CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ
thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính của doanh nghiệp chủ yếu bao gồm:
Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước: Đây là mối quan hệ phát sinh khi
doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, khi Nhà nước góp vốn và
doanh nghiệp.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính: Quan hệ này được thể hiện
thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Trên thị trường tài chính,
doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn, có thể phát hành
cổ phiếu, trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn. Ngược lại, doanh nghiệp phải trả
lãi và vốn vay, trả lãi cổ phần cho các nhà tài trợ. Doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền
vào ngân hàng, đầu tư chứng khoán bằng số tiền tạm thời chưa sử dụng.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác: Trong nền kinh tế, doanh
nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp khác trên thị trường hàng hoá, dịch
vụ, thị trường sức lao đông. Đây là những thị trường mà tại đó doanh nghiệp tiến hành
mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm lao đông,…Điều quan trọng nhất là
thông qua thị trường, doanh ngiệp có thể xác định nhu cầu hàng hoá và dịch vụ cần
thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch
sản xuất, tiếp thị nhằm thoả mãn nhu cầu thị trường.
Quan hệ nội bộ doanh nghiệp: Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản xuất – kinh
doanh, giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa quyền sử dụng
vốn và quyền sở hữu vốn. Các mối quan hệ này được thực hiện thông qua hàng loạt
các chính sách của doanh nghiệp như: chính sách cổ tức (phân phối thu nhập), chính
sách đầu tư, chính sách về cơ cấu vốn, chi phí…
1.1.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tài chính doanh nghiệp
có các vai trò chủ yếu sau:
Đảm bảo huy động đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Để thực hiện mọi quá trình kinh doanh trước hết doanh nghiệp phải
có vốn kinh doanh. Vai trò của tài chính doanh nghiệp có thể được xác định đúng đắn
nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tiếp đó phải
lựa chọn các phương pháp và hình thức huy động vốn phù hợp, đáp ứng nhu cầu vốn
1
Thang Long University Library
để hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện một cách nhịp nhàng, liên tục với chi
phí huy động vốn thấp nhất.
Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. Việc tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và
hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Tài chính
doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư, chọn
ra dự án đầu tư tối ưu, lựa chọn và huy động nguồn vốn có lợi nhất cho hoạt động sản
xuất kinh doanh, bố trí cơ cấu vốn hợp lý, sử dụng các biện pháp để tăng nhanh vòng
quay của vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn kinh doanh.
Đòn bẩy kích thích và điều tiết kinh doanh. Vai trò của tài chính doanh nghiệp
được thể hiện ở việc tạo ra sức mua hợp lý để thu hút vốn đầu tư, lao động, vật tư, dịch
vụ, đồng thời xác định giá bán hợp lý khi tiêu thụ hàng hoá, cung cấp dịch vụ và thông
qua hoạt động phân phối thu nhập của doanh nghiệp, phân phối quỹ khen thưởng, quỹ
lương, thực hiện các hợp đồng kinh tế…
Giám sát kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tình hình
tài chính của doanh nghiệp là một tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu tài chính mà các nhà quảy lý
doanh nghiệp dễ dàng nhận thấy thực trạng kinh doanh của doanh nghiệp, phát hiện
kịp thời những vướng mắc, tồn tại để từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh các hoạt
động kinh doanh nhằm đạt tới mục tiêu đã định.
Vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động trước hết phụ
thuộc vào sự nhận thức và vận dụng các chức năng của tài chính, sau nữa còn phụ
thuộc vào môi trường kinh doanh, cơ chế tổ chức tài chính doanh nghiệp và các
nguyên tắc cần quán triệt trong mọi hoạt động của tài chính doanh nghiệp.
1.1.3. Khái niệm phân tích tài chính
Phân tích tài chính mà trọng tâm là phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu
đặc trưng tài chính thông qua một hệ thống các phương pháp, công cụ, kỹ thuật phân
tích, giúp người sử dụng thông tin, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp, khái quát, lại vừa
xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán,
dự báo và đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp.
Có rất nhiều đối tượng quan tâm và sử dụng thông tin kinh tế tài chính của
doanh nghiệp. Mỗi đối tượng lại quan tâm theo góc độ và mục tiêu khác nhau. Do nhu
cầu về thông tin tài chính doanh nghiệp rất đa dạng, đòi hỏi phân tích tài chính phải
được tiến hành bằng nhiều phương pháp khác nhau để từ đó đáp ứng nhu cầu của các
đối tượng quan tâm.
2
1.1.4. Ý nghĩa phân tích tài chính
Hoạt động tài chính có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh doanh.
Do đó tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều có ảnh hưởng đến tài chính của
doanh nghiệp. Ngược lại, tình hình tài chính tốt hay xấu đều có tác động thúc đẩy hoặc
kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, phân tích tình hình tài
chính có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân chủ doanh nghiệp và các đối tượng bên
ngoài có liên quan đến tài chính của doanh nghiệp.
Đối với nhà quản trị doanh nghiệp: Các hoạt động nghiên cứu tài chính trong
doanh nghiệp được gọi là phân tích tài chính nội bộ. Khác với phân tích tài chính bên
ngoài do nhà phân tích ngoài doanh nghiệp tiến hành. Do đó thông tin đầy đủ và hiểu
rõ về doanh nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp có nhiều lợi thế để
có thể phân tích tài chính tốt nhất. Vì vậy nhà quản trị doanh nghiệp còn phải quan tâm
đến nhiều mục tiêu khác nhau như tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao
chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, hạ chi phí thấp nhất và bảo vệ môi trường.
Doanh nghiệp chỉ có thể đạt được mục tiêu này khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi và
thanh toán được nợ. Như vậy hơn ai hết các nhà quản trị doanh nghiệp cần có đủ thông
tin nhằm thực hiện cân bằng tài chính, nhằm đánh giá tình hình tài chính đã qua để tiến
hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả nợ, rủi ro tài chính
của doanh nghiệp. Bên cạnh đó định hướng các quyết định của ban giám đốc tài chính,
quyết định đầu tư, tài trợ, phân tích lợi tức cổ phần.
Đối với các nhà đầu tư: Mối quan tâm của họ chủ yếu vào khả năng hoàn vốn,
mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn và sự rủi ro. Vì thế mà họ cần thông tin về điều
kiện tài chính, tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh và các tiềm năng của doanh
nghiệp. Các nhà đầu tư còn quan tâm đến việc điều hành hoạt động công tác quản lý.
Những điều đó tạo ra sự an toàn và hiệu quả cho các nhà đầu tư.
Đối với các nhà cho vay: Mối quan tâm của họ hướng đến khả năng trả nợ của
doanh nghiệp. Qua việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, họ đặc biệt chú
ý tới số lượng tiền và các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền nhanh để từ đó có thể so
sánh được và biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Giả sử chúng
ta đặt mình vào trường hợp là người cho vay thì điều đầu tiên chúng ta chú ý cũng sẽ
là số vốn chủ sở hữu, nếu như ta thấy không chắc chắn khoản cho vay của mình sẽ
đựoc thanh toán thì trong trường hợp doanh nghiệp đó gặp rủi ro sẽ không có số vốn
bảo hiểm cho họ. Đồng thời ta cũng quan tâm đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp
vì đó chính là cơ sở của việc hoàn trả vốn và lãi vay.
Đối với cơ quan nhà nước và người làm công: Đối với cơ quan quản lý nhà nước,
qua việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, sẽ đánh giá được năng lực lãnh
3
Thang Long University Library
đạo của ban giám đốc, từ đó đưa ra các quyết định đầu tư bổ sung vốn cho các doanh
nghiệp nhà nước nữa hay không. Bên cạnh các chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư... người
lao động có nhu cầu thông tin cơ bản giống họ bởi vì nó liên quan đến quyền lợi và
trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tương lai của họ.
1.2. Các phƣơng pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1. Phương pháp so sánh
Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện có thể so sánh
được của các chỉ tiêu tài chính: phải tồn tại ít nhất 2 chỉ tiêu và các chỉ tiêu phải đảm
bảo thống nhất về nội dung kinh tế, phương pháp tính toán, thời gian và đơn vị đo
lường. Gốc so sánh được chọn là gốc về mặt thời gian hoặc không gian (tuỳ thuộc vào
mục đích phân tích); đánh giá xu hướng và tốc độ phát triển thì gốc so sánh được xác
định là trị số của chỉ tiêu phân tích ở kỳ trước; đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ đặt ra thì gốc so sánh là trị số kế hoạch của chỉ tiêu phân tích; xác định vị trí
của doanh nghiệp thì gốc so sánh được xác định là giá trị trung bình của ngành hay chỉ
tiêu phân tích của đối thủ cạnh tranh. Kỳ phân tích được lựa chọn là kỳ báo cáo hoặc
kỳ kế hoạch. Giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, tương đối hoặc số
bình quân. Nội dung so sánh bao gồm:
So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng
thay đổi về tài chính của doanh nghiệp, thấy được tình hình tài chính được cải thiện
hay xấu đi như thế nào để có biện pháp khắc phục trong kỳ tới.
So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy rõ mức độ phấn đấu của
doanh nghiệp.
So sánh giữa số thực hiện kỳ này với mức trung bình của ngành để thấy tình hình
tài chính doanh nghiệp đang ở trong tình trạng tốt hay xấu, được hay chưa được so với
doanh nghiệp cùng ngành.
So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của từng tổng số ở mỗi bản báo cáo
và qua đó chỉ ra ý nghĩa tương đối của các loại các mục, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc so sánh.
So sánh theo chiều ngang để thấy được sự biến động cả về số tuyệt đối và số
tương đối của một khoản mục nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
1.2.2. Phương pháp phân tích tỷ lệ
Phương pháp này dựa trên các ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài
chính trong các quan hệ tài chính, về nguyên tắc, phương pháp này yêu cầu phải xác
định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh
nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu.
4
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các
nhóm tỷ lệ đặc trưng, phán ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động
của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, cơ cấu vốn, năng lực
hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời.
Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện được áp dụng ngày
càng được bổ sung và hoàn thiện hơn. Vì:
Nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và cung cấp đầy đủ hơn là cơ
sở để hình thành những tham chiếu tin cậy nhằm đánh giá một tỷ lệ của một doanh
nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp.
Việc áp dụng tin học cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá trình tính
toán hàng loạt các tỷ lệ.
Phương pháp này giúp các nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và
phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo
từng giai đoạn.
1.2.3. Phương pháp Dupont
Dupont là tên của một nhà quản trị tài chính người Pháp tham gia kinh doanh ở
Mỹ. Dupont đã chỉ ra được mối quan hệ tương hỗ giữa các chỉ số hoạt động trên
phương diện chi phí và các chỉ số hiệu quả sử dụng vốn.
Phân tích Dupont là kỹ thuật phân tích bằng cách chia tỷ lệ ROA và ROE thành
những bộ phận có liên hệ với nhau để đánh giá tác động của từng bộ phận lên kết quả
sau cùng. Kỹ thuật này thường được sử dụng bởi các nhà quản lý trong nội bộ công ty
để có cái nhìn cụ thể và ra quyết định xem nên cải thiện tình hình tài chính công ty
bằng cách nào. Kỹ thuật Dupont dựa vào hai phương trình căn bản dưới đây. Gọi
chung là phương trình Dupont:
ROA
=
Lãi gộp
x
Vòng quay tổng tài sản
Lợi nhuận ròng
ROA
=
ROE
=
Doanh thu
Lãi gộp
Doanh thu
x
x
Lợi nhuận ròng
ROE
=
Vòng quay
tổng tài sản
x
Tổng tài sản
Hiệu suất sử dụng
vốn cổ phần
Tổng tài sản
Doanh thu
x
Doanh thu
Tổng tài sản
x
Vốn cổ phần thường
5
Thang Long University Library
Phương trình Dupont có tác dụng:
Cho thấy mối quan hệ và tác động của các nhân tố là các chỉ tiêu hiệu quả sử
dụng tài sản (vốn).
Cho phép phân tích lượng hóa những nhân tố ảnh hưởng đến suất sinh lời của
vốn chủ sở hữu bằng các phương pháp loại trừ (thay thế liên hoàn hoặc số chênh lệch).
Giúp đưa ra các quyết định phù hợp và hiệu quả căn cứ trên mức độ tác động
khác nhau của từng nhân tố khác nhau để làm tăng suất sinh lời.
1.2.4. Phương pháp thay thế
Phương pháp thay thế là phương pháp xác định ảnh hưởng của từng nhân tố bằng
cách thay thế lần lượt và liên tiếp các nhân tố từ giá trị kỳ gốc sang kỳ phân tích để xác
định trị số của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi. Sau đó, so sánh trị số của chỉ tiêu vừa
tính được với trị số của chỉ tiêu chưa có biến đổi của nhân tố cần xác định sẽ tính được
mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó. Đặc điểm và điều kiện áp dụng phương pháp thay
thế liên hoàn như sau:
Xác định chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu;
Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu;
Mối quan hệ giữa chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu với các nhân tố ảnh
hưởng thể hiện dưới dạng tích số hoặc thương số;
Sắp xếp các nhân tố ảnh hưởng và xác định ảnh hưởng của chúng đến chỉ tiêu
phản ánh đối tượng nghiên cứu theo thứ tự nhân tố số lượng được xác định trước rồi
mới đến nhân tố chất lượng; trường hợp có nhiều nhân tố số lượng hoặc nhiều nhân tố
chất lượng thì xác định nhân tố chủ yếu trước rối mới đến nhân tố thứ yếu sau;
Thay thế giá trị của từng nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng
nghiên cứu một cách lần lượt. Cần lưu ý là có bao nhiêu nhân tố thì thay thế bấy nhiêu
lần và nhân tố nào đã thay thế thì được giữ nguyên giá trị đã thay thế (kỳ phân tích)
cho đến lần thay thế cuối cùng;
Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố và so với số biến động tuyệt đối của chỉ
tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc.
Phương pháp thay thế liên hoàn có thể được khái quát như sau:
Chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu là Q và Q chịu ảnh hưởng của các nhân
tố a, b, c, d. Các nhân tố này có quan hệ với Q và được sắp xếp theo thứ tự từ nhân tố
số lượng sang nhân tố chất lượng, chẳng hạn Q = abcd. Nếu dùng chỉ số 0 để chỉ giá trị
của các nhân tố ở kỳ gốc và chỉ số 1 để chỉ giá trị của các nhân tố ở kỳ phân tích thì Q1
=a1b1c1d1 và Q0 = a0b0c0d0. Gọi ảnh hưởng của các nhân tố a, b, c, d đến sự biến động
6
giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc của chỉ tiêu Q (ký hiệu là Δ Q) lần lượt là Δ a, Δ b, Δ c,
Δ d, ta có:
Δ Q = Q1 - Q0 = Δ a + Δ b + Δ c + Δ d.
Trong đó:
Δ a = (a1- a0)b0c0d0
Δ b = (b1 - b0)a1c0d0
Δ c = (c1 - c0)a1b1d0
Δ d = (d1 - d0)a1b1c1
1.3. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính
1.3.1. Thông tin kế toán
1.3.1.1. Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một bảng báo cáo tài chính được lập vào một thời điểm
nhất định trong năm (thường vào ngày 31 tháng 12) theo hai phần cân đối với nhau:
phần tài sản và phần nguồn vốn. Phần tài sản giúp ta có thể đánh giá khái quát quy mô,
năng lực kinh doanh và khả năng đầu tư tài sản của công ty. Phần nguồn vốn giúp ta
thấy được tỷ lệ kết cấu của từng loại vốn trong tổng nguồn vốn hiện có, từ đó, đánh giá
khả năng độc lập tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán có ý
nghĩa rất quan trọng đối với nhiều đối tượng có quan hệ sở hữu, quản lý kinh tế tài
chính trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.1.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một báo cáo tài chính tổng hợp phản
ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm của doanh nghiệp. Bao gồm
doanh thu bán hàng và các khoản chi phí của công ty trong thời gian hạch toán.
Thông qua các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh ta có thể kiểm
tra, phân tích tình hình doanh thu, chi phí, lợi nhuận, tình hình tiêu thụ sản phẩm của
một kỳ kế toán. Trên thực tế báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh được đánh giá cao
hơn bảng cân đối kế toán trong việc kiểm soát các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Số
liệu trên bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cung cấp những thông tin tổng
hợp nhất về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động và kỹ thuật,
kinh nghiệm quản lý của một doanh nghiệp.
1.3.1.3. Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hệ thống báo cáo tài chính của
doanh nghiệp được lập để bổ sung chi tiết cho các báo cáo tài chính về đặc điểm hoạt
động, chế độ kế toán áp dụng, giải thích một số vấn đề về hoạt động sản xuất kinh
doanh và tình hình sản xuất của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo, phân tích một số chỉ
7
Thang Long University Library
tiêu tài chính chủ yếu, đồng thời khắc phục tính tổng hợp của số liệu thể hiện trên bảng
cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
1.3.2. Các nguồn thông tin khác
Thông tin liên quan đến tình hình kinh tế: Hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp chịu tác động bởi nhiều nhân tố thuộc môi trường vĩ mô nên phân tích tài chính
cần đặt trong bối cảnh chung của nền kinh tế trong nước và nền kinh tế trong khu vực.
Kết hợp những thông tin này để đánh giá đầy đủ hơn tình hình tài chính và những dự
báo nguy cơ, cơ hội đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Thông tin theo nghành: ngoài những thông tin về môi trường vĩ mô, những thông
tin liên quan đến nghành, liên quan đến lĩnh vực kinh doanh cũng được chú trọng. Đó
là: mức độ và yêu cầu công nghệ của nghành; mức độ cạnh tranh và quy mô của thị
trường; nhịp độ và xu hướng của nghành… Những thông tin này sẽ làm rõ nội dung
của các chỉ tiêu tài chính trong từng nghành, lĩnh vực kinh doanh, đánh giá rủi ro kinh
doanh của doanh nghiệp.
Thông tin về đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp: Do mỗi doanh nghiệp có
những đặc điểm riêng trong tổ chức sản xuất kinh doanh và trong phương hướng hoạt
động nên để đánh giá hợp lý tình hình tài chính, nhà phân tích cần nghiên cứu kĩ lưỡng
đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp.
1.4. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
1.4.1. Phân tích kết quả kinh doanh
Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh là tiến hành đánh giá chung báo cáo kết
quả kinh doanh (BCKQK), sau đó đi sâu phân tích chỉ tiêu doanh thu, chi phí, lợi
nhuận. Thông qua các chỉ tiêu trên BCKQK có thể kiểm tra, phân tích, đánh giá tình
hình thực hiện kế hoạch, dự toán chi phí sản xuất, giá vốn, doanh thu sản phẩm, hàng
hóa đã tiêu thụ, tình hình chi phí, thu nhập của hoạt động khác và kết quả kinh doanh
sau một kỳ kế toán. Đồng thời kiểm tra tình hình thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của
doanh nghiệp đối với nhà nước, đánh giá xu hướng phát triển của doanh nghiệp qua
các kỳ khác nhau.
1.4.1.1. Doanh thu
Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, các nhà quản lý
luôn quan tâm đến việc tăng doanh thu, do vậy phân tích tình hình biến động doanh
thu sẽ giúp họ có cái nhìn toàn diện về tình hình doanh thu của doanh nghiệp. Khi
phân tích doanh thu có thể phân loại như sau:
Doanh thu bán hàng: Doanh thu bán hàng là tổng giá trị sản phẩm, hàng hóa,
dịch vụ mà doanh nghiệp đã bán ra trong kỳ.
8
Doanh thu thuần: Doanh thu thuần bằng doanh thu bán hàng trừ các khoản giảm
trừ, chỉ tiêu này phản ánh thuần giá trị hàng bán của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo.
Doanh thu từ hoạt động tài chính: là các khoản phải thu từ các hoạt động liên
doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, cho thuê tài sản, lãi tiền gửi, lãi tiền cho vay, thu từ
hoạt động mua bán chứng khoán...
Sau đó, ta lần lượt tiến hành phân tích tình hình doanh thu giữa thực tế so với kế
hoạch hay mức tiêu thụ của năm sau so với năm trước. Từ những giá trị đạt được qua
các năm, ta sẽ tính được sự chênh lệch về giá trị cũng như tính được tỷ lệ tương đối về
giá trị đạt được của năm sau so với năm trước. Qua đó mà ta thấy được mức độ hoàn
thành kế hoạch của các mặt hàng. Những con số này sẽ là cơ sở để chúng ta đưa ra
quyết định cho việc nên tăng hay giảm tiêu thụ mặt hàng nào là mang lại hiệu quả cao
nhất. Chúng ta thường áp dụng phương pháp so sánh trong việc phân tích.
1.4.1.2. Chi phí
Đối với nhừng người quản lý thì các chi phí là mối quan tâm hàng đầu, bởi vì lợi
nhuận thu được nhiều hay ít chịu ảnh hưởng trực tiếp của những chi phí đã chi ra. Do
đó, vấn đề được đặt ra là làm sao kiêm soát được các khoản chi phí. Khi phân tích chi
phí ta đi xem xét sự tăng, giảm về giá trị và tỷ trọng của các loại chi phí sau:
Giá vốn hàng bán: là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để
hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định.
Chi phí bán hàng: Gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ, tiền lương, các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên bán hàng, tiếp
thị, đóng gói sản phẩm, bảo quản, khấu hao TSCĐ, bao bì, chi phí vật liệu, chi phí mua
ngoài, chi phí bảo quản, quảng cáo...
Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là những chi phí chi ra có liên quan đến việc tổ
chức, quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Chi phí quản lý gồm nhiều
loại: chi phí nhân viên quản lý, chi phí vật liệu, dụng cụ, khấu hao. Đây là những
khoản chi phí mang tính chất cố định, nên có khoản chi nào tăng lên so với kế hoạch là
điều không bình thường, cần xem xét nguyên nhân cụ thể.
1.4.1.3. Lợi nhuận
Lợi nhuận là một khoản thu nhập thuần túy của doanh nghiệp sau khi đã khấu trừ
mọi chi phí. Nói cách khác lợi nhuận là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu bán
hàng và cung cấp dịch vụ trừ đi các khoản giảm trừ, giá vốn hàng bán, chi phí hoạt
động, thuế. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều xoay quanh mục tiêu lợi nhuận,
hướng đến lợi nhuận và tất cả vì lợi nhuận. Lợi nhuận của doanh nghiệp gồm có:
9
Thang Long University Library
Lợi nhuận gộp: là lợi nhuận thu đuợc của công ty sau khi lấy tổng doanh thu trừ
đi các khoản giảm trừ nhu giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc
biệt, thuế xuất khẩu và giá vốn hàng bán.
Lợi nhuận thuần: là lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh thuần của doanh
nghiệp. Chỉ tiêu này phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong
kỳ báo cáo. Chỉ tiêu này được tính toán dựa trên cơ sở lợi nhuận gộp từ doanh thu bán
hàng và cung cấp dịch vụ trừ chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp phân
bổ cho hàng hóa, dịch vụ đã cung cấp trong kỳ báo cáo.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: phản ánh hiệu quả của hoạt động tài chính của
doanh nghiệp. Chỉ tiêu này được tính bằng cách lấy thu nhập hoạt động tài chính trừ đi
các chi phí phát sinh từ hoạt động này. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính bao gồm: Lợi
nhuận từ hoạt động góp vốn liên doanh; đầu tư, mua bán chứng khoán ngắn hạn, dài
hạn; cho thuê tài sản…
Lợi nhuận khác: là những khoản lợi nhuận doanh nghiệp không dự tính trước
hoặc có dự tính trước nhưng ít có khả năng xảy ra. Bao gồm: thu về nhượng bán,
thanh lý tài sản cố định; tiền phạt vi phạm hợp đồng; các khoản thu nhập kinh
doanh của những năm trước bị bỏ sót hay lãng quên ghi sổ kế toán năm nay mới
phát hiện ra...Các khoản thu trên sau khi trừ đi các khoản tổn thất có liên quan sẽ là
lợi nhuận khác.
Khi phân tích lợi nhuận ta đi so sánh lợi nhuận giữa thực hiện với các kỳ kinh
doanh trước nhằm đánh giá tốc độ tăng trưởng về lợi nhuận của doanh nghiệp; Phân
tích sự ảnh hưởng của từng nhân tố: khối lượng sản phẩm tiêu thụ, giá vốn hàng
bán, giá bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp… đến sự tăng giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp;Trên cơ sớ đánh giá, phân tích cần xác định đúng đắn
những nhân tố ảnh hưởng và kiến nghị những biện pháp nhằm không ngừng nâng
cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.
1.4.2. Phân tích tình hình Tài sản – Nguồn vốn
1.4.2.1. Phân tích quy mô, cơ cấu Tài sản
Phân tích tình hình Tài sản là so sánh tình hình biến động kỳ này so với kỳ trước
của các bộ phận tài sản cấu thành nên tổng tài sản của doanh nghiệp nhằm đánh giá
được sự tăng giảm của các yếu tố trong tổng tài sản để xét xem sự biến động đó của tài
sản là tốt hay xấu trên cơ sở đó có thể đề ra những biện pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng tài sản của doanh nghiệp. Từ thông tin trên bảng cân đối kế toán của doanh
nghiệp, ta tiến hành: So sánh tổng tài sản giữa đầu năm và cuối năm để đánh giá sự
biến động về quy mô của doanh nghiệp. So sánh giá trị và tỷ trọng các bộ phận cấu
10
thành tài sản giữa đầu năm và cuối năm để thấy được nguyên nhân ban đầu ảnh hưởng
đến tình hình trên.
Sự biến động của tài sản ngắn hạn:
Tiền và các khoản tương đương tiền của doanh nghiệp càng cao chứng tỏ dự trữ
tiền của doanh nghiệp càng nhiều. Song, giá trị này cũng chỉ đảm bảo ở mức độ vừa
phải, nếu quá cao thì biểu hiện tiền của doanh nghiệp nhàn rỗi càng nhiều, vốn không
được huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp.
Nếu giá trị này quá thấp thì cũng gây khó khăn lớn cho quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, thậm chí không đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp được liên tục, không đáp ứng đủ nhu cần thanh toán.
Các khoản phải thu ngắn hạn: Gồm phải thu của khách hàng, trả tiền trước cho
người bán. Giá trị này càng cao, chứng tỏ doanh nghiệp bị các đơn vị khác chiếm dụng
vốn càng nhiều. Nếu các khoản phải thu giảm, đây là một biểu hiện tốt. Tuy nhiên, cần
chú ý rằng không phải lúc nào các khoản phải thu tăng lên là đánh giá không tích cực,
mà còn phải chú ý đến trường hợp doanh nghiệp mở rộng các mối quan hệ kinh tế thì
khoản này tăng lên là điều tất yếu. Vì vậy, ta phải xem xét số vốn bị chiếm dụng có
hợp lý không?
Hàng tồn kho: Giá trị này càng cao, chứng tỏ hàng tồn kho của doanh nghiệp
càng lớn. Nếu hàng tồn kho tăng lên do quy mô sản xuất mở rộng, nhiệm vụ sản xuất
tăng lên trong trường hợp thực hiện tất cả các định mức dự trữ thì được đánh giá là tốt.
Nhưng nếu hàng tồn kho tăng lên do dự trữ vật tư quá mức, sản phẩm dở dang, thành
phẩm tồn kho quá nhiều, thì đây là biểu hiện xấu. Ngược lại, nếu hàng tồn kho giảm
do giảm định mức dự trữ vật tư, sản phẩm dở dang, thành phẩm bằng các biện pháp
như tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, tìm nguồn cung cấp hợp lý nhưng vẫn đảm bảo sản
xuất kinh doanh thì đây là biểu hiện tốt. Còn nếu hàng tồn kho giảm do thiếu vốn để
dự trữ vật tư, hàng hoá,... thì đây là biểu hiện không tốt.
Sự biến động của tài sản dài hạn:
Tài sản cố định: Xu hướng chung của quá trình sản xuất kinh doanh là tài sản cố
định phải tăng về số tuyệt đối lẫn tỷ trọng, vì điều này biểu hiện quy mô sản xuất, cơ
sở vật chất kỹ thuật phát triển, trình độ tổ chức sản xuất cao. Tuy nhiên, không phải
lúc nào tài sản cố định tăng lên đều đánh giá tích cực, có trường hợp đầu tư xây dựng
nhà xưởng, máy móc, thiết bị quá nhiều nhưng thiếu nguyên vật liệu sản xuất, hoặc
11
Thang Long University Library
đầu tư nhiều nhưng không sản xuất đo sản phẩm không tiêu thụ được,... thì đây là biểu
hiện không tốt.
Đầu tư tài chính dài hạn: giá trị đầu tư tài chính dài hạn có thể tăng lên do doanh
nghiệp mở rộng đầu tư ra bên ngoài, mở rộng liên doanh, liên kết. Để đánh giá sự hợp
lý của quá trình phát triển thì doanh nghiệp cần xem xét tính hiệu quả đầu tư.
Chi phí xây dựng cơ bản: Nếu chi phí xây dựng cơ bản tăng lên do doanh nghiệp
đầu tư thêm và tiến hành sửa chữa lớn tài sản cố định thì đây là biểu hiện tốt nhằm tăng
cường năng lực hoạt động của máy móc, thiết bị. Ngược lại, nếu chi phí cơ bản tăng do
tiến độ thi công công trình kéo dài, gây lãng phí vốn đầu tư thì đây là biểu hiện xấu.
Ký cược, ký quỹ dài hạn: Giá trị khoản ký quỹ, ký cược phát sinh nhằm đảm bảo
các cam kết hoặc các dịch vụ liên quan đến sản xuất kinh doanh được thực hiện đúng
hợp đồng. Sự biến động các khoản này có thể do thu hồi các khoản ký quỹ, ký cược
hết hạn hoặc thực hiện thêm khoản ký quỹ mới.
Ngoài việc xem xét sự biến động của tài sản, khi đánh giá khái quát về tình hình
tài sản cũng cần chú ý đến về giá trị, về sự thay đổi của cơ cấu tài sản. Tỷ trọng của
từng loại tài sản được xác định như sau:
Tổng tài sản loại i
Tỷ trọng loại tài sản loại i
=
x 100%
Tổng tài sản
Trong đó tài sản loại I trong công thức trên thuộc mục Tài sản trong bảng cân đối
kế toán: tiền, các khoản phải thu, đầu tư tài chính, hàng tồn kho…Khi phân tích cần
chú ý 2 chỉ tiêu cơ bản sau:
Tỷ lệ tài sản dài hạn/Tổng tài sản =
Tỷ lệ tài sản ngắn/Tổng tài sản
=
Tổng tài sản dài hạn
Tổng tài sản
Tổng tài sản ngắn hạn
Tổng tài sản
Hai chỉ tiêu này thể hiện cơ cấu tổng quát trong tài sản của doanh nghiệp. Thể
hiện tính cân đối giữa tài sản ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp. Không có một tỷ
lệ chuẩn nào cho các doanh nghiệp mà còn tuỳ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, thời
kỳ kinh doanh và chiến lược kinh doanh mà độ lớn của các chỉ tiêu này khác nhau. Cơ
cấu tài sản chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của đặc điểm ngành nghề kinh doanh. Ngay cả
trong cùng một ngành, cơ cấu tài sản của các doanh nghiệp cũng có nhiều sự khác biệt
do chiến lược kinh doanh và thời kỳ phát triển khác nhau.
12
1.4.2.2. Phân tích quy mô, cơ cấu Nguồn vốn
Đối với mỗi doanh nghiệp, cấu trúc nguồn vốn thể hiện chính sách tài trợ của
Doanh nghiệp, liên quan đến nhiều khía cạnh khác trong công tác quản trị tài chính.
Nguồn vốn bao gồm vốn vay nợ và vốn chủ sở hữu. Vốn vay nợ là phần mà doanh
nghiệp đi chiếm dụng của đơn vị, doanh nghiệp khác và có trách nhiệm phải thanh toán
cho chủ nợ số nợ gốc và các khoản chi phí sử dụng vốn theo thời hạn quy định. Nguợc
lại, doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán đối với nguời góp vốn với tư cách là
chủ sở hữu. Như vậy nguồn vay nợ là phần phụ thuộc của doanh nghiệp vào bên ngoài
còn nguồn vốn chủ là phần tài trợ của người chủ sở hữu đối với toàn bộ tài sản.
Phân tích tính tự chủ về tài chính của doanh nghiệp: Tính tự chủ về tài chính
của doanh nghiệp phản ánh năng lực vốn có của nguời chủ trong tài trợ cho hoạt động
kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp. Cụ thể, khi phân tích ta sử dụng những chỉ
tiêu sau:
Hệ số nợ: Hệ số này phản ánh trong 100 đồng kinh doanh bình quân mà DN đang
sử dụng có mấy đồng được hình thành từ các khoản nợ. Nợ phải trả bao gồm nợ ngắn
hạn, nợ dài hạn và nợ khác.
Tổng nợ phải trả
Tổng nguồn vốn
Hệ số nợ =
Hệ số nợ càng cao thể hiện mức độ phụ thuộc của DN vào chủ nợ càng lớn và
khả năng huy động, tiếp nhận các khoản nợ vay sẽ khó khăn hon khi DN hoạt động
không hiệu quả, không có khả năng thnah toán kịp thời cho các khoản nợ. Tuy nhiên
sử dụng nhiều vốn vay nợ sẽ tiết kiệm được chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Hệ số tài trợ: phản ánh khả năng tự chủ của doanh nghiệp
Hệ số tài trợ
=
Tổng vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
Hệ số tài trợ = 1 - Hệ số nợ
Hệ số này càng lớn chứng tỏ tính độc lập về tài chính càng cao. Đối với các chủ
nợ, họ thuờng dễ dàng cấp tín dụng cho những doanh nghiệp có hệ số tài trợ cao (các
điều kiện khác không đồi) vì khi đó khả năng thu hồi nợ là lớn. Nhưng đối với các
doanh nghiệp thì việc sử dụng nợ lại làm tăng hiệu quả kinh doanh nhiều hơn so với
vốn chủ. Như vậy cần phải cân đối giữa hai hệ số này sao cho hợp lý và thích hợp nhất
đối với cụ thể từng doanh nghiêp.
Phân tích tính ổn định của nguồn tài trợ: Sự ổn định về nguồn tài trợ là mối
quan tâm khi đánh giá cấu trúc nguồn vốn của các doanh nghiệp. Để xem xét tính ổn
định của nguồn tài trợ, cần xem xét đến nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn.
Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp được sử dụng thường xuyên, lâu
13
Thang Long University Library
dài vào hoạt động kinh doanh (có thời gian sử dụng trên 1 năm) bao gồm nguồn vốn
chủ sở hữu và các khoản vay trung và dài hạn của doanh nghiệp. Nguồn vốn ngắn hạn
là nguồn vốn mà DN sử dụng trong khoảng thời gian dưới 1 năm, bao gồm các khoản
phải trả tạm thời, nợ người bán, các khoản vay ngắn hạn ngân hàng...Đây là nguồn vốn
có thời hạn tín dụng ngắn, nên doanh nghiệp luôn phải đối mặt với áp lực thanh toán
khi sử dụng nguồn vốn này. Để tiến hành phân tích tính ổn định của nguồn tài trợ ta
thường sử dụng các chỉ tiêu cơ bản sau:
Tỷ lệ vốn dài hạn/Tổng nguồn vốn:
Tỷ lệ vốn dài hạn/Tổng nguồn vốn
=
Tổng vốn dài hạn
Tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ nguồn tài trợ của doanh nghiệp ổn định trong thời
gian dài và doanh nghiệp không phải chịu áp lực thanh toán nguồn tài trợ này trong
ngắn hạn. Doanh nghiệp có thể dùng nguồn vốn này để đầu tư vào các tài sản dài hạn,
các dự án kinh doanh cần nhiều thời gian mới thu hồi được vốn.
Tỷ lệ vay ngắn hạn/Tổng nguồn vốn:
Tỷ lệ vay ngắn hạn/Tổng nguồn vốn
=
Tổng vay ngắn hạn
Tổng nguồn vốn
Ngược lại với chỉ tiêu trên, tỷ lệ vay ngắn hạn/tổng nguồn vốn càng cao càng thể
hiện sự mất ổng định về nguồn tài trợ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng quá
nhiều nợ ngắn hạn cho hoạt động sản xuất kinh doanh nên luôn phải đối mặt với áp lực
thanh toán khiến rủi ro hoạt động cao.
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/vốn dài hạn:
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/vốn dài hạn
=
Tổng vốn chủ sở hữu
Tổng vốn dài hạn
Chỉ tiêu này thể hiện trong 100 đồng nguồn vốn dài hạn thì được tài trợ bởi bao
nhiêu đồng vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ năng lực tự chủ về tài
chính của doanh nghiệp càng tốt.
1.4.2.3. Phân tích cân bằng Tài sản – Nguồn vốn
Phân tích cân bằng Tài sản – Nguồn vốn trong ngắn hạn
Cân bằng tài chính trong ngắn hạn thể hiện qua chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động
ròng. Nhu cầu vốn lưu động phải được dự kiến trước trong các kế hoạch kinh tế, kỹ
thuật, tài chính cho doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp đều có nhiệm vụ tổ chức huy
động nguồn vốn luu động sao cho đủ để dự trữ TSNH, đáp ứng nhu cầu của quá trình
hoạt động kinh doanh và tiết kiệm vốn. Trogn trường hợp doanh nghiệp không tự- đáp
ứng được nhu cầu về vốn, doanh nghiệp có thể vay ngân hàng hoặc các đối tượng khác
để bổ sung vào vốn lưu động của mình. Mặt khác, doanh nghiệp cần có những biện
14
pháp hữu hiệu để sử dụng có hiệu quả và đảm bảo hiệu quả các nguồn vốn, tiến hành
phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn vốn hiện có nhàn đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu
cầu vốn kinh doanh của DN.
Chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động ròng được tính như sau:
Nhu cầu vốn lƣu động ròng (NCVLĐR) = Hàng tồn kho + Nợ phải thu Nợ ngắn hạn (không kể vay ngắn hạn)
NCVLĐR < 0: Tức là hàng tồn kho và các khoản phải thu ngắn hạn nhỏ hơn nợ
ngắn hạn. Đây là một tình trạng rất tốt đối với doanh nghiệp, với ý nghĩa là doanh
nghiệp được các chủ nợ ngắn hạn cung cấp vốn cần thiết cho chu kỳ sản xuất kinh
doanh. Vì vậy, đa số các doanh nghiệp đều muốn nhu cầu vốn lưu động ròng âm.
NCVLĐR > 0: Điều này cho thấy nợ ngắn hạn không kể vay ngắn hạn không đủ
để tài trợ cho hàng tồn kho và khoản phải thu. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải huy động
các nguồn vay khác từ bên ngoài như ngân hàng, tổ chức tín dụng để tài trợ cho phần
chênh lệch này.
Mục tiêu mà các nhà quản trị hướng tới là làm sao để giảm NCVLĐR đến mức
tối thiểu. Muốn như vậy cần phải đạt được đồng thời: Duy trì một mức tồn kho tối
thiểu mà không gây gián đoạn quá trình sản xuất, thu ngắn tối đa chu kỳ sản xuất,
chính sách thương mại, công tác thu hồi nợ khách hàng phải được phát huy tốt nhất.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng phải cố gắng tìm kiếm các nguồn vốn tài trợ từ bên ngoài
như nợ nhà cung cấp, yêu cầu khách hàng ứng tiền trước ...
Phân tích cân bằng Tài sản – Nguồn vốn trong dài hạn
Cân bằng tài chính được duy trì bằng sự bù đắp các luồng tiền (tương ứng với
khấu hao tài sản cố định) với các khoản trả nợ (vốn và lãi) hàng năm. Tính ổn định
của tài sản cũng như nguồn vốn không những đảm bảo bàng sự cân bằng nhất thời
mà còn duy trì được sự cân bằng về dài hạn. Phần trội của tổng nguồn vốn dài hạn so
với tổng tài sản cố định được gọi là vốn lưu động, tạo thành một biên an toàn cho cân
bằng tài chính.
Tuy nhiên khả năng tài trợ cho TSDH chưa đủ để đảm bảo cho cân bằng tài chính.
Các TSNH khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh cũng làm một phần nguồn
vốn trở nên bất động nằm trong giá trị hàng tồn kho và các khoản phải thu. Chênh lệch
của tổng các khoản này với tổng các khoản phải trả tạo thành nhu cầu về vốn lưu động,
luôn thay đổi theo nhịp độ sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp chỉ có được cân bằng
tài chính khi vốn lưu động đủ khả năng bù đắp cho nhu cầu này.
Nhằm đánh giá cân bằng tài chính trong ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp
ta đi phân tích các chỉ tiêu vốn lưu động ròng (VLĐR), nhu cầu vốn lưu động ròng
(NCVLĐR) và ngân quỹ ròng (NOR). Trong đó: Vốn lưu động ròng là khái niệm
15
Thang Long University Library
phản ánh khoản chênh lệch giữa các nguồn vốn và tài sản có cùng tính chất và thời
gian sử dụng.
Nguyên tắc cơ bản của quản lý tài chính là doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn
dài hạn để hình thành tài sản dài hạn, dùng nguồn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản ngắn
hạn. Điều đó đảm bảo ràng các tài sản dài hạn sẽ được sử dụng trong thời hạn dài mà
không phải chịu áp lực về thanh toán cho nguồn hình thành. Cách tài trợ này giúp
doanh nghiệp có được sự ổn định, an toàn về mặt tài chính. Có hai phương pháp tính
VLĐR của doanh nghiệp:
Vốn lƣu động ròng = Tài sản ngắn hạn - Nguồn vốn ngắn hạn
Công thức này thể hiện cách thức sử dụng nguồn vốn lưu động ròng của doanh
nghiệp đê tài trợ cho các khoản nợ ngắn hạn như khoản phải thu, hàng tồn kho hay các
khoản có tính thanh khoản cao của doanh nghiệp.
Vốn lƣu động ròng = Nguồn vốn dài hạn - Tài sản dài hạn
Theo công thức này, VLĐR thể hiện cân bằng giữa nguồn vốn ổn định với những
tài sản có thời gian chu chuyển trên một chu kỳ kinh doanh hoặc trên 1 năm. Nó phản
ánh nguồn gốc vốn lưu động ròng. Có nghĩa là sau khi đã tài trợ đủ cho TSDH thì
phần dôi ra đó chính là VLĐ ròng. Cách tính này thể hiện phương thức tài trợ TSDH
và đồng thời phản ánh tác động của việc đầu tư lên cân bằng tài chính tổng thể.
Vốn lưu động ròng là một chỉ tiêu quan trọng đê đánh giá cân bằng tài chính của
doanh nghiệp. Điều này được thể hiện qua các trường hợp sau:
Trường hợp 1: Vốn lưu động ròng = Nguồn vốn dài hạn - Tài sản dài hạn < 0
Trong trường hợp này, nguồn vốn thường xuyên không đủ để tài trợ cho tài sản
dài hạn, phần thiếu hụt này được bù đắp bằng một phần nguồn vốn tạm thời. Do tài sản
dài hạn có thời gian thu hồi chậm trong khi đó nguồn vốn tạm thời doanh nghiệp phải
thanh toán trong năm do đó khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp kém.
Cân bằng tài chính trong trương hợp này là không tốt.
Trường hợp 2: Vốn lưu động ròng = Nguồn vốn dài hạn - Tài sản dài hạn = 0
Trong trương hợp này, toàn bộ tài sản dài hạn được tài trợ vừa đủ từ nguồn vốn
thường xuyên. Cân bằng tài chính tuy có tiến triển và bền vững hơn trường hợp 1
nhưng độ an toàn chưa cao có nguy cơ mất bền vững.
Trường hợp 3: Vốn lưu động ròng = Nguồn vốn dài hạn - Tài sản dài hạn > 0
Trong trường hợp này, nguồn vốn thường xuyên không chỉ đủ để tài trợ cho tài
sản dài hạn mà còn sử dụng một phần để tài trợ cho tài sản ngắn hạn. Cân bằng tài
chính trong trường hợp này được đánh giá là tốt và an toàn.
Mối quan hệ giữa vốn lưu động ròng và nhu cầu vốn lưu động ròng.
16
Phân tích cân bằng tài chính cần xem xét mối quan hệ giữa vốn lưu động ròng và
nhu cầu vốn lưu động ròng. Phần chênh lệch giữa vốn lưu động ròng và nhu cầu vốn
lưu động ròng được gọi là ngân quỹ ròng.
Ngân quỹ ròng (NRQ) = Vốn lƣu động ròng - Nhu cầu vốn lƣu động ròng
NQR > 0: (VLĐR > NCVLĐR) thể hiện một cân bằng tài chính rất an toàn vì
doanh nghiệp không phải vay để bù đắp sự thiếu hụt về nhu cầu vốn lưu động ròng. Ở
một góc độ khác, doanh nghiệp không gặp tình trạng khó khăn về thanh toán trong
ngắn hạn và số tiền nhàn rỗi có thể đầu tư vào các chứng khoán có tính thanh khoản
cao để sinh lời.Doanh nghiệp đạt cân bằng tài chính trong ngắn hạn.
NQR = 0: (VLĐR = NCVLĐR): vốn lưu động ròng vừa đủ để tài trợ cho nhu cầu
vốn lưu động ròng. Cân bằng tài chính kém bền vững hơn so với trường hợp trên. Đây
là dấu hiệu về tình trạng mất cân bằng tài chính.
NQR < 0: (VLĐR < NCVLĐR) điều này có nghĩa VLĐR không đủ để tài trợ
NCVLĐR, doanh nghiệp mất cân bằng tài chính trong ngắn hạn, trong trường hợp này
doanh nghiệp phải huy động các khoản vay ngắn hạn để bù đắp sự thiếu hụt đó và tài
trợ một phần TSDH khi VLĐR âm.
1.4.3. Phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính
1.4.3.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn là thước đo khả năng thanh toán của doanh
nghiệp, nó cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu tài sản ngắn hạn có thể chuyển thành
tiền mặt dùng để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.
Tổng TSNH
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn
=
Tổng nợ ngắn hạn
Nếu hệ số này nhỏ hơn một (<1) thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp giảm,
điều này cho biết doanh nghiệp đã dùng một phần các khoản nợ ngắn hạn để tài trợ
cho tài sản cố định. Ngược lại, nếu hệ số này lớn hơn một (>1) thì chứng tỏ doanh
nghiệp đã sử dụng một phần nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho tài sản ngắn hạn. Do đó
tình hình tài chính của doanh nghiệp lành mạnh, an toàn, ổn định.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh: cho biết doanh nghiệp có thể thanh toán được
bao nhiêu lần nợ ngắn hạn bằng tiền và các khoản tương đương tiền của mình.
Tổng TSNH – Giá trị lƣu kho
Hệ số khả năng thanh toán nhanh =
Tổng nợ ngắn hạn
Nếu hệ số này > 0,5 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp tương đối khả quan,
nếu hệ số này < 0,5 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ.
17
Thang Long University Library
Hệ số khả năng thanh toán tức thời: cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ
ngắn hạn đến hạn, quá hạn của doanh nghiệp và đánh giá việc chấp hành kỉ luật thanh
toán của doanh nghiệp với chủ nợ.
Hệ số khả năng thanh tức thời
Tiền + Các khoản tƣơng đƣơng tiền
=
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này đặc biệt quan trọng đối với các bạn hàng mà hoạt động khan hiếm tiền
mặt (quay vòng vốn nhanh), các doanh nghiệp này cần phải được thanh toán nhanh
chóng để hoạt động được bình thường. Thực tế cho thấy, hệ số này > 0,5 thì tình hình
thanh toán tương đối khả quan còn nếu < 0,5 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn
trong việc thanh toán. Tuy nhiên, nếu hệ số này quá cao lại phản ánh một tình hình
không tốt là vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay tiền chậm làm giảm hiệu quả sử dụng.
1.4.3.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng hoạt động
Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của
doanh nghiệp. Các chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá tác động tới hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho
TSCĐ và TSLĐ. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu
quả sử dụng tổng số nguồn vốn mà còn chú trọng đến hiệu quả sử dụng của từng bộ
phận cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp.
Vòng quay các khoản phải thu: Trong quá trình hoạt động, việc phát sinh các
khoản phải thu, phải trả là điều tất yếu. Khi các khoản phải thu càng lớn, chứng tỏ
nguồn vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng càng nhiều, nhanh chóng giải phóng vốn
bị ứ đọng trong khâu thanh khoản là một bộ phận quan trọng trong công tác tài chính.
Vì vậy doanh nghiệp rất quan tâm tới thời gian thu hồi các khoản phải thu và thời gian
thu nợ trung bình.
Doanh thu thuần
Hệ số thu nợ
=
Phải thu khách hàng
360
Kỳ thu tiền trung bình
=
Hệ số thu nợ
Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng của doanh
nghiệp và các khoản phải trả trước kỳ thu tiền trung bình cho biết trung bình số phải
thu trong kỳ bằng doanh thu của bao nhiêu ngày. Thông thường 20 ngày là một kỳ thu
tiền chấp nhận được. Nếu giá trị của chỉ tiêu này càng cao thì doanh nghiệp đã bị
chiếm dụng vốn, gây ứ đọng vốn trong khâu thanh toán, khả năng thu hồi vốn trong
thanh toán chậm. Do đó, doanh nghiệp phải có biện pháp đế thu hồi nợ. Tuy nhiên,
18
trong tình hình cạnh tranh gay gắt thì có thể đây là chính sách của doanh nghiệp nhằm
phục vụ cho những mục tiêu chiến lược như chính sách mở rộng, thâm nhập thị trường.
Vòng quay hàng tồn kho: Hàng tồn kho là một tài sản dự trữ nhằm đảm bảo cho
sản xuất tiến hành một cách bình thường, liên tục và đáp ứng được nhu cầu của thị
trường, mức độ hàng tồn kho cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : loại hình
kinh doanh, chế độ cung cấp mức độ đầu vào, mức độ tiêu thụ sản phẩm, thời vụ trong
năm...Để đảm bảm sản xuất tiến hành liên tục và đáp ứng đủ nhu cầu của khách hàng,
mỗi doanh nghiệp cần có một lượng dự trữ tồn kho hợp lý, tỷ số này có thể được đo
lường bằng chỉ tiêu hệ số lưu kho và thời gian luân chuyển kho trung bình.
Hệ số lƣu kho
Giá vốn hàng bán
=
Giá trị lƣu kho
Đây là chỉ số phản ánh trình độ quản lý dự trữ của doanh nghiệp, thể hiện mối
quan hệ giữa hàng hoá đã bán và vật tư hàng hoá của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
kinh doanh thường có vòng quay tồn kho lớn hơn rất nhiều so với doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh. Hệ số này từ 9 trở lên là một dấu hiệu tốt về tình hình tiêu thụ và dự
trữ. Hệ số này thấp có thể phản ánh doanh nghiệp bị ứ đọng vật tư hàng hoá, hoặc sản
phẩm tiêu thụ chậm.
360
Thời gian luân chuyển kho trung bình
=
Hệ số lƣu kho
Chỉ tiêu thời gian luân chuyển kho trung bình cho biết bình quân hàng tồn kho
quay được bao nhiêu vòng trong kỳ để tạo ra doanh thu.
Hiệu suất sử dụng TSDH đo lường hiệu quả sử dụng tài sản cố định như máy
móc, thiết bị, nhà xưởng... và được xác định riêng biệt nhằm đánh giá hiệu quả hoạt
động của riêng tài sản cố định. Tỷ số được xác định bằng cách lấy doanh thu chia cho
bình quân tài sản cố định.
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng TSDH
=
Tổng TSDH
Tỷ số này cho biết mỗi đồng tài sản cố định của doanh nghiệp tạo ra bao nhiêu
đồng doanh thu.
Hiệu suất sử dụng TSNH đo lường hiệu quả sử dụng tài sản lưu động nói chung mà
không có sự phân biệt giữa hiệu quả hoạt động tồn kho hay hiệu quả hoạt động khoản
phải thu. Được xác định bằng cách lấy doanh thu chia cho bình quân tài sản lưu động.
Hiệu suất sử dụng TSNH
=
Doanh thu thuần
19
Thang Long University Library
Tổng TSNH
Tỷ số này cho biết mỗi đồng tài sản lưu động của doanh nghiệp tạo ra được bao
nhiêu đồng doanh thu.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản đo lường hiệu quả sử dụng tài sản nói chung mà
không phân biệt tài sản cố định và tài sản lưu động, được xác định bằng cách lấy
doanh thu chia cho bình quân tổng tài sản
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
=
Tổng tài sản
Tỷ số này cho biết mỗi đồng tài sản của doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu
đồng doanh thu.
1.4.3.3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng quản lý nợ
Khi tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt, doanh nghiệp sẽ ít phải đi vay, khả
năng thanh toán tốt ít đi chiếm dụng vốn và cũng ít bị chiếm dụng vốn. Điều đó tạo
cho doanh nghiệp có thể chủ động về vốn bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh
thuận lợi. Ngược lại, tình hình tài chính gặp khó khăn sẽ đến tình trạng chiếm dụng
vốn lẫn nhau, đơn vị mất đi tính chủ động trong kinh doanh và khi không còn khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn, sẽ dẫn đến tình trạng phá sản. Ta có thể biết được
tình hình quản lý nợ của doanh nghiệp thông qua một số tỷ số sau:
Tỷ số nợ/Tổng tài sản: tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của doanh
nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn.
Tổng nợ
Tỷ số nợ/Tổng tài sản
=
Tổng tài sản
Về mặt lý thuyết, chỉ số này nằm trong khoảng 0 < và < 1 nhưng thông thường
nó dao động quanh giá trị 0,5. Vì nó bị tự điều chỉnh từ hai phía: Chủ nợ và con nợ.
Nếu chỉ số này càng cao, chủ nợ sẽ rất chặt chẽ khi quyết định cho vay thêm, mặt khác
về phía con nợ, nếu vay nhiều quá sẽ ảnh hưởng đến quyền kiểm soát, đồng thời sẽ bị
chia phần lợi quá nhiều cho vốn vay (trong thời kỳ kinh doanh tốt đẹp) và rất dễ phá
sản (trong thời kỳ kinh doanh đình đốn).
Tỷ số nợ/Vốn chủ sở hữu: tỷ số này đo lường mối tương quan giữa nợ và vốn chủ
sở hữu của công ty.
Tổng nợ
Tỷ số nợ/Vốn chủ sở hữu
=
Vốn chủ sở hữu
20
- Xem thêm -