát triển cho doanh nghiệp trong tương lai. Về nguyên tắc, với phương pháp tỷ số, cần xác định được các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu. Để đánh giá tình trạng tài chính của một doanh nghiệp cần so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Như vậy, phương pháp so sánh luôn được sử dụng kết hợp với các phương pháp phân tích khác. 1.2.3. Phương pháp thay thế Đây là phương pháp xác định ảnh hưởng của các nhân tố bằng cách thay thế lần lượt và liên tục các yếu tố giá trị kỳ gốc sang kỳ phân tích để xác định trị số của chỉ tiêu thay đổi. Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến đối tượng kinh tế nghiên cứu. Nó tiến hành đánh giá so sánh và phân tích từng nhân tố ảnh hưởng trong khi đó giả thiết là các nhân tố khác cố định. Do đó để áp dụng nó phân tích hoạt động kinh tế cần áp dụng một trình tự thi hành sau: - Căn cứ vào mối liên hệ của từng nhân tố đến đối tượng cần phân tích mà từ đó xây dựng nên biểu thức giữa các nhân tố - Tiến hành lần lượt để xác định ảnh hưởng của từng nhân tố trong điều kiện giả định các nhân tố khác không thay đổi. - Ban đầu lấy kỳ gốc làm cơ sở, sau đó lần lượt thay thế các kỳ phân tích cho các số cùng kỳ gốc của từng nhân tố. - Sau mỗi lần thay thế tiến hành tính lại các chỉ tiêu phân tích. Số chênh lệch giữa kết quả tính được với kết quả tính trước đó là mức độ ảnh hưởng của các nhân tố được thay đổi số liệu đến đối tượng phân tích. Tổng ảnh hưởng của các nhân tố tương đối tương đương với bản thân đối tượng cần phân tích. 1.2.4. Phương pháp phân tích Dupont Bên cạnh các phương pháp trên, nhà phân tích còn sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont. Với phương pháp này, nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh khả năng sinh lời của doanh nghiệp như khả năng sinh lời của tài sản ROA, khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu ROE thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau tức là từ hệ 7 số sơ cấp ROE, nhà phân tích chia nó làm các hệ số thứ cấp và nếu muốn, các nhà phân tích lại có thể biến các hệ số thứ cấp này quay trở lại là hệ số sơ cấp ban đầu. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó đối với tỷ số tổng hợp. Lợi nhuận ròng ROA = Lợi nhuận ròng = Tổng tài sản Lợi nhuận ròng ROE = Doanh thu thuần Lợi nhuận ròng = Vốn cổ phần Doanh thu thuần X Tổng tài sản Doanh thu thuần x Doanh thu thuần Tổng tài sản x Tổng tài sản Vốn cổ phần Lúc này ta có thể phân tích tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần theo hiệu suất sử dụng vốn cổ phần và tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu. Muốn tăng tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần ta cần tăng hiệu suất sử dụng tổng tài sản, tức sử dụng tối đa công suất tài sản, hoặc tăng tổng số tài sản trên vốn cổ phần tức cần sử dụng công cụ nợ, hoặc tăng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu tức là tối thiểu hóa chi phí. Trên cơ sở nhận biết ba tỷ số thứ cấp cấu thành nên tỷ số sơ cấp là ROE, doanh nghiệp có thể áp dụng một số biện pháp làm tăng ROE như sau: - Tác động tới cơ cấu tài chính của doanh nghiệp thông qua điều chỉnh tỷ lệ nợ vay và tỷ lệ vốn chủ sở hữu cho phù hợp với năng lực hoạt động. - Tăng hiệu suất sử dụng tài sản. Nâng cao số vòng quay của tài sản, thông qua việc vừa tăng quy mô về doanh thu thuần, vừa sử dụng tiết kiệm và hợp lý về cơ cấu của tổng tài sản. - Tăng doanh thu, giảm chi phí, nâng cao chất lượng của sản phẩm. Từ đó tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Tóm lại, phân tích báo cáo tài chính bằng mô hình Dupont có ý nghĩa lớn đối với quản trị doanh nghiệp thể hiện ở chỗ có thể đánh giá đầy đủ và khách quan các nhân tố tác động đến hiêu quả sản xuất kinh doanh từ đó tiến hành công tác cải tiến tổ chức quản lý của doanh nghiệp. Song phương pháp này chưa được áp dụng rộng rãi mà chỉ áp dụng cho các công ty lớn, có đội ngũ cán bộ phân tích chuyên trách, có trình độ cao bởi phương pháp này không chỉ đòi hỏi đánh giá sự tác động của chỉ tiêu thành phần đối với chỉ tiêu tổng hợp mà còn sử dụng mô hình kinh tế lượng để đánh giá mức độ tác động giữa các chỉ tiêu thành phần. 8 1.3. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính 1.3.1. Thông tin kế toán Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng làm rõ mục tiêu của dự đoán tài chính. Từ những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài, thông tin số lượng đến thông tin giá trị đều giúp cho nhà phân tích có thể đưa ra nhận xét, kết luận sát thực. Tuy nhiên, thông tin kế toán là nguồn thông tin đặc biệt cần thiết. Nó được phản ánh đầy đủ trong các báo cáo kế toán của doanh nghiệp. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính được hình thành thông qua việc xử lý các báo cáo kế toán. Các báo cáo tài chính gồm có: Bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đấy là một báo cáo tài chính phản ánh tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định, dưới hình thái tiền tệ theo giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản. Xét về bản chất, bảng cân đối kế toán là một bảng cân đối tổng hợp giữa tài sản với vốn chủ sở hữu và công nợ phải trả (nguồn vốn). Phần tài sản: Bao gồm có tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Về mặt pháp lý, phần tài sản thể hiện số tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích trong tương lai. Về mặt kinh tế, các chỉ tiêu của phần tài sản cho phép đánh giá tổng quát về quy mô vốn, cơ cấu vốn, quan hệ giữa năng lực sản xuất và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp. Phần nguồn vốn: Bao gồm công nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu, phản ánh các nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý, phần nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý về mặt vật chất của doanh nghiệp đối với các đối tượng cấp vốn (Nhà nước, ngân hàng, cổ đông, các bên liên doanh...). Báo cáo kết quả kinh doanh Một loại thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. Khác với bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; nó cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiẹp trong tương lai. Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh đồng thời cũng giúp cho nhà phân tích so sánh doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, có thể xác định được kết quả sản xuất kinh doanh: lãi 9 hay lỗ trong năm. Như vậy, báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của một doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải lập để cung cấp cho người sử dụng thông tin của doanh nghiệp. Nếu bảng cân đối kế toán cho biết những nguồn lực của cải (tài sản) và nguồn gốc của những tài sản đó; và báo cáo kết quả kinh doanh cho biết thu nhập và chi phí phát sinh để tính được kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, thì báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để trả lời các vấn đề liên quan đến luồng tiền vào ra trong doanh nghiệp, tình hình thu chi ngắn hạn của doanh nghiệp. Những luồng vào ra của tiền và các khoản coi như tiền được tổng hợp thành ba nhóm: lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính và lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động bất thường. 1.3.2. Các thông tin khác Đây là các thông tin về tình hình kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong năm. Sự suy thoái hoặc tăng trưởng của nền kinh tế có tác động mạnh mẽ đến cơ hội kinh doanh, đến sự biến động của giá cả các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Khi các tác động diễn ra theo chiều hướng có lợi, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận tăng và nhờ đó kết quả kinh doanh trong năm là khả quan. Tuy nhiên khi những biến động của tình hình kinh tế là bất lợi, nó sẽ ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy để có được sự đánh giá khách quan và chính xác về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, chúng ta phải xem xét cả thông tin kinh tế bên ngoài có liên quan. 1.4. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 1.4.1. Phân tích tình hình tài sản – nguồn vốn Trong quá trình hoạt động kinh doanh, tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp luôn biến động tăng hoặc giảm thể hiện trên bảng cân đối kế toán. Khi phân tích cơ cấu và những biến động của tài sản và nguồn vốn, chúng ta có thể đánh giá được một cách tổng quát về tình hình đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. 10 1.4.1.1. Phân tích cơ cấu và tình hình biến động tài sản: Tổng tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định, ta cũng biết tài sản nhiều hay ít, tăng hay giảm nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân tích sự biến động và tình hình phân bổ tài sản là để đánh giá việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp có hợp lý hay không. Để làm được điều này ta làm như sau: Thứ nhất, phân tích sự biến động của từng chỉ tiêu tài sản qua các năm cả về số tuyệt đối và số tương đối. Trong quá trình đó thì chúng ta còn xem xét sự biến động của từng chỉ tiêu là do nguyên nhân nào, thông qua việc phân tích này thì chúng ta sẽ nhận thức được tác động của từng loại tài sản đối với quá trình kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thứ hai, xem xét cơ cấu tài sản có hợp lý hay không, cơ cấu tài sản tác động như thế nào đến quá trình kinh doanh; để làm điều này thì chúng ta phải tính tỷ trọng của từng chỉ tiêu trong tổng tài sản, tỷ trọng của các chỉ tiêu thuộc tài sản ngắn hạn trong tổng tài sản ngắn hạn, tương tự cho tài sản dài hạn. Sau đó so sánh chúng qua nhiều thời kỳ khác nhau để thấy được sự biến động của cơ cấu tài sản, khi đánh giá việc phân bổ tài sản có hợp lý hay không ta nên xem xét đặc điểm ngành nghề và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. 1.4.1.2. Phân tích cơ cấu và tình hình biến động nguồn vốn: Tình hình nguồn vốn của doanh nghiệp được thể hiện qua cơ cấu và sự biến động về nguồn vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu nguồn vốn là tỷ trọng của từng loại nguồn vốn trong tổng số nguồn vốn; thông qua cơ cấu nguồn vốn thì chúng ta sẽ đánh giá được hướng tài trợ của doanh nghiệp, mức độ rủi ro từ chính sách tài chính đó, ta cũng thấy được về khả năng tự chủ hay phụ thuộc về mặt tài chính của doanh nghiệp. Thứ hai, thông qua sự biến động của các chỉ tiêu phần nguồn vốn thì ta sẽ thấy được tình hình huy động các nguồn vốn cho hoạt động SXKD của doanh nghiệp, nó cho thấy được tính chủ động trong chính sách tài chính hay do sự bị động trong hoạt động sản xuất kinh doanh gây ra. Bằng việc so sánh sự biến động cả về số tuyệt đối và tương đối của các chỉ tiêu phần nguồn vốn, tính tỷ trọng của từng chỉ tiêu trong tổng nguồn vốn, tỷ trọng của từng chỉ tiêu thuộc nợ phải trả trong tổng nợ phải trả, tương tự cho vốn chủ sở hữu; sau đó so sánh chúng qua nhiều năm khác nhau để thấy được cơ cấu và sự biến động nguồn vốn của doanh nghiệp. 1.4.2. Phân tích tình hình tạo vốn và sử dụng vốn Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là số tiền ứng trước về toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình phục vụ cho sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp 11 nhằm mục đích kiếm lời. Chính vì vậy, huy động vốn và sử dụng nguồn vốn là vô cùng quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Trong phân tích tình hình tạo vốn và sử dụng vốn, người ta thường xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Sử dụng vốn và tạo lập vốn có tác động qua lại với nhau, sử dụng vốn có ý nghĩa quyết định đến hoạt động tạo lập vồn của doanh nghiệp, tạo lập vốn là cơ sở để có các quyết định sử dụng vốn. Việc sử dụng vốn có hiệu quả sẽ làm tăng khả năng tạo thêm vốn thông qua hoạt động của chính bản thản thân doanh nghiệp. Tùy theo đặc điểm doanh nghiệp và đặc điểm kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp có các phương thức tạo lập vốn khác nhau. Nguồn vốn có thể được huy động từ tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại hoặc vay thông qua phát hành trái phiếu hoặc từ chính nguồn vốn chủ sở hữu và lợi nhuận chưa phân phối. Việc xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp trong một thời kỳ giữa các bảng cân đối kế toán được thể hiện thông qua bảng tài trợ báo cáo nguồn tiền và sử dụng tiền. Bảng tài trợ giúp nhà quản lý xác định rõ các nguồn cung ứng vốn và việc sử dụng các nguồn vốn đó. Để lập được biểu này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi các khoản mục trên bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột: sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc: - Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc các mục bên nguồn vốn giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng vốn. - Nếu các khoản mục bên tài sản giảm hoặc các khoản mục bên nguồn vốn tăng thì điều đó thể hiện việc tạo vốn. Doanh nghiệp tạo nguồn tiền theo hai cách giảm các khoản tài sản như dự trữ tiền, các khoản phải thu khách hàng, giảm hàng tồn kho để tăng nguồn vốn cho doanh nghiệp hoặc tăng nguồn vốn từ việc tăng nợ phải trả nhằm tận dụng nguồn vốn từ nhà cung cấp, tăng vốn đầu tư của chủ sở hữu, tăng nguồn lợi nhuận không chia. Mặt khác, doanh nghiệp lại dùng vốn tạo lập được để tăng lượng tiền mặt dự trữ, đầu tư vào hàng tồn kho, cấp tín dụng cho khách hàng, nộp thuế cho nhà nước, chia lợi nhuận cho cổ đông,…. 1.4.3. Phân tích cân đối tài sản – nguồn vốn Mối quan hệ cân đối giữa tài sản với nguồn vốn thể hiện sự tương quan về giá trị tài sản và cơ cấu vốn của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mối quan hệ cân đối này giúp nhà phân tích phần nào nhận thức được sự hợp lý giữa nguồn 12 vốn doanh nghiệp huy động và việc sử dụng chúng trong đầu tư, mua sắm, dự trữ, sử dụng có hợp lý, hiệu quả hay không. 1.4.3.1. Cân đối tài sản – nguồn vốn theo ngắn hạn Nhu cầu vốn lưu động ròng có liên quan đến một dãy các hoạt động có tính tuần hoàn ở đơn vị như: quá trình cung ứng, sản xuất, và tiêu thụ trong các doanh nghiệp sản xuất, hay quá trình thu mua, dự trữ và bán hàng ở các doanh nghiệp thương mại. Trong dãy hoạt động có tính tuần hoàn đó, nhu cầu tài trợ ngắn hạn còn tính đến các khoản phải thu khác trong quá trình kinh doanh (tạm ứng, trả trước nhà cung cấp, khoản phải thu nội bộ...) và các nguồn vốn tạm thời khác thay đổi cùng với qui mô hoạt động của doanh nghiệp (nợ lương, nợ thuế, nợ bảo hiểm xã hội, nợ phải trả nội bộ...). Chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động ròng một cách tổng quát được tính như sau: Nhu cầu vốn lƣu động ròng = Hàng tồn kho + Các khoản phải thu (ngắn hạn) – Các khoản phải trả (ngắn hạn, không vay). 1.4.3.2. Cân đối tài sản – nguồn vốn theo dài hạn Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ TSNH tại thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Vốn lưu động ròng là phần chênh lệch giữa tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn với nguồn vốn tạm thời. Vốn lưu động ròng là chỉ tiêu phản ánh số vốn tối thiểu mà doanh nghiệp được sử dụng để duy trì những hoạt động diễn ra thường xuyên tại doanh nghiệp. Với số vốn lưu động ròng này, doanh nghiệp có khả năng đảm bảo chi trả các khoản chi tiêu mang tính chất thường xuyên cho các hoạt động diễn ra mà không cần vay mượn hay chiếm dụng bất kỳ một khoản nào khác. Có hai phương pháp tính vốn lưu động ròng của doanh nghiệp: Vốn lƣu động ròng là phần chênh lệch giữa nguồn vốn thƣờng xuyên và giá trị TSDH Vốn lƣu động ròng = Nguồn vốn thƣờng xuyên – Tài sản cố định ròng Chỉ tiêu này cho biết nguồn hình thành của vốn lưu động ròng thể hiện cân bằng giữa nguồn vốn ổn định với những tài sản có thời gian chu chuyển trên một chu kỳ kinh doanh hoặc trên một năm. Chỉ tiêu này thể hiện nguồn gốc của vốn lưu động hay còn gọi là phân tích bên ngoài về vốn lưu động. Ở một khía cạnh khác, vốn lưu động ròng thể hiện phương thức tài trợ TSCĐ, tác động của kỳ đầu tư lên cân bằng tài chính tổng thể. Vốn lƣu động ròng đƣợc tính là phần chênh lệch giữa TSLĐ với nợ ngắn hạn Vốn lưu động ròng = TSLĐ – Nợ ngắn hạn 13 Chỉ tiêu này thể hiện một phần tình hình sử dụng vốn lưu động ròng: vốn lưu động được phân bổ vào các khoản phải thu, hàng tồn kho, hay các khoản có tính thanh khoản cao. Nó nhấn mạnh đến tính linh hoạt trong việc sử dụng vốn lưu động ở doanh nghiệp. Chính vì vậy, phân tích cân bằng tài chính qua chỉ tiêu và cách tính này nhấn mạnh đến phân tích bên trong. Phân tích cân bằng tài chính có ba trường hợp: Trƣờng hợp 1: Vốn lƣu động ròng > 0 Tài sản ngắn hạn Nguồn vốn tạm thời Vốn lưu động ròng > 0 Tài sản dài hạn Nguồn vốn thường xuyên Toàn bộ tài sản dài hạn trong doanh nghiệp được hình thành từ nguồn vốn thường xuyên, hay nói cách khác nguồn vốn thường xuyên không chỉ tài trợ cho TSDH mà một phần còn tài trợ cho TSNH. Đây là trạng thái cân bằng tốt nhất, doanh nghiệp đạt trạng thái cân bằng ổn định lâu dài, bền vững. Nhưng nhược điểm là khi doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn thường xuyên để tài trợ cho TSNH dẫn đến chi phí sử dụng vốn cao. Trƣờng hợp 2: Vốn lƣu động ròng = 0 Tài sản dài hạn Nguồn vốn thường xuyên Tài sản ngắn hạn Nguồn vốn tạm thời Trong trường hợp này, toàn bộ các khoản TSDH được tài trợ vừa đủ từ nguồn vốn thường xuyên, doanh nghiệp đạt trạng thái cân bằng tài chính nhưng chưa mang tính bền vững. Nếu vốn lưu động ròng có tính ổn định: thể hiện các hoạt động của doanh nghiệp đang trong trạng thái ổn định. Khi phân tích thực trạng tài chính trong trường hợp này cần nghiên cứu các nguồn tài trợ của doanh nghiệp. 14 Trƣờng hợp 3: Vốn lƣu động ròng < 0 Tài sản ngắn hạn Nguồn vốn tạm thời Vốn lưu động ròng < 0 Tài sản dài hạn Nguồn vốn thường xuyên Trong trường hợp này, nguồn vốn thường xuyên không đủ để tài trợ cho TSDH, phần thiếu hụt được bù đắp bằng một phần nguồn vốn tạm thời hay các khoản nợ ngắn hạn. Cân bằng tài chính trong trường hợp này là không tốt vì doanh nghiệp luôn chịu những áp lực về thanh toán nợ vay ngắn hạn. Doanh nghiệp cần phải có những điều chỉnh dài hạn để tạo ra một cân bằng mới theo hướng bền vững. Ngân quỹ ròng Ngân quỹ ròng = Vốn lƣu động ròng – Nhu cầu vốn lƣu động ròng Nếu ngân quỹ ròng > 0 tương đương với vốn lưu động ròng > nhu cầu vốn lưu động ròng. Doanh nghiệp đạt trạng thái cân bằng tài chính trong ngắn hạn và dài hạn, trong trường hợp này doanh nghiệp không phải vay để bù đắp sự thiếu hụt về nhu cầu vốn lưu động ròng, số tiền nhàn rỗi có thể đầu tư vào chứng khoán để sinh lời. Nếu ngân quỹ ròng = 0 đây là dấu hiệu mất cân bằng tài chính, toàn bộ các khoản vốn bằng tiền và đầu tư ngắn hạn được tài trợ bằng nguồn vay ngắn hạn, điều này có nghĩa vốn lưu động ròng vừa đủ để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động ròng. Nếu ngân quỹ ròng < 0 điều này chứng tỏ vốn lưu động ròng không đủ tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động ròng, hay ngân quỹ ròng là một số âm, doanh nghiệp mất cân bằng tài chính trong ngắn hạn. Cân bằng tài chính được xem là kém an toàn và bất lợi đối với doanh nghiệp. 1.4.4. Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh Doanh thu Doanh thu là một chỉ tiêu kinh tế rất quan trọng đối với các doanh nghiệp, nó là yếu tố xác định nên thị phần của doanh nghiệp trên thị trường. Do đó, các doanh nghiệp cùng kinh doanh một mặt hàng như nhau sẽ cạnh tranh với nhau rất mạnh từ việc có được doanh thu lớn. Vì vậy, các doanh nghiệp luôn đặt ra cho mình mục tiêu tối đa hóa doanh thu, và thực hiện nhiều chính sách để có thể tăng doanh thu trong một thời gian nhất định. 15 Các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như khối lượng sản phẩm tiêu thụ, chất lượng sản phẩm, kết cấu mặt hàng, giá bán sản phẩm, thị trường tiêu thụ và phương thức tiêu thụ, thanh toán tiền hàng. Khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Khối lượng sản phẩm sản xuất ra có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Sản phẩm sản xuất ra càng nhiều thì khả năng về doanh thu sẽ càng lớn. Khối lượng sản xuất và tiêu thụ còn phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp, tình hình tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm; việc ký kết hợp đồng tiêu thụ đối với khách hàng, việc giao hàng, vận chuyển và thanh toán tiền hàng. Chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ. Việc sản xuất kinh doanh gắn liền với việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ có ảnh hưởng lớn tới giá cả sản phẩm và dịch vụ, do đó có ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu. Ở các doanh nghiệp sản xuất, số sản phẩm được sản xuất ra có thể phân loại thành những phẩm cấp khác nhau như loại I, loại II, loại III... và đương nhiên, giá bán của mỗi loại cũng khác nhau. Sản phẩm có phẩm cấp cao giá bán sẽ cao hơn, vì vậy, chất lượng chính là giá trị được tạo thêm.Ở những doanh nghiệp nông nghiệp, thuỷ, hải sản, phần lớn sản phẩm là loại sản phẩm có tính chất tươi sống. Cùng một chi phí bỏ ra nhưng nếu biết tổ chức thu hoạch, chế biến, bảo quản kịp thời, khoa học thì có thể tăng được số lượng sản phẩm có chất lượng cao và giảm được số sản phẩm có chất lượng thấp, từ đó có thể tăng được doanh thu bán hàng. Kết cấu mặt hàng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ Mỗi doanh nghiệp có thể sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau, giá cả của chúng cũng khác nhau. Những sản phẩm có vai trò quan trọng, có tính chất chiến lược đối với nền kinh tế quốc dân, nhà nước sẽ định giá, còn lại căn cứ vào những chủ trương có tính chất hướng dẫn của nhà nước thì doanh nghiệp sẽ căn cứ vào tình hình cung cầu trên thị trường mà xây dựng giá bán sản phẩm. Ngoài ra còn các yếu tố như giá cả sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ, thị trường tiêu thụ và phương thức tiêu thụ, thanh toán tiền hàng. Chi phí Chi phí sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp để đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất trong quá trình kinh doanh. Cũng như chính bản thân doanh nghiệp hoạt động trên thị trường, chi phí sản xuất kinh 16 doanh chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau, trong đó có những nhân tố mang tính chất khách quan và những nhân tố mang tính chủ quan, các nhân tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng tác động tới chi phí. Các yếu tố ảnh hưởng tới chi phí Các chính sách của Nhà nước Đặc trưng của nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường có điều tiết của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là Nhà nước không đứng ngoài sự phát triển của nền kinh tế mà đóng vai trò là người hướng dẫn, kiểm soát và điểu tiết hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô thông qua các luật lệ, chính sách và các biện pháp kinh tế. Giá cả và cạnh tranh Nói đến thị trường, chúng ta không thể không đề cập đến hai nhân tố cơ bản là giá cả và sự cạnh tranh. Khi giá cả của nhiên liệu, nguyên liệu, vật liệu, dụng cụ, đồ dùng..., hay giá cả của các lao vụ thay đổi sẽ thay đổi chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu giá cả của những nguyên vật liệu, dụng cụ, dịch vụ... tăng lên thì chi phí sản xuất kinh doanh cũng sẽ tăng lên và ngược lại. Còn cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh một mặt thúc đẩy doanh nghiệp hạ thấp hao phí lao động cá biệt để tăng cao khả năng khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Mặt khác nó lại có tác động làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra còn các yếu tố như năng xuất lao động của con người và cơ sở vật chất kỹ thuật Lợi nhuận Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường điều đầu tiên mà họ quan tâm đó là lợi nhuận. Đây là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh hiệu quả của quá trình kinh doanh, đồng thời đó còn là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ tồn tại và hoạt động khi nó tạo ra lợi nhuận, nếu doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả thu không đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra thì doanh nghiệp đó đi đến chỗ phá sản. Từ trước đến nay nước ra có hàng loạt các xí nghiệp, doanh nghiệp phá sản hoặc giải thể do làm ăn không có hiệu quả, trong đó có cả xí nghiệp nhà nước, tư nhân ... Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt và khốc liệt vì vậy lợi nhuận là yếu tố cực kỳ quan trọng và có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp. Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận là tổng hợp các yếu tố ảnh hưởng đến doanh thu và chi phí. 17 1.4.5. Phân tích lưu chuyển tiền tệ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ bao gồm 3 phần chính: - Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh: Phần này cho các nhà đầu tư biết dòng tiền chảy ra và chảy vào doanh nghiệp qua hoạt động sản xuất kinh doanh chính của doanh nghiệp. (Nếu chỉ số này >0 cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đang mang lại mức tăng của tiền. Ngược lại, chỉ số này <0 cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra mức giảm của tiền). - Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư: Phần này cung cấp cho nhà đầu tư các thông tin về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp trong năm tài chính. Nó sẽ chỉ ra rằng doanh nghiệp có đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh hay không và mức đầu tư có phù hợp với tiềm lực của doanh nghiệp hay không. (Nếu chỉ số này >0 cho thấy hoạt động đầu tư đang mang lại mức tăng của tiền, điều này thể hiện công ty đang tập trung đầu tư ngắn hạn, thu được lợi nhuận ngay trong một kì kế toán. Ngược lại, chỉ số này <0 cho thấy hoạt động đầu tư tạo ra mức giảm của tiền, thể hiện công ty đang đầu tư dài hạn cho cơ sở hạ tầng, TSCĐ...). - Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính: Phần này cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin về các hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Những hoạt động này bao gồm các hoạt động ảnh hưởng đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Ví dụ như các hoạt động vay vốn, huy động vốn. (Nếu chỉ số này >0 cho thấy hoạt động tài chính đang mang lại mức tăng của tiền. Ngược lại, chỉ số này <0 cho thấy hoạt động tài chính tạo ra mức giảm của tiền. Chỉ tiêu này âm hay dương không hoàn toàn phụ thuộc vào quy mô của các hoạt động vay vốn và huy động vốn, mà còn phụ thuộc vào thời hạn của các hoạt động cho vay, và huy động vốn, trong một kì kế toán hay sang một kì khác ). Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ (còn gọi là phân tích ngân lưu) là công việc quan trọng, ngày càng chiếm nhiều công sức và thời gian của các nhà quản trị, các giám đốc tài chính. Mục đích của báo cáo lưu chuyển tiền tệ là cung cấp các thông tin thích hợp về các dòng tiền chi ra (outflows) và dòng tiền thu vào (inflows) trong các hoạt động của một doanh nghiệp trong một kỳ kế toán. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ đóng một vai trò quan trọng đối với cả những người sử dụng thông tin kế toán bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp. Phương trình cân đối của dòng tiền trong doanh nghiệp: Tiền tồn đầu kỳ + Tiền thu trong kỳ = Tiền chi trong kỳ + Tiền tồn cuối kỳ Trong hoạt động đầu tư khi phân tích và đánh giá một doanh nghiệp. Các nhà đầu tư thường quan tâm chú trọng đến các chỉ tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp và thường bỏ qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp. 18 Tuy nhiên, báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp lại là một kênh thông tin hết sức quan trọng cung cấp cho các nhà đầu tư bức tranh toàn cảnh về hoạt động của các doanh nghiệp và chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp đó. Các thông tin chính mà báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp cho nhà đầu tư bao gồm các thông tin sau: - Thông tin về các khoản tiền mặt mà doanh nghiệp đã nhận và đã chi ra trong năm tài chính. - Trong hoạt động kinh doanh có rất nhiều nghiệp vụ phát sinh về thanh toán, từ đó thể hiện được khả năng thanh toán của doanh nghiệp: thanh toán đúng hạn, khả năng thanh toán được gia tăng hay bị giảm đi, hệ số thanh toán cao hay thấp, đánh giá khả năng thanh toán nợ gốc và lãi, khả năng trả lãi tiền. - Đánh giá khả năng đầu tư bằng tiền nhàn rỗi qua việc doanh nghiệp mua cổ phiếu, trái phiếu, cho vay … trong kỳ kế toán. - Ngoài ra báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp cho các nhà đầu tư tìm ra các hướng giải quyết để tránh tình trạng thiếu tiền và do đó củng cố hoạt động tín dụng. Trong phân tích tài chính thì việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ là không thể bỏ qua và bước phân tích này sẽ giúp các nhà đầu tư hiểu rõ được giá trị doanh nghiệp. Nếu bỏ qua bước phân tích này các nhà đầu tư sẽ dễ dàng bị qua mặt bởi các báo cáo lợi nhuận tốt đẹp mà không hiểu được tính bền vững của các lợi nhuận này. 1.4.6. Phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính 1.4.6.1. Phân tích chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán Khả năng thanh toán ngắn hạn Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn Tài sản ngắn hạn = Tổng số nợ ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn được dùng để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn đến hạn trả. Hệ số này cho biết, bình quân một đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng bao nhiêu đồng tài sản ngắn hạn. Nợ ngắn hạn là những khoản nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán trong vòng một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Tài sản ngắn hạn bao gồm tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu ngắn hạn, hàng tồn kho, tài sản ngắn hạn khác. Nếu trị số của chỉ tiêu này xấp xỉ, lớn hơn hoặc bằng 1, doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là bình thường hoặc khả quan. Ngược lại, nếu chỉ số này < 1, 19 doanh nghiệp không bảo đảm đáp ứng được các khoản nợ ngắn hạn. Trị số của chỉ tiêu này càng nhỏ hơn 1, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng thấp. Theo thời gian, hệ số này có thể thay đổi. Nếu hệ số này tăng, thì đây là biểu hiện tốt của tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên nếu hệ số này quá cao chứng tỏ mức sử dụng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp thấp. Điều này sẽ khiến mức tiết kiệm từ lá chắn thuế doanh nghiệp có được không cao. Đồng thời, lợi nhuận của doanh nghiệp không được khuếch đại mạnh mẽ do doanh nghiệp không tận dụng được lợi thế của đòn bẩy tài chính. Hệ số khả năng thanh toán nhanh Hệ số thanh toán nhanh Tài sản ngắn hạn – hàng tồn kho = Tổng số nợ ngắn hạn Khả năng thanh toán của một doanh nghiệp được đo lường bằng mức độ thanh khoản của các loại tài sản; tính thanh khoản của một loại tài sản là khả năng nhanh chóng chuyển đổi thành tiền mà không làm giảm đáng kể giá trị của tài sản đó. Vì hàng tồn kho của doanh nghiệp ít nhất phải qua quá trình tiêu thụ mới có thể chuyển thành tiền, chưa nói là không tiêu thụ được, hàng ứ đọng kém phẩm chất, vì vậy tính thanh khoản của nó thấp. Để đánh giá khắt khe hơn về khả năng thanh toán của doanh nghiệp ta sử dụng tỷ số thanh khoản nhanh; tỷ số này cho biết bình quân một đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng bao nhiêu đồng tài sản ngắn hạn nhưng không bao gồm hàng tồn kho. Hệ số này ≥ 1 thì được đánh giá là an toàn vì công ty có thể trang trải các khoản nợ ngắn hạn mà không cần phải bán hàng tồn kho. Hệ số này càng cao thì càng được đánh giá tốt. Tuy nhiên giống như hệ số thanh toán nợ ngắn hạn, độ lớn của hệ số này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh và kỳ hạn thanh toán các món nợ trong kỳ. Hệ số khả năng thanh toán tức thời Hệ số thanh toán tức thời Tiền và các khoản tƣơng đƣơng tiền = Tổng số nợ ngắn hạn Hệ số này cho biết, với lượng tiền và tương đương tiền hiện có, doanh nghiệp có đủ khả năng trang trải các khoản nợ ngắn hạn, đặc biệt là nợ ngắn hạn đến hạn không. Do tính chất tiền và tương đương tiền nên khi xác định khả năng thanh toán tức thời, ta phải so sánh với các khoản nợ có thời hạn thanh toán trong vòng 3 tháng. Tỷ lệ này thường dao động từ 0,5 đến 1. Tuy nhiên, để kết luận giá trị của hệ số thanh toán tức thời là tốt hay xấu, có ảnh hưởng gì đến hoạt động của doanh nghiệp 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan