Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phân tích tình hình tài chính công ty cổ phần chứng khoán hòa bình...

Tài liệu Phân tích tình hình tài chính công ty cổ phần chứng khoán hòa bình

.PDF
92
170
98

Mô tả:

CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TRONG CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.1. Tổng quan về công ty chứng khoán 1.1.1. Khái niệm về công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt. Hoạt động của công ty chứng khoán khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất và thương mại thông thường. Sản phẩm của công ty chứng khoán thường là các dịch vụ tài chính. Công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động chủ yếu như mua bán chứng khoán, môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, phát hành và bảo lãnh chứng khoán, tư vấn đầu tư và quản lý quỹ đầu tư. Công ty chứng khoán có thể tham gia quá trình trao đổi cổ phiếu trong thị trường với vai trò trung gian. (Trích nguồn “Công ty chứng khoán là gì?”, http://www.dankinhte.vn/cong-tychung-khoan-la-gi/, ngày truy cập 18/12/2014) 1.1.2. Phân loại công ty chứng khoán Hiện nay ở nước ta theo quyết định số 03/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13 tháng 10 năm 1998 của UBCK, công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được UBCK Nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán. Theo cách phân loại dựa vào các nghiệp vụ thực hiện của công ty chứng khoán thì công ty chứng khoán có thể chia thành các loại như sau:  Công ty môi giới chứng khoán: là công ty chỉ thực hiện việc trung gian, mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng.  Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán: là công ty chứng khoán có lĩnh vực hoạt động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí hoặc chênh lệch giá.  Công ty kinh doanh chứng khoán: là công ty chứng khoán chủ yếu thực hiện nghiệp vụ tự doanh, có nghĩa là tự bỏ vốn và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.  Công ty trái phiếu: là công ty chứng khoán chuyên mua bán các loại trái phiếu.  Công ty chứng khoán phi tập trung: là các công ty chứng khoán hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC và họ đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường bằng các dịch vụ cung cấp. (Trích nguồn “Công ty chứng khoán”, https://voer.edu.vn/m/cac-khai-niem-coban-ve-thi-truong-chung-khoan/5e06eeaa, ngày truy cập 18/12/2014) 1 Thang Long University Library Đối với các thị trường chứng khoán phát triển thì vai trò của các công ty này là rất lớn. Còn đối với những thị trường mới phát triển như nước ta thì tiềm năng của các công ty này là rất lớn. 1.1.3. Vai trò của công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các công ty chứng khoán mà chứng khoán được lưu thông từ nhà phát hành tới người đầu tư. Qua đó huy động nguồn vốn từ nơi nhàn rỗi để phân bổ vào những nơi sử dụng có hiệu quả. Chức năng cơ bản của công ty chứng khoán có thể kể tới như: Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi tới người sử dụng vốn thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành. Một doanh nghiệp khi thực hiện huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán thường họ không tự bán chứng khoán của mình mà thông qua một tổ chức chuyên nghiệp tư vấn và giúp họ phát hành chứng khoán. Công ty chứng khoán với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ máy đầu tư thích hợp họ thực hiện tốt vai trò trung gian môi giới, mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và một số nghiệp vụ khác. Với nghiệp vụ này, công ty chứng khoán chính là cầu nối và kênh dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch thông qua hệ thống khớp giá và khớp lệnh. Công ty chứng khoán thông qua Sở giao dịch và thị trường OTC cung cấp một cơ chế xác định giá nhằm giúp các nhà đầu tư đánh giá đúng thực tế và các khoản đầu tư của mình. Trên thị trường thứ cấp, tất cả các lệnh mua bán thông qua công ty chứng khoán được tập trung tại thị trường giao dịch và trên cơ sở đó giá chứng khoán được xác định trên quy luật cung cầu. Tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán (hoán chuyển từ chứng khoán ra tiền mặt và ngược lại từ tiền mặt ra chứng khoán một cách dễ dàng). Trên thị trường thứ cấp, công ty chứng khoán là cầu nối các nhà đầu tư, trung gian chuyển các chứng khoán đầu tư thành tiền mặt và ngược lại môt cách dễ dàng, thuận tiện. Tiền thu được ở đây không thuộc về nhà phát hành mà thuộc về nhà đầu tư bán chứng khoán, nhượng lại quyền sở hữu chứng khoán cho nhà đầu tư khác. Trong môi trường đầu tư ổn định, các nhà đầu tư luôn lựa chọn các loại chứng khoán có thanh khoản cao để thu về được lợi nhuận nhiều nhất. Công ty chứng khoán cũng giúp nhà đầu tư giảm thiểu thiệt hại về khoản đầu tư của mình thông qua việc môi giới, tư vấn đầu tư. Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường thông qua hoạt động tự doanh hoặc vai trò nhà tạo lập thị trường. Theo quy định của các nước thì các công ty chứng khoán có nghiệp vụ tự doanh phải dành ra một tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để mua chứng khoán vào khi giá giảm và bán chứng khoán dự trữ khi giá lên quá cao để điều tiết và 2 bình ổn giá thị trường. Điều này có ý nghĩa nhất định, ảnh hưởng tới tâm lý các nhà đầu tư trên thị trường. Với những đặc điểm trên, công ty chứng khoán có vai trò quan trọng đối với những chủ thể khác nhau trên thị trường chứng khoán.  Đối với các tổ chức phát hành. Mục tiêu khi tham gia vào thị trường chứng khoán của các tổ chức chứng khoán là huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán. Vì vậy, thông qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các công ty chứng khoán có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành. Một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc này yêu cầu những nhà đầu tư và những nhà phát hành không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung gian mua bán. Các công ty chứng khoán sẽ thực hiện vai trò trung gian cho cả người đầu tư và nhà phát hành. Và khi thực hiện công việc này, công ty chứng khoán đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua thị trường chứng khoán.  Đối với các nhà đầu tƣ: Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, công ty chứng khoán có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Đối với hàng hoá thông thường, mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người bán. Tuy nhiên, đối với thị trường chứng khoán, sự biến động thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho những nhà đầu tư tốn kém chi phí,ncông sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các công ty chứng khoán, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách hiệu quả.  Đối với thị trƣờng chứng khoán: Đối với thị trường chứng khoán, công ty chứng khoán thể hiện hai vai trò chính:  Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường: Giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và người bán phải thông qua các công ty chứng khoán vì họ không được tham gia trực tiếp vào quá trình mua bán. Các công ty chứng khoán là những thành viên của thị trường, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các công ty chứng khoán cùng với các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên.  Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính: Thị trường chứng khoán có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính. Nhưng các công ty chứng khoán mới là người thực hiện tốt vai trò đó vì công ty chứng khoán tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường cấp 1, do thực hiện các hoạt động như bảo lãnh phát hành, chứng khoán hoá, các công ty chứng khoán không những huy động một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho nhà 3 Thang Long University Library phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính được đầu tư vì các chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua bán giao dịch trên thị trường cấp 2. Điều này làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho người đầu tư. Trên thị trường cấp 2, do thực hiện các giao dịch mua và bán các công ty chứng khoán giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại. Những hoạt động đó có thể làm tăng tính thanh khoản của những tài sản tài chính.  Đối với các cơ quan quản lý thị trƣờng: Công ty chứng khoán có vai trò cung cấp thông tin về thị trường chứng khoán cho các cơ quan quản lý thị trường để thực hiện mục tiêu đó. Các công ty chứng khoán thực hiện được vai trò này bởi vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành cho các chứng khoán mới, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện các giao dịch trên thị trường. Một trong những yêu cầu của thị trường chứng khoán là các thông tin cần phải được công khai hoá dưới sự giám sát của các cơ quan quản lý thị trường. Việc cung cấp thông tin vừa là quy định của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các công ty chứng khoán vì công ty chứng khoán cần phải minh bạch và công khai trong hoạt động. Các thông tin công ty chứng khoán có thể cung cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua, bán trên thị trường, thông tin về các cổ phiếu. Trái phiếu và tổ chức phát hành, thông tin về các nhà đầu tư…Nhờ các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường. (“Vai trò và chức năng của công ty chứng khoán”, http://www.dankinhte.vn/vaitro-va-chuc-nang-cua-cong-ty-chung-khoan/, 18/12/2014) Tóm lại, công ty chứng khoán là một tổ chức chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán, có vai trò cần thiết và quan trọng đối với các nhà đầu tư, các nhà phát hành đối với các cơ quan quản lý thị trường và đối với thị trường chứng khoán nói chung. Những vai trò này được thể hiện thông qua các nghiệp vụ hoạt động của công ty chứng khoán. 1.1.4. Các hoạt động chủ yếu của công ty chứng khoán 1.1.4.1. Hoạt động môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình. Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ chuyển đến khách hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán.Và trong những trường hợp nhất định, hoạt động môi giới sẽ trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tưcó những quyết định tỉnh táo. Xuất 4 phát từ yêu cầu trên, nghề môi giới đòi hỏi phải có những phẩm chất, tư cách đạo đức, kỹ năng mẫn cán trong công việc và với thái độ công tâm, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Nhà môi giới không được xúi giục khách hàng mua, bán chứng khoán để kiếm hoa hồng, mà nên đưa ra những lời khuyên hợp lý để hạn chế đến mức thấp nhất về thiệt hại cho khách hàng. (“Nghiệp vụ công ty chứng khoán”, http://vietbao.vn/Kinh-te/Nghiep-vu-cuacong-ty-chung-khoan/55179663/91/, 18/12/2014) 1.1.4.2. Hoạt động tự doanh chứng khoán Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua, bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên SGDCK hoặc thị trường OTC. Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá (quote driven) hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Lúc này, công ty chứng khoán đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với các khách hàng để hưởng chênh lệch giá. Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho chính mình, vì vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho bản thân công ty. Do đó, luật pháp của các nước đều yêu cầu tách biệt rõ ràng giữa các nghiệp vụ môi giới và tự doanh, công ty chứng khoán phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của mình. Thậm chí luật pháp ở một số nước như Anh và Tây Ban Nha còn quy định có 2 loại hình công ty chứng khoán là công ty môi giới chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới và công ty chứng khoán có chức năng tự doanh. Khác với nghiệp vụ môi giới, công ty chứng khoán chỉ làm trung gian thực hiện lệnh cho khách hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh công ty chứng khoán kinh doanh bằng chính nguồn vốn của công ty. Vì vậy, công ty chứng khoán đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn và đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường. (“Nghiệp vụ công ty chứng khoán”, http://vietbao.vn/Kinh-te/Nghiep-vu-cuacong-ty-chung-khoan/55179663/91/, 18/12/2014) 1.1.4.3. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán và tài chính doanh nghiệp Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các 5 Thang Long University Library tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Hoạt động tư vấn chứng khoán được phân loại theo các tiêu chí sau:  Theo hình thức của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn trực tiếp (gặp gỡ khách hàng trực tiếp hoặc thông qua thư từ, điện thoại) và tư vấn gián tiếp (thông qua các ấn phẩm, sách báo) để tư vấn cho khách hàng.  Theo mức độ uỷ quyền của tư vấn: bao gồm tư vấn gợi ý (gợi ý cho khách hàng về phương cách đầu tư hợp lý, quyết định đầu tư là của khách hàng) và tư vấn uỷ quyền (vừa tư vấn vừa quyết định theo sự phân cấp, uỷ quyền thực hiện của khách hàng).  Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn cho người phát hành (tư vấn cho tổ chức dự kiến phát hành: cách thức, hình thức phát hành, xây dựng hồ sơ, bản cáo bạch…và giúp tổ chức phát hành trong việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh, phân phối chứng khoán) và tư vấn đầu tư (tư vấn cho khách hàng đầu tư chứng khoán trên thị trường thứ cấp về giá, thời gian, định hướng đầu tư vào các loại chứng khoán…). Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn:  Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn chất xám mà họ đã bỏ ra để kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận (hiệu quả) cho khách hàng. Nhà tư vấn đòi hỏi phải hết sức thận trọng trong việc đưa ra các lời khuyên đối với khách hàng, vì với lời khuyên đó khách hàng có thể thu về lợi nhuận lớn hoặc thua lỗ, thậm chí phá sản, còn người tư vấn thu về cho mình khoản thu phí về dịch vụ tư vấn (bất kể tư vấn đó thành công hay không). Hoạt động tư vấn đòi hỏi phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau:  Không đảm bảo chắc chắn về giá trị chứng khoán: giá trị chứng khoán không phải là một số cố định, nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế, tâm lý và diễn biến thực tiễn của thị trường.  Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tưvấn của mình dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ, có thể là không hoàn toàn chính xác và khách hàng là người quyết định cuối cùng trong việc sử dụng các thông tin từ nhà tư vấn để đầu tư, nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra.  Không được dụ dỗ, mời chào khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách quan là quá trình phân tích, tổng hợp một các khoa học, logic các vấn đề nghiên cứu. 6 (“Nghiệp vụ công ty chứng khoán”, http://vietbao.vn/Kinh-te/Nghiep-vu-cuacong-ty-chung-khoan/55179663/91/, 18/12/2014). 1.1.4.4. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng lần đầu tiên (IPO), đòi hỏi tổ chức phát hành phải cần đến các công ty chứng khoán tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện bảo lãnh, phân phối chứng khoán ra công chúng. Đây chính là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các công ty chứng khoán và là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của công ty chứng khoán. Như vậy, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là việc công ty chứng khoán có chức năng bảo lãnh (sau đây gọi tắt là tổ chức bảo lãnh) giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên thị trường chứng khoán, tổ chức bảo lãnh phát hành không chỉ có công ty chứng khoán mà còn bao gồm các định chế tài chính khác như ngân hàng đầu tư, nhưng thông thường việc công ty chứng khoán nhận bảo lãnh phát hành thường kiêm luôn việc phân phối chứng khoán, còn các ngân hàng đầu tư thường đứng ra nhận bảo lãnh phát hành (hoặc thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành) sau đó chuyển phân phối chứng khoán cho các công ty chứng khoán tự doanh hoặc các thành viên khác. Sơ đồ 1.1. Quy trình chào bán chứng khoán lần đầu tiên Các cổ đông quyết định niêm IPO yết Công ty niêm yết Côngty nộp hồ sơ Công ty bảo lãnh Quyết định giá chọn công ty bảo lãnh phát hành lên và công ty niêm yết đi quảng bá về IPO và số cổ → phiếu sẽ UBCK IPO bán Khi một tổ chức muốn phát hành chứng khoán, tổ chức đó gửi yêu cầu bảo lãnh phát hành đến công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán có thể sẽ ký một hợp đồng tư vấn quản lý để tư vấn cho tổ chức phát hành về loại chứng khoán cần phát hành, số lượng chứng khoán cần phát hành, định giá chứng khoán và phương thức phân phối chứng khoán đến các nhà đầu tư thích hợp. Để được phép bảo lãnh phát hành, công ty chứng khoán phải đệ trình một phương án bán và cam kết bảo lãnh lên uỷ ban chứng khoán. Khi các nội dung cơ bản của phương án phát hành được uỷ ban chứng khoán thông qua. Công ty chứng khoán có thể trực tiếp ký hợp đồng bảo lãnh hoặc thành lập nghiệp đoàn bảo lãnh để ký hợp đổng bảo lãnh giữa nghiệp đoàn và tổ chức phát hành. 7 Thang Long University Library Khi uỷ ban chứng khoán cho phép phát hành chứng khoán và đến thời hạn giấy phép phát hành có hiệu lực, công ty chứng khoán (hoặc nghiệp đoàn bảo lãnh) thực hiện phân phối chứng khoán. Các hình thức phân phối chứng khoán chủ yếu là:  Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể, các quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí.  Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có quan hệ với tổ chức phát hành.  Bán rộng rãi ra công chúng  Đến đúng ngày theo hợp đồng, công ty bảo lãnh phát hành phải giao tiền bán chứng khoán cho tổ chức phát hành. Số tiền phải thanh toán là giá trị chứng khoán phát hành trừ đi phí bảo lãnh. (“Nghiệp vụ công ty chứng khoán”, http://vietbao.vn/Kinh-te/Nghiep-vu-cuacong-ty-chung-khoan/55179663/91/, 18/12/2014) 1.1.4.5. Hoạt động quản lý danh mục đầu tư Quản lý danh mục đầu tư là việc nhận tiền uỷ thác của khách hàng, xây dựng danh mục chứng khoán (mua, bán) với mục tiêu làm cho tài sản của khách hàng sinh lời tối ưu nhất. Theo quy định mới thì quỹ thành viên chỉ dành cho các nhà đầu tư là tổ chức. Vì vậy, nghiệp vụ này ra đời nhằm quản lý vốn uỷ thác của các nhà đầu tư là cá nhân trong và ngoài nước. Ngoài ra, các nhà đầu tư là tổ chức không muốn góp vốn lập quỹ thành viên vẫn có thể tham gia loại hình dịch vụ này. Mỗi nhà đầu tư đều có những mục tiêu, kỳ vọng, thời hạn và mức độ chấp nhận rủi ro khác nhau khi đầu tư. Chuyên viên sẽ làm việc với từng nhà đầu tư để tìm hiểu và xác định mục tiêu, kỳ hạn đầu tư và khả năng chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư đó. Trên cơ sở đó, sẽ xây dựng danh mục đầu tư phù hợp nhằm tối đa hoá lợi ích của từng khách hàng. Cuối mỗi quý, sẽ tiến hành tính toán giá trị danh mục của từng nhà đầu tư và sẽ gửi các báo cáo giá trị danh mục đó cho các nhà đầu tư liên quan. Nếu có những thay đổi bất thường trong nền kinh tế, về thị trường, về ngành nghề các công ty,... ảnh hưởng đến mục tiêu ban đầu của các nhà đầu tư thì sẽ thông báo đến các nhà đầu tư và cùng các nhà đầu tư bàn bạc lại nhằm tìm ra giải pháp đầu tư tối ưu. Lợi ích của Quản lý danh mục đầu tư: Quản lý danh mục đầu tư là một nghiệp vụ quan trọng trong kinh doanh chứng khoán, là công cụ hữu hiệu để hạn chế rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận. Đặc biệt là đối với khách hàng:Tối ưu lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro, tiết kiệm thời gian Quy trình Quản lý danh mục đầu tư  Bước 1: Tư vấn về các loại hình đầu tư. Các nhà đầu tư sẽ được tư vấn và cung cấp thông tin tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam, các công cụ đầu tư chứng khoán, xu hướng phát triển của thị trường chứng khoán. Bước đầu 8 của quy trình sẽ giúp cho các nhà đầu tư có kiến thức, thông tin, tạo tiền đề cho các quyết định ủy thác đầu tư sau này.  Bước 2: Xác định kỳ vọng. Mỗi nhà đầu tư đều có những mục tiêu, kỳ vọng, thời hạn và mức độ chấp nhận rủi ro khác nhau khi đầu tư. Chuyên viên của công ty chứng khoán sẽ làm việc với từng nhà đầu tư để tìm hiểu và xác định mục tiêu, kỳ hạn đầu tư và khả năng chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư đó. Trên cơ sở đó, công ty chứng khoán sẽ xây dựng danh mục đầu tư phù hợp nhằm tối đa hoá lợi ích của từng khách hàng.  Bước 3: Ký hợp đồng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Hợp đồng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán sẽ được xây dựng dựa trên kết quả của hai bước trên và chi tiết mức độ rủi ro chấp nhận, mức độ sinh lời kỳ vọng, chi phí quản lý đầu tư,...theo từng nhà đầu tư. Sau khi được cung cấp các thông tin chi tiết, nhà đầu tư sẽ tiến hành ký hợp đồng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán với công ty chứng khoán  Bước 4 : Xây dựng cơ cấu đầu tư tối ưu. Sau khi ký hợp đồng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, đối với loại hình đầu tư ủy thác toàn bộ, chuyên viên phân tích và đầu tư sẽ nghiên cứu các phương án đầu tư, kết hợp với xu thế thị trường nhằm xây dựng cơ cấu danh mục đầu tư tối ưu nhất, trên cơ sở đáp ứng lợi nhuận kỳ vọng của khoản đầu tư ủy thác và giảm thiểu rủi ro.  Bước 5: Cung cấp thông tin. Để tạo điều kiện cho các khách hàng theo dõi biến động của khoản đầu tư ủy thác của mình, công ty chứng khoán sẽ cung cấp các báo cáo chi tiết về hoạt động đầu tư định kỳ hàng quý và theo yêu cầu của từng nhà đầu tư.  Bước 6 : Kết thúc hợp đồng. Sau khi kết thúc kỳ hạn, hợp đồng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán sẽ được xem xét lại, khách hàng ủy thác lựa chọn hình thức nhận cổ tức, tất toán hợp đồng hay tiếp tục hợp đồng tùy theo kỳ vọng đầu tư của mình. (“Trích nguồn Giới thiệu về nghiệp vụ của các công ty chứng khoán”, www.anphucinvestment.vn/vi-vn/quanlydanhmucdautu/gioithieunghiepvu, ngày truy cập 18/12/2014). 1.2. Phân tích tài chính của công ty chứng khoán 1.2.1. Khái niệm Như chúng ta đã biết mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là công ty chứng khoán nói riêng đều nằm trong thể tác động liên hoàn với nhau. Bởi vậy, chỉ có thể phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp mới đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế trong trạng thái thực của chúng. Trên cơ sở đó, nêu lên một cách tổng hợp về trình độ hoàn thành các mục tiêu biểu hiện bằng hệ thống 9 Thang Long University Library chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật tài chính của công ty chứng khoán. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh. Mỗi công ty chứng khoán đều có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của mình như các nhà đầu tư, nhà cho vay, nhà cung cấp... Mỗi đối tượng này quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên những góc độ khác nhau. Song nhìn chung, họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi nhuận tối đa. (Khái niệm và ý nghĩa của việc phân tích tài chính trong doanh nghiệp, https://voer.edu.vn/m/khai-niem-va-y-nghia-cua-phan-tich-tai-chinh-doanhnghiep/5f00dc06, 18/12/2014) Phân tích tình hình tài chính công ty chứng khoán là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp cho người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp. 1.2.2. Quy trình phân tích tài chính của công ty chứng khoán Quy trình phân tích tài chính của công ty chứng khoán được thực hiện rõ ràng và mạch lạc như sau: Sơ đồ 1.2. Quy trình phân tích tài chính của công ty chứng khoán Xác định và thu thập thông tin phân tích Xử lý và phân tích Dự đoán và quyết thông tin định Bƣớc 1: Xác định và thu thập thông tin phân tích Phân tích tài chính có mục tiêu đưa ra những dự báo tài chính giúp cho việc ra quyết định về mặt tài chính và giúp cho việc dự kiến kết quả tương lai của doanh nghiệp nên thông tin sử dụng để phân tích không chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu các báo cáo tài chính mà phải mở rộng sang các lĩnh vực khác. Ta sẽ dùng các thông tin sau:  Thông tin chung về tình hình kinh tế  Bảng cân đối kế toán  Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh  Báo cáo lưu chuyển tiền tệ  Thuyết minh báo cáo tài chính Bƣớc 2: Xử lý và phân tích thông tin Xử lý thông tin là quá trình sắp xếp các thông tin theo mục đích nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá và xác định nguyên nhân các kết quả đã đạt được nhằm phục vụ cho quá trình dự đoán. 10 Người phân tích cần xử lý các báo cáo nhằm tìm kiếm những chuyển biến dữ liệu qua các năm. Trong bước này, người sử dụng thông tin cần đặt mình vào những góc độ nghiên cứu khác nhau để có được phương pháp xử lý thông tin khác nhau phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt ra. Bƣớc 3: Dự đoán và quyết định Người phân tích tổng hợp các số liệu kế toán và các thông tin quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, tiềm lực doanh nghiệp, mức độ rủi ro cũng như hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh giúp các nhà quản lý đưa ra quyết định đúng đắn để quản lý doanh nghiệp. Từ đó, giúp cho những đối tượng quan tâm đi tới những dự đoán chính xác về mặt tài chính của doanh nghiệp để có những bước đi chính xác phù hợp với lợi ích của họ. (“Phân tích cơ bản”, http://www.kisvn.vn/kisportal/pages.do?id=268, 19/12/2014) 1.2.3. Đặc điểm phân tích tài chính công ty chứng khoán Hoạt động của công ty chứng khoán có nhiều điểm khác biệt so với hoạt động của những loại hình doanh nghiệp khác. Trước tiên, với mỗi hoạt động khác nhau,công ty chứng khoán cần đáp ứng những điệu kiện khắt khe của pháp luật về vốn pháp định, cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân sự,… Đặc biệt, các thông tin do công ty chứng khoán cung cấp phải có độ tin cậy cao, được cập nhật thường xuyên, liên tục; chốt theo từng ngày, từng giờ bởi hoạt động giao dịch của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán diễn ra liên tục, nếu có chút sai sót sẽ gây thiệt hại cho nhà đầu tư và cả công ty chứng khoán. Ngoài ra, hàng hóa mà công ty thực hiện hoạt động kinh doanh mua bán là một thứ hàng vô hình, chỉ là những giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản nhưng lại mang giá trị rất lớn. Giá cả hàng hóa thường xuyên thay đổi bất ngờ, khó dự đoán, nghiệp vụ phát sinh đa dạng và phức tạp. Bên cạnh hoạt động tự doanh chứng khoán, công ty chứng khoán còn thực hiện các hoạt động khác như môi giới chứng khoán, tư vấn chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư, lưu ký chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán,… Đặc thù của những hoạt động này là giao dịch những tài sản, hàng hóa không phải của chính công ty chứng khoán, vì vậy tài sản ngoài bảng cân đối kế toán khá nhiều. Từ đó dẫn tới nội dung phân tích tình hình tài chính của công ty chứng khoán. Tùy thuộc vào hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán mà mình phân tích để có thể lựa chọn phương pháp phân tích và những chỉ tiêu phân tích sao cho phù hợp. Cụ thể:  Đặc điểm về nội dung phân tích: Bên cạnh các bản báo cáo tài chính thường sử dụng phân tích như bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quản hoạt động kinh doanh, bảng lưu chuyển tiền tệ,…và các chỉ tiêu tài chính như khả năng thanh toán, khả năng sinh lời, các chỉ tiêu phản ánh tình hình quản lý công nợ, hiệu quả sử dụng tài sản thì khi phân tích tài chính của công ty chứng khoán còn phải đặc biệt chú ý tới 11 Thang Long University Library nhóm chỉ tiêu phản ánh tình hình quản ly rủi ro của công ty. Bởi đối với công ty chứng khoán, hoạt động trong một môi trường tiềm ẩn rất rủi rủi ro về thanh toán, rủi ro hoạt động,…Bộ tài chính có đưa ra thông tư 226/2010/TT-BTC về quy định chỉ tiêu an toàn tài chính, mọi CTCK đều phải công bố rộng rãi cho các nhà đầu tư biết về tỉ lệ an toàn vốn khả dụng của mình.  Đặc điểm về phương pháp phân tích: Có rất nhiều phương pháp phân tích khác nhau phù hợp theo từng hoàn cảnh cũng như chủ ý của người phân tích tài chính. Tuy nhiên, trong bài phân tích này, em lựa chọn ba phương pháp phân tích đó là phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp phân chia. Đặc điểm cụ thể của ba phương pháp này sẽ được nêu rõ ở phần phía dưới.  Đặc điểm về thông tin để phân tích: Các công ty chứng khoán đều phải công bố thông tin cũng như báo cáo tình hình tài chính của mình rộng rãi trên các phương tiện truyền thông như trang web công ty, sàn giao dịch chứng khoán và các tổ chức khác,…và phải được kiểm toán chính xác. Vì vậy thông tin dùng để phân tích tài chính của công ty chứng khoán đáng tin cậy và cũng dễ dàng tìm kiếm. Đồng thời, tình hình tài chính của công ty còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau. Khi phân tích tài chính cần phải xem xét trên nhiều góc độ ảnh hưởng khác nhau để có kết quả khách quan nhất. (Trích nguồn “Luận văn chứng khoán”, khotailieu.com/luan-van-do-an-baocao/kinh-te/chung-khoan/dac-diem-cua-cac-cong-ty-chung-khoan-o-viet-nam-hiennay.html, 19/12/2014) 1.2.4. Vai trò phân tích tài chính của công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là một tế bào của một nền kinh tế nên hoạt động của chúng phản ánh tình hình phát triển hay suy thoái của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Qua đó sẽ giúp cho các nhà quản lý tài chính ở tầm vĩ mô thấy được thực trạng của nền kinh tế quốc gia, xây dựng kế hoạch và các chính sách phù hợp nhằm làm cho tình hình tài chính công ty chứng khoán nói riêng và tình hình tài chính quốc gia nói chung ngày càng có sự tăng trưởng. Hoạt động tài chính có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều có ảnh hưởng đến tài chính của công ty chứng khoán. Ngược lại, tình hình tài chính tốt hay xấu đều có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, phân tích tình hình tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân chủ công ty chứng khoán và các đối tượng bên ngoài có liên quan đến tài chính của công ty.  Đối với nhà quản trị doanh nghiệp Các hoạt động nghiên cứu tài chính trong công ty chứng khoán được gọi là phân tích tài chính nội bộ. Khác với phân tích tài chính bên ngoài do nhà phân tích ngoài 12 doanh nghiệp tiến hành. Do đó thông tin đầy đủ và hiểu rõ về công ty, các nhà phân tích tài chính trong công ty có nhiều lợi thế để có thể phân tích tài chính tốt nhất. Vì vậy nhà quản trị công ty chứng khoán còn phải quan tâm đến nhiều mục tiêu khác nhau như tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, hạ chi phí thấp nhất và bảo vệ môi trường. Công ty chứng khoán chỉ có thể đạt được mục tiêu này khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ. Như vậy hơn ai hết các nhà quản trị công ty chứng khoán cần có đủ thông tin nhằm thực hiện cân bằng tài chính, nhằm đánh giá tình hình tài chính đã qua để tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả nợ, rủi ro tài chính của doanh nghiệp. Bên cạnh đó định hướng các quyết định của ban giám đốc tài chính, quyết định đầu tư, tài trợ, phân tích lợi tức cổ phần.  Đối với các nhà đầu tư Mối quan tâm của họ chủ yếu vào khả năng hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn và sự rủi ro. Vì thế mà họ cần thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh và các tiềm năng của công ty chứng khoán. Các nhà đầu tư còn quan tâm đến việc điều hành hoạt động công tác quản lý. Những điều đó tạo ra sự an toàn và hiệu quả cho các nhà đầu tư.  Đối với các nhà cho vay Mối quan tâm của họ hướng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Qua việc phân tích tình hình tài chính của công ty chứng khoán, họ đặc biệt chú ý tới số lượng tiền và các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền nhanh để từ đó có thể so sánh được và biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp đó. Giả sử chúng ta đặt mình vào trường hợp là người cho vay thì điều đầu tiên chúng ta chú ý cũng sẽ là số vốn chủ sở hữu, nếu như ta thấy không chắc chắn khoản cho vay của mình sẽ được thanh toán thì trong trường hợp doanh nghiệp đó gặp rủi ro sẽ không có số vốn bảo hiểm cho họ. Đồng thời ta cũng quan tâm đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp vì đó chính là cơ sở của việc hoàn trả vốn và lãi vay.  Đối với cơ quan nhà nước và người làm công Đối với cơ quan quản lý nhà nước, qua việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, sẽ đánh giá được năng lực lãnh đạo của ban giám đốc, từ đó đưa ra các quyết định đầu tư bổ sung vốn cho các doanh nghiệp nhà nước nữa hay không. Bên cạnh các chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư... người lao động có nhu cầu thông tin cơ bản giống họ bởi vì nó liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tương lai của họ. Phân tích tình hình tài chính công ty chứng khoán có thể ứng dụng theo nhiều chiều khác nhau như với mục đích tác nghiệp (chuẩn bị các quyết định nội bộ) và với 13 Thang Long University Library mục đích thông tin (trong hoặc ngoài doanh nghiệp). Việc thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho người sử dụng thấy được thực trạng hoạt động tài chính, từ đó xác định được nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng đến từng hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó có những biện pháp hữu hiệu và ra các quyết định cần thiết để nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh doanh. Qua đó thấy được ý nghĩa của việc phân tích tài chính công ty chứng khoán mà công việc này ngày càng được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán, các cơ quan quản lý, các tổ chức công cộng. Nhất là, thị trường vốn ngày càng phát triển đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính thực sự có ích và cần thiết trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.  Đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán Với những chức năng và nghiệp vụ của mình, các công ty chứng khoán cung cấp các dịch vụ cần thiết cho thị trường chứng khoán hoạt động ổn định và phát triển.Việc phân tích tình hình tài chính, phản ánh sức khỏe tài chính của công ty chứng khoán sẽ cho thấy sức khỏe của cả thị trường chứng khoán. Công ty chứng khoán hoạt động yếu kém, các thông tin cung cấp cho những đối tượng quan tâm không xác thực sẽ có ảnh hưởng lớn tới hoạt động đầu tư của nhà đầu tư cũng như những giao dịch thực hiện trên thị trường chứng khoán. (“Khái niệm và vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp và thông tin sử dụng trong phân tích tài chính”, http://voer.edu.vn/m/khai-niem-va-vai-tro-cua-phan-tichtai-chinh-doanh-nghiep-va-thong-tin-su-dung-trong-phan-tich-tai-chinh/, 19/12/2014). 1.2.5. Các tài liệu dùng để phân tích tài chính công ty chứng khoán Muốn phân tích được tình hình tài chính của doanh nghiệp người phân tích cần đọc và hiểu rõ được các báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính là các thông tin kinh tế được kế toán viên trình bày dưới dạng bảng biểu, cung cấp các thông tin về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và các luồng tiền của doanh nghiệp đáp ứng các cầu cho những người sử dụng chúng trong việc đưa ra các quyết định về kinh tế. 1.2.5.1. Bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán còn được gọi là bảng tổng kết tài sản, bởi vì thực chất nó là bảng cân đối giữa tài sản và nguồn vốn của một đơn vị vào một thời điểm cụ thể, hay nói cách khác, nó thể hiện sự cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn trong đơn vị. Nó cho chúng ta biết về hiện trạng nguồn lực kinh tế của đơn vị vào một thời điểm cũng như cơ cấu tài trợ vốn của đơn vị. Bảng cân đối kế toán luôn đảm bảo nguyên tắc cân bằng theo phương trình kế toán: Tài sản = nguồn vốn 14 Trong phần tài sản: các khoản mục tài sản được sắp xếp theo tính thanh khoản giảm dần, do vậy người ta sắp xếp tài sản ngắn hạn rồi đến tài sản dài hạn. Phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có tại thời điểm lập báo cáo, thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu của phần tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản của doanh nghiệp, qua đó cho phép đánh giá tổng quát về quy mô tài sản, tính chất hoạt động và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trong phần nguồn vốn: các khoản mục được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên trả nợ, các khoản nợ ngắn hạn xếp trước rồi mới đến nợ dài hạn và cuối cùng là vốn chủ sở hữu, vì bản chất vốn chủ sở hữu không phải là khoản nợ, nó là nguồn vốn thường xuyên trong đơn vị. Trên nguyên tắc, chủ sở hữu sẽ chỉ nhận lại vốn góp khi đơn vị ngưng hoạt động hoặc phá sản. Phần nguồn vốn thể hiện cơ cấu của các nguồn vốn được đầu tư và huy động vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua đó có thể đánh giá một cách khái quát về khả năng và mức độ chủ động về tài chính của doanh nghiệp. (“Mục đích, khái niệm, vai trò, ý nghĩa của bảng cân đối kế toán trong doanh nghiệp”, http://voer.edu.vn/m/muc-dich-khai-niem-vai-tro-va-y-nghia-cua-bang-candoi-ke-toan/3dc37593, 19/12/2014) 1.2.5.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một kỳ hoạt động của doanh nghiệp và chi tiết cho các hoạt động kinh doanh chính. Nói cách khác báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là phương tiện trình bày khả năng sinh lời và thực trạng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cũng như với bảng cân đối kế toán, phân tích về báo cáo kết quả kinh doanh của một công ty được hỗ trợ rất nhiều khi thể hiện bằng định dạng đa kỳ. Điều này cho phép chúng ta phát hiện các xu hướng và sự chuyển biến của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh với mục đích chính là thu được lợi nhuận để vốn của họ tăng lên. Vì lợi nhuận là mục đích quan trọng nhất của doanh nghiệp, cũng như những người có quyền lợi liên quan cho nên việc cung cấp các thông tin về tình hình kinh doanh của từng hoạt động, sự lãi, lỗ của doanh nghiệp có tác dụng quan trọng trong việc ra các quyết định quản trị, cũng như quyết định đầu tư cho vay của những người liên quan. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giúp cho việc quyết định xây dựng các kế hoạch cho tương lai phù hợp. (Bài 13: Phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp”, http://www.nguyenlyketoan.com/2013/09/bai-13-bao-cao-ket-qua-hoat-ong-kinh.html, 19/12/2014) 15 Thang Long University Library 1.2.5.3. Thuyết minh báo cáo tài chính Thuyết minh báo cáo tài chính là bộ phận hợp thành của hệ thống báo cáo tài chinh của đơn vị. Thuyết minh báo cáo tài chính được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình hình hoạt động sản xuất-kinh doanh, tình hình tài chính cũng như kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các bảng báo cáo khác không thể trình bày rõ ràng và chi tiết. Qua đó, nhà đầu tư hiểu rõ và chính xác hơn về tình hình hoạt động thực tế của doanh nghiệp. Thuyết minh báo cáo tài chính trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của tổ chức tín dụng bao gồm: Giấy phép thành lập và hoạt động, hình thức sở hữu vốn, thành phần Ban Giám Đốc, Hội Đồng Quản Trị, nội dung một số chế độ kế toán được lựa chọn để áp dụng. (“Bài 25: Khái niệm, vai trò và ý nghĩa thuyết minh tài chính trong doanh nghiệp”, http://dichvubaocaotaichinh.net/home/?option=info&cat_id=117&id=431&title=noidung-thuyet-minh-bao-cao-tai-chinh, 19/12/2014) Phân tích thuyết minh báo cáo tài chính sẽ cung cấp bổ sung những thông tin chi tiết, cụ thể hơn về một số tình hình liên quan đến hoạt động kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. 1.2.5.4. Thông tin bên ngoài doanh nghiệp Những thông tin bên ngoài doanh nghiệp có thể được hiểu là tình hình chung của nền kinh tế tại một thời điểm cho trước. Sự suy thoái hoặc tăng trưởng của nền kinh tế có tác động mạnh mẽ đến cơ hội kinh doanh, sự biến động của giá cả, các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Khi cơ hội thuận lợi, các hoạt động của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận của công ty, giá trị của công ty cũng tăng lên, và ngược lại. Khi phân tích tài chính doanh nghiệp, điều quan trọng phải nhận thấy sự xuất hiện mang tính chu kỳ: qua thời kỳ tăng trưởng thì sẽ đến thời kỳ suy thoái và ngược lại. Đồng thời thu thập thông tin về chính sách thuế, lãi suất, các thông tin về ngành kinh doanh như thông tin liên quan đến vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành, và các sản phẩm của ngành, tình trạng công nghệ, thị phần,… và các thông tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp: các thông tin mà các doanh nghiệp phải báo cáo cho các cơ quan quản lý như: tình hình quản lý, kiểm toán của doanh nghiệp. 1.2.6. Các phương pháp phân tích tài chính của công ty chứng khoán Để phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh, người ta thường dùng các biện pháp cụ thể mang tính chất nghiệp vụ kỹ thuật. Tuỳ thuộc vào tính chất và đặc điểm riêng biệt của từng đơn vị kinh tế mà phân tích hoạt động lựa chọn từng phương pháp cụ thể để áp dụng sao cho có hiệu quả nhất. 16 1.2.6.1. Phương pháp so sánh Đây là phương pháp chủ yếu dùng trong phân tích hoạt động kinh doanh để xác định xu hướng, mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích. Để tiến hành được cần xác định số gốc để so sánh, xác định điều kiện để so sánh, mục tiêu để so sánh. Xác định số gốc để so sánh:  Khi nghiên cứu nhịp độ biến động, tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu, số gốc để so sánh là chỉ tiêu ở kỳ trước.  Khi nghiên cứu nhịp độ thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong từng khoảng thời gian trong năm thường so sánh với cùng kỳ năm trước.  Khi nghiên cứu khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường có thể so sánh mức thực tế với mức hợp đồng. Điều kiện để so sánh được các chỉ tiêu kinh tế:  Phải thống nhất về nội dung kinh tế của chỉ tiêu  Đảm bảo tính thống nhất về phương pháp tính các chỉ tiêu  Đảm bảo tính thống nhất về đơn vị tính, các chỉ tiêu về cả số lượng, thời gian và giá trị. Mục tiêu so sánh trong phân tích kinh doanh:  Xác định mức độ biến động tuyệt đối và mức độ biến động tương đối cùng xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích.  Mức biến động tuyệt đối: được xác định trên cơ sở so sánh trị số của chỉ tiêu giữa hai kỳ: kỳ phân tích và kỳ gốc.  Mức độ biến động tương đối: là kết quả so sánh giữa số thực tế với số gốc đã được điều chỉnh theo một hệ số của chỉ tiêu có liên quan theo hướng quy mô của chỉ tiêu phân tích. So sánh tuyệt đối: số tuyệt đối là mức độ biểu hiện quy mô, khối lượng giá trị về một chỉ tiêu kinh tế nào đó trong thời gian và địa điểm cụ thể. Đơn vị tính là hiện vật, giá trị, giờ công. Mức giá trị tuyệt đối được xác định trên cơ sở so sánh trị số chỉ tiêu giữa hai kỳ. So sánh tương đối: Mức độ biến động tương đối là kết quả so sánh giữa thực tế với số gốc đã được điều chỉnh theo một hệ số chỉ tiêu có liên quan theo hướng quyết định quy mô của chỉ tiêu phân tích. Số tương đối phản ánh mức độ thực hiện có thể sử dụng dưới chỉ số hay tỷ lệ được tính như sau: Trị số thực hiện trong kỳ Chỉ số (tỷ lệ %) thực hiện so = × 100 với gốc của chỉ tiêu nghiên cứu Trị số chỉ tiêu gốc So sánh con số bình quân: Số bình quân là số biểu hiện mức độ về mặt lượng của các đơn vị bằng cách sau: Bằng mọi chênh lệch trị số giữa các đơn vị đó, nhằm phản 17 Thang Long University Library ánh khái quát đặc điểm của từng tổ, một bộ phận hay tổng thể các hiện tượng có cùng tính chất. Số so sánh bình quân ta sẽ đánh giá được tình hình chung, sự biến động về số lượng, chất lượng trong quá trình sản xuất kinh doanh, đánh giá xu hướng phát triển của doanh nghiệp. (“Các phương pháp phân tích hoạt động kinh doanh”, https://voer.edu.vn/m/cacphuong-phap-phan-tich-hoat-dong-kinh-doanh/e2187352, 19/12/2014) 1.2.6.2. Phương pháp phân tích tỷ số Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ lệ là sự biến đổi các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu cần phải xác định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu. Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, người phân tích lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ mục tiêu phân tích của mình. (“Các phương pháp phân tích hoạt động kinh doanh”, https://voer.edu.vn/m/cacphuong-phap-phan-tich-hoat-dong-kinh-doanh/e2187352, 19/12/2014) 1.2.6.3. Phương pháp phân tích Dupont Mô hình Dupont là kỹ thuật được sử dụng để phân tích khả năng sinh lời của một doanh nghiệp bằng các công cụ quản lý hiệu quả truyền thống. Mô hình Dupont tích hợp nhiều yếu tố của báo cáo thu nhập với bản cân đối kế toán. Trong phân tích tài chính, người ta vận dụng mô hình Dupont để phân tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu tài chính. Chính nhờ sự phân tích mối liên kết giữa các chỉ tiêu tài chính, chúng ta có thể phát hiện ra những nhân tố đã ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích theo một trình tự nhất định. Dưới góc độ nhà đầu tư cổ phiếu, một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất là hệ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Do vốn chủ sở hữu là một phần của tổng nguồn vốn hình thành nên tài sản, nên ROE sẽ phụ thuộc vào hệ số lợi nhuận trên tổng tài sản. Mối quan hệ này được thể hiện bằng mô hình Dupont như sau: Lợi nhuận ròng = Lợi nhuận ròng x Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu Hay, ROE = ROA x Đòn bẩy tài chính Vì vậy, mô hình Dupont có thể tiếp tục được triển khai chi tiết thành: 18 Lợi nhuận ròng = Lợi nhuận ròng x Doanh thu x Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu Doanh thu Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu Hay, ROE = Hệ số Lợi nhuận ròng x Hiệu suất sử dụng tổng tài sản x Đòn bẩy tài chính Trên cơ sở nhận biết ba nhân tố trên, doanh nghiệp có thể áp dụng một số biện pháp làm tăng ROE như sau:  Tác động tới cơ cấu tài chính của doanh nghiệp thông qua điều chỉnh tỷ lệ nợ vay và tỷ lệ vốn chủ sở hữu cho phù hợp với năng lực hoạt động.  Tăng hiệu suất sử dụng tài sản. Nâng cao số vòng quay của tài sản, thông qua việc vừa tăng quy mô về doanh thu thuần, vừa sử dụng tiết kiệm và hợp lý về cơ cấu của tổng tài sản.  Tăng doanh thu, giảm chi phí, nâng cao chất lượng của sản phẩm. Từ đó tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. (“Các phương pháp phân tích hoạt động kinh doanh”, https://voer.edu.vn/m/cacphuong-phap-phan-tich-hoat-dong-kinh-doanh/e2187352, 19/12/2014) Tóm lại, phân tích báo cáo tài chính bằng mô hình Dupont có ý nghĩa lớn đối với quản trị công ty chứng khoán thể hiện ở chỗ có thể đánh giá đầy đủ và khách quan các nhân tố tác động đến hiêu quả sản xuất kinh doanh từ đó tiến hành công tác cải tiến tổ chức quản lý của doanh nghiệp. 1.3. Nội dung phân tích tài chính của công ty chứng khoán 1.3.1. Phân tích tình hình tài sản – nguồn vốn Mối quan hệ cân đối giữa tài sản với nguồn vốn thể hiện sự tương quan về giá trị tài sản và cơ cấu vốn của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mối quan hệ cân đối này giúp nhà phân tích phần nào nhận thức được sự hợp lý giữa nguồn vốn doanh nghiệp huy động và việc sử dụng chúng trong đầu tư, mua sắm, dự trữ, sử dụng có hợp lý, hiệu quả hay không. Nếu TSNH lớn hơn nợ ngắn hạn là điều hợp lý vì dấu hiệu này thể hiện doanh nghiệp giữ vững quan hệ cân đối giữa TSNH và nợ ngắn hạn, sử dụng đúng mục đích nợ ngắn hạn. Đồng thời, nó cũng chỉ ra một sự hợp lý trong chu chuyển TSNH và kỳ thanh toán nợ ngắn hạn. Ngược lại, nếu tài sản ngắn hạn nhỏ hơn nợ ngắn hạn điều này chứng tỏ doanh nghiệp không giữ vững quan hệ cân đối giữa tài sản ngắn hạn với nợ ngắn hạn vì xuất hiện dấu hiệu doanh nghiệp đã sử dụng một phần nguồn vốn ngắn hạn vào tài sản dài hạn. Mặc dù nợ ngắn hạn có khi do chiếm dụng hợp pháp hoặc có mức lãi thấp hơn lãi nợ dài hạn tuy nhiên chu kỳ luân chuyển tài sản khác với chu kỳ thanh toán cho nên dễ dẫn đến những vi phạm nguyên tắc tín dụng và có thể đưa đến một hệ quả tài chính xấu hơn. 19 Thang Long University Library Nếu TSDH lớn hơn nợ dài hạn và phần thiếu hụt được bù đắp từ vốn chủ sở hữu thì đó là điều hợp lý vì nó thể hiện doanh nghiệp sử dụng đúng mục đích nợ dài hạn là cả vốn chủ sở hữu, nhưng nếu phần thiếu hụt được bù đắp từ nợ ngắn hạn là điều bất hợp lý như trình bày ở phần cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn. Nếu phần tài sản dài hạn nhỏ hơn nợ dài hạn điều này chứng tỏ một phần nợ dài hạn đã chuyển vào tài trợ tài sản ngắn hạn. Hiện tượng này vừa làm lãng phí chi phí lãi vay nợ dài hạn vừa thể hiện sử dụng sai mục đích nợ dài hạn. Điều này có thể dẫn đến lợi nhuận kinh doanh giảm và những rối loạn tài chính doanh nghiệp. Ngoài ra, khi phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn chúng ta cần chú trọng đến nguồn vốn lưu động thường xuyên. Nguồn vốn lưu động thường xuyên không những biểu hiện quan hệ giữa cân đối giữa tài sản với nguồn vốn mà nó còn có thể cho chúng ta nhận thức được những dấu hiệu tình hình tài chính trong sử dụng tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp. Quá trình luân chuyển vốn của doanh nghiệp phải hình thành nên phần dư ra giữa tài sản ngắn hạn so với nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn phải lớn hơn tài sản dài hạn mới đảm bảo cho hoạt động thường xuyên, phù hợp với sự hình thành, phát triển và mục đích sử dụng vốn. Phần chênh lệch này gọi là vốn lưu động thường xuyên. Căn cứ vào mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn, ta có các mối quan hệ cân đối sau: Sơ đồ 1.3. Mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn Tài sản ngắn hạn + Tài sản dài = hạn Nguồn vốn + ngắn hạn Nguồn vốn dài hạn Tài sản ngắn hạn - Nguồn vốn = ngắn hạn Nguồn vốn dài hạn Tài sản dài hạn Tài sản ngắn hạn Vốn lƣu động thƣờng xuyên = Nguồn vốndài hạn = Nguồn vốn ngắn hạn Tài sản dài hạn Như vậy, nếu vốn lưu động thường xuyên lớn hơn không và lớn hơn nhu cầu vốn lưu động thiết yếu, thì đây là một dấu hiệu tài chính lành mạnh và đảm bảo cân đối giữa tài sản với nguồn vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, vốn lưu động thường xuyên nhỏ hơn nhu cầu tài sản ngắn hạn thiết yếu hoặc âm thì đây là dấu hiệu tài chính bất bình thường và mất cân đối giữa tài sản với nguồn vốn, nếu tình trạng này kéo dài thì có thể dẫn đến tình trạng tài chính của doanh 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan