Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phân tích tiêu chí bộ luật thuế thu nhập cá nhân...

Tài liệu Phân tích tiêu chí bộ luật thuế thu nhập cá nhân

.PDF
37
411
71

Mô tả:

Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính LỜI NÓI ĐẦU Việt Nam đang đi trên con đường đổi mới và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Những quy luật kinh tế khách quan và tất yếu đang từng giờ, từng phút điều chỉnh nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế của từng khu vực, từng quốc gia và bản thân mỗi chúng ta. Quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế trong khu vực tiến đến toàn cầu hoá nền kinh tế đang dần chứng tỏ là một quy luật của loài người tiến bộ. Để bắt kịp với quá trình này thì mỗi quốc gia phải liên tục có những cải cách nhằm làm phù hợp và thích nghi với môi trường bên ngoài. Trong công cuộc cải cách đó, cải cách về thuế luôn đươc các quốc gia chú trọng. Trong thời gian gần đây hệ thống thuế nước ta đã có rất nhiều thay đổi nhằm thích nghi với điều kiện mới. Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân ra đời năm 1991, cho đến nay qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung và hiện nay chính phủ đã nghiên cứu xây dựng thành Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là một trong những minh chứng cho công cuộc cải cách thuế của Việt Nam. Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế trực thu có vai trò hết sức quan trọng, đánh vào thu nhập của mỗi cá nhân trong xã hội trong một khoảng thời gian nhất định. Nó đã ra đời tương đối sớm ở các nước phát triển và ngày nay thì phát triển rộng rãi ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự phát triển của nó đồng hành với sự phát triển của nền kinh tế và ngày càng khằng định được vai trò, chức năng là một nguồn thu quan trong trong ngân sách nhà nước và là công cụ góp phần đảm bảo công bằng xã hội một cách đắc lực. Bởi vậy, với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về tầm quan trọng của thuế TNCN, Nhóm thuyết trình đã chọn đề tài “ Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân”. Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 1 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính VĂN BẢN PHÁP QUY Hiện nay chính sách thuế TNCN áp dụng các văn bản pháp quy sau: 1. Luật số: 04 /2007/QH12, ngày 21/11/2007 2. Căn cứ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân số 26/2012/QH13 ngày 22 tháng 11 năm 2012 3. Nghị định số 65/2013/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2013 4. Thông tư 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 5. Thông tư 119/2014-TT-BTC ngày 25/8/2014 Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 2 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN I-KHÁI QUÁT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN: 1.Khái niệm thuế thu nhập cá nhân: Thuế thu nhập cá nhân (thuế TNCN) là một loại thuế thực thu đánh trên thu nhập của các cá nhân trong từng thời kỳ. Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế xuất hiện tương đối sớm. Lần đầu tiên nó xuất hiện ở Anh vào năm 1799. Ở Mỹ, thuế TNCN xuất hiện trong thời kỳ chiến tranh 1812. Sau năm 1815 nó bị xoá bỏ ở Mỹ do nhà nước không có nhu cầu tăng thu ngân sách. Nhưng đến năm 1862 thuế TNCN quay trở lại Mỹ nhằm mục đích cung cấp nguồn tài chính cho cuộc nội chiến. Thuế TNCN xuất hiện ở Nhật năm 1887, ở Trung Quốc năm 1936 còn ở Hàn Quốc năm 1974. 2.Đặc điểm của thuế TNCN: ● Thu nhập chịu điều tiết của thuế sẽ căn cứ vào cụ thể nguồn gốc phát sinh của các khoản thu nhập và căn cứ vào đặc điểm cư trú hay một số đặc điểm khác tuỳ theo luật của từng nước. ● Do đối tượng nộp thuế đồng thời cũng chính là đối tượng chịu thuế nên thuế TNCN được xếp vào loại thuế trực thu. Không giống các loại thuế gián thu (như thuế tiêu dùng…) khoản thuế được tính sẵn trong giá thanh toán nên nó không ảnh hưởng nhiều đến tâm lý người mua về khoản thuế mình phải nộp. Thuế trực thu có thể hiểu bóng bẩy là nhà nước trực tiếp thò tay vào túi chúng ta và lấy tiền của ta ra, điều đó chắc chắn có ảnh hưởng mạnh về tâm lý của người nộp thuế. Chính vì vậy mỗi khi chính phủ có những thay đổi trong chính sách thuế TNCN như việc điều chỉnh thuế suất hay thay đổi pham vi các đối tượng được miễn giảm thuế thì đều gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong dân cư. ●Thuế TNCN thông thường là loại thuế luỹ tiến. Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 3 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính Các nước thường xây dựng một biểu thuế luỹ tiến, các bậc tương ứng với mức thu nhập càng cao thì mức thuế suất biên càng cao. Do đó những người có thu nhập càng cao thì phải chịu mức thuế đóng góp cao hơn so với những người có mức thu nhập thấp hơn. Nó góp phần đảm bảo tính công bằng trong xã hội (công bằng ở đây là công bằng theo chiều dọc). Khoảng cách tương đối giữa các bậc thuế suất sẽ quyết định tính chất luỹ tiến mạnh hay yếu của biểu thuế.  Thuế TNCN là một loại thuế phức tạp và mang tính trung lập đối với cơ cấu kinh tế: Do đặc điểm là điều tiết lên thu nhập của dân cư, phạm vi điều chỉnh rất rộng nên việc quản lý đối loại thuế này là hết sức khó khăn. Nó dễ gây phản ứng cho người nộp thuế. Đồng thờI do tính chất phân tán và động của đối tượng chịu thuế và nguồn thuế nên công tác quản lý thu thuế rất khó khăn. Chính vì đặc điểm này mà chi phí hành thu của thuế thu nhập cá nhân rất cao. 3.Cơ sở tính thuế: Để hướng tới mục tiêu công bằng dọc các nước thường quy định thu nhập bình quân làm căn cứ tính thuế theo hai cơ sở: Thu nhập bình quân chịu thuế được xác định theo từng cá nhân. Mỗi cá nhân được chọn làm cơ sở tính thuế. Cách tính này đơn giản, dễ áp dụng nhưng những mục tiêu công bằng đạt đựơc chưa cao. Các nước áp dụng theo nguyên tắc này thường kèm theo những quy định khấu trừ hay trước giảm theo gia cảnh một số chi phí nhất định cho việc thực hiện nghĩa vụ đối với gia đình. II – SỰ RA ĐỜI CỦA PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN: Ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (Income Tax on high - Income earner) và đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Ðể cho phù hợp với tình hình thực tế của từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, từ đó đến nay đã có 06 lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao: lần thứ nhất vào ngày 10/3/1992, lần thứ hai vào ngày 1/6/1994, lần thứ ba vào Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 4 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính ngày 6/2/1997, lần thứ 4 vào ngày 30/6/1999 và lần thứ năm vào ngày 13/6/2001(có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2001) và lần thứ 6 là Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung số 14/2004/PL-UBTVQH11ban hành năm 2004 (có hiệu lực từ ngày 01/07/2004 đến nay). Việc thực hiện các quy định của Pháp lệnh số 14 này được hướng dẫn bởi thông tư 81/2004/TT-BTC và thông tư số 12/2005/TTBTC. Để nâng cao hơn nữa tính chất quan trọng và phải có các biện pháp chế tài đủ mạnh để việc thực hiện thu thuế TNCN được đi vào ổn định, có hiệu quả, công bằng, tại kỳ họp Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật số 04/2007/QH12 Luật thuế TNCN. Luật này đã có hiệu lực thi hành chính thức từ ngày 01/01/2009. Các thông tư số 81 và 12 đồng thời hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2009. Luật thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực thay thế cho Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. . II – SỰ KHÁC BIỆT GIỮA LUẬT THUẾ TNCN VÀ PHÁP LỆNH THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ THU NHẬP CAO: 1. Bổ sung và quy định rõ hơn về đối tượng nộp thuế. - Điểm mới là việc đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN. Việc điều tiết thu nhập của cá nhân kinh doanh theo Luật thuế TNCN thực hiện theo phương pháp luỹ tiến sẽ đảm bảo điều tiết hợp lý thu nhập dân cư, quy định này đảm bảo tính thông lệ quốc tế, vì hầu hết các nước đều đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN. - Định nghĩa rõ hơn đối tượng cư trú, đó là "cá nhân có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở lại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn". 2. Đổi mới cách phân loại thu nhập chịu thuế để xác định nghĩa vụ thuế. Luật thuế TNCN phân loại thu nhập chịu thuế theo nguồn phát sinh thu nhập. Theo đó, thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ kinh doanh; thu nhập từ tiền Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 5 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính lương, tiền công; thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản; thu nhập khác (bao gồm: thu nhập từ trúng thưởng, thu nhập từ bản quyền, thu nhập từ thừa kế, quà tặng, thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại). Đây là cơ sở để tính thuế phù hợp với từng loại thu nhập. Từ cách phân loại này, việc áp dụng thuế suất được quy định theo hai hướng: đối với thu nhập từ kinh doanh và tiền lương, tiền công thì áp dụng biểu thuế suất luỹ tiến từng phần; đối với các khoản thu nhập còn lại thì áp dụng biểu thuế luỹ tiến toàn phần. 3. Mở rộng diện điều tiết một cách hợp lý trên cơ sở bổ sung một số khoản thu nhập chịu thuế. - Một số khoản thu nhập được quy định trong Luật thuế TNCN gồm: thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại, thu nhập từ quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các cơ sở kinh doanh, bất động sản hoặc tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc sử dụng, thu nhập từ casino, thu nhập từ trúng thưởng các cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác. - Luật thuế TNCN quy định miễn thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng, thừa kế, quà tặng giữa vợ với chồng; cha mẹ đẻ; cha mẹ nuôi; mẹ nuôi với con đẻ, con nuôi; cha chồng mẹ chồng với con dâu; cha vợ mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội, cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau. - Tính thuế đối với thu nhập từ đầu tư vốn, thu nhập từ chuyển nhượng vốn bao gồm cả chuyển nhượng chứng khoán. Tuy nhiên, phần thu nhập từ lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng và lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được miễn thuế TNCN. Mở rộng diện điều tiết như trên sẽ góp phần điều tiết công bằng thu nhập của các tầng lớp dân cư theo hướng mọi cá nhân có thu nhập (trừ trường hợp thu nhập rất thấp và một số trường hợp đặc biêt) đều phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Đồng thời, bằng quy định mới này, Luật thuế TNCN sẽ góp phần Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 6 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính tăng thu cho ngân sách Nhà nước một cách hợp lí trên cơ sở không bỏ sót nguồn thu của nền kinh tế. 4. Sử dụng thuật ngữ "thu nhập được miễn thuế" thay cho "thu nhập không chịu thuế" và bổ sung một số khoản thu nhập được miễn thuế. - Luật thuế TNCN đã gọi đúng bản chất là thu nhập được miễn thuế và bổ sung một số khoản thu nhập được miễn thuế khác, như: thu nhập từ tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn lương làm việc ban ngày, làm việc trong giờ; lương hưu; Tiền thưởng cho cá nhân về việc phát hiện, khai báo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luât; học bổng nhận từ ngân sách Nhà nước và từ các tổ chức trong và ngoài nước theo quy định của Chính phủ; thu nhập từ viện trợ, từ thiện với điều kiện các quỹ từ thiện này phải được Nhà nước cho phép thành lập hoặc công nhận hoạt động vì mục đích nhân đạo không nhằm mục đích thu lợi nhuận; thu nhập từ lãi trái phiếu chính phủ. Việc bổ sung một số khoản thu nhập miễn thuế nêu trên thể hiện sự ưu đãi của Nhà nước đối với một số đối tượng được hưởng thu nhập trong những trường hợp gặp khó khăn. Điều này cũng thể hiện chính sách khuyến khích của nhà nước đối với một số hoạt động có lợi cho phát triển kinh tế- xã hội như tốt giác tội phạm, tăng cường lao động sản xuất… 5. Áp dụng giảm trừ gia cảnh khi xác định nghĩa vụ thuế. - Đây chính là vấn đề được ủng hộ của đông đảo nhân dân nhất song cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất khi dự thảo Luật được đưa ra lấy ý kiến nhân dân. Sự ủng hộ xuất phát từ cơ sở là, thay vì áp dụng mức khởi điểm chịu thuế chung cho mọi đối tượng nộp thuế thì chuyển sang áp dụng giảm trừ gia cảnh, tức là có tính đến hoàn cảnh cá nhân của đối tượng nộp thuế. Điều này làm cho việc xác định nghĩa vụ thuế của mỗi đối tượng nộp thuế được công bằng hơn. Mức giảm trừ cho bản thân đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng, cho mỗi người phụ thuộc mà đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng là 1,6 triệu đồng/tháng. Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 7 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính - Mức giảm trừ gia cảnh như trên là phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam trong những năm tới và phù hợp với quản điểm cải cách hệ thống thuế của Việt Nam. Chỉ những người có thu nhập từ trung bình khá trở lên mới phải nộp thuế, khi thu nhập tăng lên, mức giảm trừ này sẽ tiến gần đến với mức thu nhập trung bình trong xã hội và khi đó những người có thu nhập ở mức trung bình trở lên đều có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, từ đó đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của tầng lớp dân cư. Tất nhiên, đến một thời điểm nào đó, khi thu nhập và mức sống của dân cư đã tăng rất cao, Quốc hội sẽ xem xét điều chỉnh mức giảm trừ này cho phù hợp. - Việc giảm trừ cho người phụ thuộc được thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế. Luật cũng không khống chế mức giảm trừ tối đa cho người phụ thuộc. Việc mở rộng diện giảm trừ như trên cho những người phụ thuộc đảm bảo thực hiện công bằng trong điều tiết thu nhập và phù hợp với đạo lý xã hội của người Việt Nam, chắc chắn sẽ nhận được sự đồng tình ủng hộ của đông đảo nhân dân. 6. Áp dụng giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo. - Khoản đóng góp từ thiện nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế nhưng chỉ áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh; không áp dụng đối với cá khoản thu nhập khác. Với quy định này, Luật đã khuyến khích mọi công dân trong xã hội tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo. 7. Quy định giảm trừ chi phí cho cá nhân kinh doanh một cách hợp lý - Cùng với việc chuyển cá nhân kinh doanh từ diện nộp thuế TNDN sang nộp thuế TNCN, Luật thuế TNCN đã quy định các khoản chi phí hợp lý được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của cá nhân kinh doanh. Về cơ bản, các khoản chi phí hợp lý được trừ này kế thừa cá quy định hiện hành của Luật thuế TNDN. . Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 8 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính 8. Điều chỉnh thuế suất theo hướng giảm thuế suất cao nhất, thấp nhất, và tăng bậc thuế suất; thống nhất biểu thuế đối với người Việt Nam và người nước ngoài. - Luật thuế TNCN vẫn áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần nhưng mức thuế suất thấp nhất giảm xuống còn 5% và mức thuế suất cao nhất giảm xuống còn 35% với số lượng bậc thuế nâng lên thành bảy và áp dụng chung cho cả người Việt Nam và người nước ngoài. Với biểu thuế mới này, đảm bảo công bằng hơn trong điều tiết thu nhập do chênh lệch về thuế suất giữa các bậc thuế giảm đi. Việc hạ thuế suất cao nhất và thấp nhất xuống thể hiện tinh thần mở rộng diện đánh thuế nhưng mức độ điều tiết cũng giảm đi, việc giảm mức thuế suất cao nhất sẽ góp phần khuyến khích người lao động tích cực lao động và sản xuất, kinh doanh; khuyến khích người dân làm giàu chính đáng. - Đối với các khoản thu nhập còn lại. Luật thuế thu nhập cá nhân quy định biểu thuế luỹ tiến toàn phần. Ngoài ra, Luật còn quy định thuế suất cụ thể cho từng loại thu nhập áp dụng đối với cá nhân không cư trú với các mức thuế suất từ 1% đến 10% tính trên toàn bộ thu nhập phát sinh ở Việt Nam (không được trừ chi phí). Tóm lại, Luật thuế TNCN vừa được Quốc hội thông qua có nhiều điểm mới, phù hợp với tiến trình đổi mới quản lý kinh tế của nhà nước, với quá trình hội nhập kinh tế của đất nước và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay. Với việc ban hành Luật thuế quan trọng này, hệ thống thuế của chúng ta đang hướng đến phù hợp hơn với hệ thống thuế các nước, hướng tới một hệ thống thuế công bằng và hiện đại hơn. Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 9 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính CHƯƠNG II: TIÊU CHÍ CỦA BỘ LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 1. Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân là thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực tài chính. Nghị Quyết Đại hội Đảng IX và X đã xác định "Áp dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển" và “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ... Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập”. Cụ thể hoá nghị quyết đại hội Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, trong đó đặt ra yêu cầu: “Cần sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng tỷ trọng các nguồn thu trong nuớc cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỷ lệ thu từ thuế trực thu”. Chính phủ đã có Quyết định số 201/QĐ-TTg ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược cải cách thuế, trong đó xác định nghiên cứu xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân để trình Quốc hội thông qua vào năm 2007. 2. Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm tăng cường công tác kiểm soát, phân phối thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tế- xã hội. Để sử dụng hiệu quả công cụ thuế, về cơ bản hệ thống chính sách thuế gồm có thuế gián thu và thuế trực thu. Thuế gián thu như: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, động viên thu nhập xã hội thông qua tiêu dùng của các tổ chức và cá nhân, không căn cứ vào thu nhập và gia cảnh của người nộp thuế. Đối với các nước đang phát triển, thu nhập dân cư còn thấp nên thuế gián thu thường là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Thuế trực thu như: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, động viên trực tiếp vào thu nhập của doanh nghiệp, cá nhân; trong đó thuế thu Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 10 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính nhập doanh nghiệp điều tiết thu nhập của doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân điều tiết thu nhập của cá nhân. Thuế thu nhập cá nhân động viên trực tiếp vào thu nhập của cá nhân, thể hiện rõ nghĩa vụ của công dân đối với đất nước và được căn cứ trên các nguyên tắc "lợi ích", "công bằng" và "khả năng nộp thuế". Theo nguyên tắc lợi ích thì mọi người trong xã hội đều được hưởng những thành quả phát triển của đất nước về luật pháp thể chế, cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội, an ninh trật tự ... đồng thời cũng có nghĩa vụ đóng góp một phần thu nhập của mình cho xã hội thông qua việc nộp thuế. Nguyên tắc "công bằng" và “ khả năng nộp thuế” thể hiện ở chỗ: người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn, mỗi cá nhân dù có thu nhập từ các nguồn khác nhau đều được điều chỉnh thống nhất trong một chính sách thuế; người có thu nhập thấp chưa phải nộp thuế. Bên cạnh đó, trong thời gian qua ở nước ta, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thu nhập của các tầng lớp dân cư cũng tăng lên, nhưng khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa nhóm người có thu nhập cao và nhóm người có thu nhập thấp cũng có xu hướng ngày càng tăng (trong thời gian từ năm 1993 đến năm 2004, khoảng cách này đã tăng từ 3,7 lần lên đến 13,5 lần). Như vậy, việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân sẽ góp phần đảm bảo tính hợp lý, công bằng, hiệu quả của hệ thống chính sách thuế và hạn chế sự gia tăng khoảng cách chênh lệch giầu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời Nhà nước sẽ nắm được thông tin về thu nhập của cá nhân. Thông qua đó, vừa thực hiện động viên nguồn lực vừa góp phần phòng chống tham nhũng, lãng phí. Với ý nghĩa đó, thuế thu nhập cá nhân đã được nhiều nước áp dụng từ rất sớm, ngay từ khi nền kinh tế chưa phát triển, thu nhập của dân cư cũng chưa cao, đến nay, đã có trên 180 nước trên thế giới áp dụng loại thuế này. 3. Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới. Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 11 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, hệ thống chính sách thuế đã được hình thành và từng bước hoàn thiện qua hai lần cải cách (năm 1990 và năm 1995). Việc ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân đã được đặt ra từ trước đây, nhưng xét thấy chưa đủ điều kiện, vì trong giai đoạn đầu chuyển đổi nền kinh tế, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa phát triển, các thị trường đang trong quá trình hình thành, thu nhập dân cư nhìn chung còn thấp và chưa đa dạng (chủ yếu là tiền lương, tiền công). Trong bối cảnh đó, Nhà nước đã sử dụng 3 sắc thuế để động viên cho phù hợp với từng loại thu nhập: đối với thu nhập của cá nhân kinh doanh áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp; đối với người có thu nhập từ tiền lương tiền công cao hơn mức bình quân xã hội áp dụng Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; Đối với người có thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, áp dụng Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất. Áp dụng chính sách thuế như nói trên trong thời gian qua là phù hợp, nên đã phát huy tác dụng trong quản lý và thu ngân sách. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có cơ hội đầu tư, sản xuất kinh doanh, có thêm nhiều nguồn thu nhập khác nhau: thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, từ dịch vụ và đầu tư tài chính… Bên cạnh đó, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế số người nước ngoài đến làm ăn sinh sống tại Việt Nam và số người Việt Nam có thu nhập từ nước ngoài cũng tăng lên. Sự đa dạng và gia tăng thu nhập của các cá nhân trong xã hội sẽ làm cho khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ngày càng lớn. Trước tình hình trên, chính sách thuế hiện hành đối với thu nhập của cá nhân đã bộc lộ một số hạn chế: chưa thực sự đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế vì cùng là thu nhập của cá nhân nhưng thu nhập từ kinh doanh không được trừ khởi điểm và nộp thuế theo mức 28% trong khi thu nhập từ tiền công, tiền lương trên mức khởi điểm 5 Tr.đ/tháng mới phải nộp thuế và áp dụng thuế suất luỹ tiến từng phần từ 10% đến 40%; còn áp dụng biểu thuế khác nhau giữa người Việt nam và người nước ngoài, người trong nước phải nộp thuế cao hơn người nước ngoài. Chính sách thuế Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 12 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính hiện hành cũng chưa phù hợp với thông lệ quốc tế: chưa có một chính sách thuế điều tiết thống nhất đối với thu nhập của cá nhân. Việc duy trì các chính sách thuế hiện hành đối với thu nhập của cá nhân sẽ hạn chế việc khuyến khích cá nhân tích cực lao động, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, làm giàu chính đáng. Để đảm bảo phát triển kinh tế xã hội ổn định, bền vững và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, việc tiếp tục hoàn thiện các chính sách tài chính trong đó hệ thống chính sách thuế nói chung, thuế thu nhập cá nhân nói riêng là hết sức cần thiết, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ phân bổ nguồn lực đồng thời giải quyết tốt các mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng, giữa tăng trưởng với công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo. 4. Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm đảm bảo ổn định nguồn lực cho ngân sách nhà nước. Kinh tế - xã hội càng phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước để giải quyết các vấn đề an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế ... cũng ngày càng gia tăng. Thêm vào đó, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến cơ cấu thu ngân sách cũng thay đổi theo hướng nguồn thu từ tích luỹ trong nước được tăng dần và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu ngân sách nhà nước. Thuế thu nhập cá nhân cũng sẽ góp phần nâng cao tỷ trọng thu nội địa để ổn định thu cho ngân sách nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tỷ trọng thuế thu nhập cá nhân trong tổng số thu ngân sách tại các nước trong khối ASEAN, như: Thái Lan, Ma-lay-xi-a, Phi-lip-pin... khoảng 12-16%, các nước đang phát triển khoảng 13-14%, các nước phát triển như: Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức... khoảng 30-40% tổng số thu ngân sách. Tỷ lệ thuế thu nhập của cá nhân (bao gồm cả 3 sắc thuế như đã nêu ở trên) tại Việt Nam hiện nay khoảng 4,1%. Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 13 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC XÂY DỰNG LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 1. Quan điểm, mục tiêu xây dựng Luật Thuế thu nhập cá nhân Việc xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân phải đảm bảo các quan điểm, mục tiêu sau: - Thứ nhất, đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, góp phần hạn chế khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Theo quan điểm này Thuế thu nhập cá nhân phải đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế giữa các cá nhân có thu nhập; người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn; người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khác nhau thì nộp thuế khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân thực hiện tốt nghĩa vụ thuế. - Thứ hai, đảm bảo động viên một cách hợp lý thu nhập dân cư, khuyến khích mọi cá nhân ra sức lao động, sản xuất kinh doanh, gia tăng thu nhập làm giàu chính đáng. Mức động viên thuế thu nhập cá nhân phù hợp với khả năng thu nhập của mỗi người: không thu thuế đối với những người có thu nhập thấp; chỉ huy động một phần thu nhập của những người có thu nhập trên mức trung bình xã hội, phần thu nhập còn lại đảm bảo nâng cao đời sống, tăng tích luỹ, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, khuyến khích làm giàu chính đáng. - Thứ ba, việc ban hành và áp dụng thuế thu nhập cá nhân có tính đến những bước đi phù hợp với tình hình nước ta và thông lệ quốc tế; kế thừa có chọn lọc những quy định trong chính sách thuế hiện hành Trong điều kiện nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi và hội nhập, việc xây dựng, ban hành thuế thu nhập cá nhân cần phải có lộ trình, bước đi thích hợp kế thừa có chọn lọc những quy định trong chính sách thuế hiện hành đảm bảo phù hợp với phong tục, tập quán của nước ta và thông lệ quốc tế. Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 14 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính - Thứ tư, đảm bảo huy động nguồn lực để Nhà nước giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội. Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả ngân sách, nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước, tăng cường chống thất thu thuế, việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân góp phần huy động thêm nguồn lực, đảm bảo ổn định, tăng trưởng nguồn thu ngân sách để giải quyết tốt hơn các mục tiêu kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước. 2. Yêu cầu của Luật Thuế thu nhập cá nhân Xuất phát từ những quan điểm, mục tiêu trên, Luật Thuế thu nhập cá nhân phải đảm bảo một số yêu cầu chủ yếu sau: Một là, nắm bắt thông tin về thu nhập của dân cư, từng bước quản lý tiến tới kiểm soát thu nhập; phục vụ cho công tác hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ. Hai là, đảm bảo đơn giản, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, minh bạch và công khai. Ba là, phù hợp với thực tiễn nước ta và thông lệ quốc tế. III - VAI TRÒ CỦA THUẾ TNCN: 1. Vai trò của thuế TNCN: Là một bộ phận của hệ thống thuế, thuế thu nhập cá nhân vừa mang các vai trò chủ yếu của thuế nói chung, vừa có các vai trò riêng mà các loại thuế khác không có được. 1.1Đối với nền kinh tế- xã hội: - Tạo lập nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước: Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, trong đó thuế thu nhập cá nhân là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành thuế nói chung nên cũng góp một phần quan trọng để tạo nguồn tài chính cho nhà nước. Thuế Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 15 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính thu nhập cá nhân được tính với diện rộng, khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách rất lớn. Bên cạnh đó, thuế thu nhập cá nhân tác động trực tiếp vào thu nhập của dân cư mà người dân của bất kỳ quốc gia nào cũng đều mong muốn và cố gắng có thu nhập ngày càng cao để nâng cao đời sống vật chất tinh thần. Thuế thu nhập cá nhân luôn có sự gia tăng nhanh chóng cùng với sự tăng lên của thu nhập bình quân đầu người. - Góp phần thực hiện công bằng xã hội: Thực hiện công bằng xã hội là một trong những vai trò quan trọng của thuế nói chung, ngoài ra với thuế thu nhập cá nhân cùng với việc thực hiện biểu thuế luỹ tiến từng phần, thuế thu nhập cá nhân đã thực hiện được việc điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng trong xã hội. - Điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm: Thuế thu nhập cá nhân cũng có tác dụng điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Loại thuế này điều tiết trực tiếp thu nhập cá nhân nên một mặt tác động trực tiếp đến tiết kiệm, mặt khác làm cho khả năng thanh toán của các cá nhân bị giảm. Từ đó cầu hàng hoá, dịch vụ giảm sẽ tác động đến sản xuất. - Góp phần phát hiện thu nhập bất hợp pháp: Thực tế đã chứng minh nhiều khoản thu nhập của một số cá nhân nhận được từ việc thực hiện các hành vi bất hợp pháp hoặc bằng cách lợi dụng những kẽ hở của pháp luật mà nhà nước không kiểm soát được như tham ô, nhận hối lộ, buôn bán hàng quốc cấm, trốn tránh thuế, lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhà nước và công dân... Những hành vi này ảnh hưởng rất xấu đến đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Phải kết hợp hữu hiệu nhiều biện pháp để ngăn chặn và chống lại những hành vi trên, một trong số các biện pháp ngăn chặn đó thì phải kể đến vai trò của thuế thu nhập cá nhân. 1.2. Đối với hệ thống thuế: - Góp phần khắc phục nhược điểm của một số loại thuế khác: Một số thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt đều Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 16 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính có nhược điểm là có tính luỹ thoái và ảnh hưởng đến người nghèo nhiều hơn người giàu vì khi tiêu thụ cùng một lượng hàng hoá mọi người không phân biệt giàu nghèo và đều phải chịu thuế như nhau. Nếu tính thuế thu nhập cá nhân theo phương pháp luỹ tiến từng phần sẽ góp phần khắc phục được nhược điểm này. - Góp phần hạn chế sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp: Trong doanh nghiệp thường tồn tại cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Giữa hai loại thuế này luôn luôn tồn tại mối quan hệ gắn bó với nhau. Thuế thu nhập cá nhân còn góp phần khắc phục sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp khi có sự thông đồng giữa các doanh nghiệp hay giữa doanh nghiệp với cá nhân. Trong trường hợp doanh nghiệp kê khai cao hơn thực tế những chi phí phải trả cho các cá nhân để làm giảm thu nhập tính thuế của doanh nghiệp hòng trốn thuế thu nhập doanh nghiệp thì các cá nhân nhận được những khoản trả nói trên sẽ phải nộp thêm thuế thu nhập cá nhân đối với phần thu nhập nhận được kê khai tăng thêm đó. Thu nhập của doanh nghiệp tăng thường kéo theo sự tăng lên của thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp. Tóm lại, thuế thu nhập cá nhân đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, vì công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân còn nhiều hạn chế nên những vai trò này vẫn chưa thực sự được phát huy ở những nước chậm phát triển.  Nền kinh tế ngày càng phát triển, mức sống người dân càng cao thì thuế TNCN ngày càng góp phần quan trọng trong nguồn thu nhân sách nhà nước. Do thuế TNCN thu được dựa vào mức thu nhập của dân cư. Thu nhập của dân cư càng cao thì điều đó đồng nghĩa với mức thu từ thuế TNCN sẽ tăng. Điều đó chỉ có thể có khi nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, GDP lớn. Thông thường ở những nước càng phát triển thì tỉ trọng đóng góp của thuế trực thu càng lớn, trong đó thuế TNCN chiếm tỉ trọng khá cao. Ngược lại, ở những nước đang phát triển, đời sống ngườI dân chưa cao, thu nhập trung bình mới chỉ đủ Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 17 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính cho các sinh hoạt cần thiết của ngườI dân và tiết kiệm ra một phần rất nhỏ nên khả năng đóng thuế TNCN cho nhà nước là rất thấp. Bới vậy thuế TNCN thu được tỉ lệ thuận với mức phát triển của nền kinh tế một quốc gia. Thuế TNCN do đó tất yếu sẽ dần trở thành một nguồn thu quan trọng hang đầu trong nguồn thu ngân sách nhà nước.  Thuế TNCN góp phần đảm bảo tính công bằng và giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội. Do đặc điểm của thuế là đánh trên thu nhập của các cá nhân cùng với tính chất luỹ tiến của thuế TNCN đã thu hẹp được khoảng cách về thu nhập của các cá nhân trong xã hội. Đây là quan điểm công bằng theo chiều dọc. Trên lý thuyết đây là một loạI thuế rất ưu việt trong việc điều hoà thu nhập giữa người giàu và người nghèo. Tuy nhiên trên thực tế nó vẫn còn gây rất nhiều tranh cãi giữa các nhà kinh tế do bản thân việc đánh giá hiệu quả công bằng của một chính sách thuế là một vấn đề rất khó khăn và trìu tượng. Bởi vậy nên ý nghĩa công bằng ở đây chỉ mang tính chất tương đối, nó mang công bằng cho đại đa số một bộ phận dân cư này nhưng lại không công bằng cho một bộ phận dân cư khác. Chính sách thuế TNCN được xây dựng để mang lại sự công bằng cao nhất cho xã hội trong điều kiện có thể, tất nhiên nó cũng cần đảm bảo các mục tiêu xã hội khác.  Thuế TNCN góp phần tăng tỉ lệ tiết kiệm quốc gia, tạo điều kiện tăng đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thuế TNCN là một công cụ để điều tiết giữa tiêu dùng và tiết kiệm, tránh những tiêu dùng xa hoa mà thay vào đó là đầu tư vào tư bản và con ngườI, điều đó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế lâu dài. Tuy nhiên nếu mức thuế TNCN quá cao sẽ dẫn đến tình trạng mất động lực của ngườI lao động hoặc ngườI lao động sẽ chuyển qua những nước có mức thuế thu nhập nhỏ hơn để làm việc. Do đó chúng ta cần có một mức thuế suất vừa phảI và hợp lý để đảm bảo việc tăng tỉ lệ tiết kiệm quốc gia nhưng đồng thờI vẫn duy trì được nỗ lực và động cơ làm việc của ngườI lao động. Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 18 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính  Thuế TNCN được các chính phủ của các nước sử dụng rộng rãi trong việc điều hành chính sách tài khoá và các chính sách kinh tế khác. Do thuế TNCN chiếm một phần lớn trong nguồn thu ngân sách nhà nước, đồng thờI nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định đầu tư và tiêu dùng của dân cư nên nó có vai trò hết sức quan trọng trong chính sách tài khoá cuả các quốc gia nhằm điều chỉnh tổng cầu của nền kinh tế và thanh toán nợ của chính phủ. Bên cạnh chức năng điều chỉnh chính sách tài khoá thì thông qua việc quản lý thuế cũng giúp nhà nước quản lý, giám sát thu nhập của dân cư để đưa ra các chính sách kinh tế như chính sách việc làm, bảo hiểm, trợ cấp xã hội… phù hợp hơn.  Thuế TNCN khẳng định quyền và nghĩa vụ của mỗi người dân với nhà nước. Thực tế so sánh cho thấy chính vì nhận thức về nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà n ước cuẩ người dân những nước đang phát triển thấp hơn những nước phát triển cho nên ý thức về quyền con người của họ cũng thấp hơn. Những người càng có ý thức về quyền của mình đối với nhà nước càng cao thì họ càng có ý thức về quyền của mình đối với nhà nước cao hơn, họ đòi hỏi nhà nước cũng phải thực hiện lại những nghĩa vụ đối với họ. Chính vì vậy ta có thể thấy rằng sự phát triển của thuế TNCN cũng là một bước đánh dấu sự phát triển về nhận thức và văn hoá của con ngưòi. IV – TÍNH CÔNG BẰNG VÀ HIỆU QUẢ CỦA LUẬT THUẾ TNCN 1. Tính công bằng của Luật thuế TNCN Có thể thấy thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội luôn không đồng đều, khi khoảng cách về thu nhập giữa các cá nhân quá lớn cần có sự can thiệp của nhà nước, đó là sự phân phối lại thu nhập thông qua chính sách thuế. Xét trong chuẩn mực nhất định, công bằng trong phân phối thu nhập là một trong những đòn bẩy tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế bởi chênh lệch thái quá về mặt thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội sẽ tạo ra sự kìm hãm đối với phát triển kinh tế. Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 19 Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân GVHD:PGS.TSKH Phạm Đức Chính Công bằng xã hội về phương diện kinh tế, không có nghĩa là thành quả tăng trưởng kinh tế xã hội được chia đều cho mọi người. Công bằng trước hết được hiểu là sự bình đẳng trong cơ hội (cơ hội việc làm, cơ hội đầu tư, bình đẳng trong tiếp cận những cơ hội mà với cố gắng và năng lực của mình, con người có thể đạt đến một mức sống cao hơn hiện tại). Trên quan điểm xã hội, công bằng đối nhân được nhiều quốc gia áp dụng trong luật thuế thu nhập cá nhân vì nó tái phân phối một cách hợp lý thu nhập xã hội, nghĩa là phân chia gánh nặng thuế ra phạm vi toàn xã hội theo khả năng tài chính của người nộp thuế. Tính chất công bằng của luật thuế thu nhập cá nhân nghĩa là nó không ưu đãi cho một loại hoạt động nào, trừ khi đấy là mục đích chính trị mong muốn để theo đuổi các mục tiêu đặc thù thông qua việc miễn thuế và tính thuế khác nhau. Không thể có sự công bằng tuyệt đối, song khi phân biệt phải có lý do chính đáng. Tính công bằng trong thuế thu nhập cá nhân có thể là tính công bằng theo chiều dọc hoặc tính công bằng theo chiều ngang. Công bằng dọc là đối xử có phân biệt giữa những người có khả năng kinh tế khác nhau nhằm giảm bớt những khác biệt sẵn có, luật thuế phải phân phối gánh nặng thuế công bằng cho mọi người phù hợp với từng khả năng chi trả. Công bằng ngang là sự đối xử như nhau với những người có tình trạng kinh tế giống nhau. Công bằng ngang thể hiện sự nhìn nhận cơ bản về bình đẳng, mọi phân biệt đối xử giữa các cá nhân theo màu da, tín ngưỡng, tôn giáo, giới tính… đều bị coi là vi phạm nguyên tắc công bằng ngang. Thông thường một số tiêu thức cơ bản có thể đo lường được về khả năng thanh toán như thu nhập, chi tiêu, của cải… được sử dụng để xác định tình trạng kinh tế của các cá nhân. Luật thuế thu nhập cá nhân của các nước đảm bảo tính công bằng ngang bằng việc quy định về “giảm trừ gia cảnh”. 2. Tính hiệu quả của Luật thuế TNCN Nhóm thuyết trình: nhóm 1A 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng