Nghiên cứu này nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa cân bằng bên ngoài (cán cân thương mại và tài khoản vãng lai) và cán cân ngân sách Chính phủ cho năm quốc gia thuộc khu vực Mezzogiorno sử dụng đồng euro bao gồm Hy Lạp, Ireland, Ý, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Những quốc gia này, do hoạt động kinh tế và tài chính yếu kém, nên được gọi là nhóm GIIPS. Phân tích này được thực hiện bằng cách sử dụng hai phương pháp: kiểm định Granger truyền thống và phương pháp được phát triển bởi Toda-Yamamoto. Những kết quả cho thấy sự đồng nhất trong việc sử dụng cả hai phương pháp và ủng hộ lý thuyết Ricardo, theo đó không có mối quan hệ rõ ràng giữa cân bằng ngân sách-tài khoản vãng lai và cân bằng ngân sách-cán cân thương mại. Điều này hàm ý rằng việc thắt chặt tài khóa có thể giúp năm quốc gia ngoại biên này tuân theo các tiêu chí được xây dựng bởi Hiệp định Ổn định và Tăng trưởng, nhưng sẽ không có hiệu quả trong việc hạn chế thâm hụt bên ngoài.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
BỘ MÔN TÀI CHÍNH CÔNG
PAPER 3
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA
GIIPS
GV: GS. Sử Đình Thành
Lớp: TCC_K25
Nhóm 4:
Trần Thị Thanh Hải
Nguyễn Minh Tân
Phạm Thị Thùy
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 08 tháng 04 năm 2016
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
MỤC LỤC
TÓM TẮT ...........................................................................................................................1
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
GIỚI THIỆU .............................................................................................................1
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY ................................................3
KHUNG LÝ THUYẾT TÀI KHOẢN QUỐC GIA ..................................................5
TỔNG QUAN VỀ NHÓM NƯỚC GIIPS.................................................................7
PHƯƠNG PHÁP.......................................................................................................9
DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ ........................................................................................10
KẾT LUẬN .............................................................................................................13
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................................15
PHỤ LỤC ..........................................................................................................................16
NHÓM 4_TCC_K25
i
Tóm tắt
THÔNG TIN BÀI NGHIÊN CỨU
Nhận: 02/07/2012
Nhận bản chỉnh sửa: 18/10/2012
Được chấp nhận: 17/11/2012
Nghiên cứu này nghiên cứu mối quan hệ
nhân quả giữa cân bằng bên ngoài (cán cân
thương mại và tài khoản vãng lai) và cán cân
ngân sách Chính phủ cho năm quốc gia thuộc
khu vực Mezzogiorno sử dụng đồng euro bao gồm Hy Lạp, Ireland, Ý, Bồ Đào Nha và Tây
Ban Nha. Những quốc gia này, do hoạt động kinh tế và tài chính yếu kém, nên được gọi là
nhóm GIIPS. Phân tích này được thực hiện bằng cách sử dụng hai phương pháp: kiểm định
Granger truyền thống và phương pháp được phát triển bởi Toda-Yamamoto. Những kết
quả cho thấy sự đồng nhất trong việc sử dụng cả hai phương pháp và ủng hộ lý thuyết
Ricardo, theo đó không có mối quan hệ rõ ràng giữa cân bằng ngân sách-tài khoản vãng
lai và cân bằng ngân sách-cán cân thương mại. Điều này hàm ý rằng việc thắt chặt tài khóa
có thể giúp năm quốc gia ngoại biên này tuân theo các tiêu chí được xây dựng bởi Hiệp
định Ổn định và Tăng trưởng, nhưng sẽ không có hiệu quả trong việc hạn chế thâm hụt bên
ngoài.
1. GIỚI THIỆU
Vấn đề về mối liên hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai bắt đầu
được chú ý vào những năm 1980, dưới thời Tổng Thống Regan, khi nước Mỹ có thâm hụt
bên ngoài và thâm hụt ngân sách đáng kể. Như một kết quả của sự cùng biến động này,
nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc thâm hụt ngân sách lớn đã góp phần không nhỏ dẫn
đến thâm hụt bên ngoài. Mối quan hệ này được gọi là “thâm hụt kép” và được điều tra kỹ
lưỡng tại một số quốc gia khác. Mặc dù vậy, những nghiên cứu kiểm định giả thuyết thâm
hụt kép đã cho ra những kết quả khác nhau tại các nước khác nhau, và đôi lúc có những
trường hợp ở cùng một quốc gia, việc sử dụng các phương pháp kinh tế lượng và mô hình
khác nhau cũng cho ra các kết quả khác nhau.
Trong tình hình suy thoái tài chính và kinh tế, nhóm các nước thành viên EU có nền
kinh tế yếu – các nước được gọi tắt là GIIPS (Hy Lạp, Ý, Ireland, Bồ Đào Nha và Tây Ban
Nha) là một trường hợp thích hợp cho việc kiểm định tính động và mối quan hệ giữa thâm
hụt ngân sách và thâm hụt bên ngoài (cán cân thương mại và tài khoảng vãng lai) ở mức
cao và kéo dài. Thực vậy, thâm hụt ngân sách và thâm hụt bên ngoài, cùng với nợ trong
nước và nợ nước ngoài tăng cao, đã cùng tồn tại trong khu vực Mezzogiorno. Hiểu được
mối liên hệ giữa cán cân ngân sách chính phủ và tài khoản vãng lai (hoặc là cán cân thương
NHÓM 4_TCC_K25
1
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
mại) do đó trở nên rất quan trọng trong việc thiết lập các chính sách hữu ích, để xem việc
giảm thiểu thâm hụt ngân sách công có đủ để giải quyết vấn đề thâm hụt bên ngoài hay
không. Chẳng hạn, nếu như giả thuyết thâm hụt kép này duy trì, một chính phủ có thể cải
thiện tài khoản vãng lai của quốc gia bằng cách áp dụng các chính sách thắt lưng buộc
bụng.
Trong bối cảnh đó, bài nghiên cứu này đặt mục tiêu tìm hiểu mối quan hệ giữa các biến
số được quan tâm thông qua việc sử dụng hai phương pháp – phân tích nhân quả (Granger
causality test) trong khuôn khổ VAR và phương pháp Toda-Yamamoto (T-Y). Phân tích
thực nghiệm tập trung vào khoảng thời gian từ 1980 đến 2012.
Bài nghiên cứu này cung cấp thêm một số đóng góp mới vào các nghiên cứu sẵn có.
Thứ nhất, hiện vẫn chưa có bài phân tích hệ thống nào về các nước GIIPS được thực hiện.
Thường thì những phân tích chỉ được tiến hành cho những quốc gia một cách riêng biệt
(Vamvoukas, 1999; Marinheiro, 2001; Pantelidis cùng cộng sự, 2009; Kalou và
Paleologou, 2011), nhưng một bài phân tích tổng thể các nước nêu trên vẫn chưa được thực
hiện. Thứ hai, bài nghiên cứu này đưa ra một so sánh giữa hai mối quan hệ: giữa thâm hụt
tài khoản vãng lai và thâm hụt ngân sách, giữa thâm hụt cán cân thương mại và thâm hụt
ngân sách. Điều này rất quan trọng bởi vì việc phân biệt sẽ chỉ ra liệu sự hiện diện của
chuyển giao vốn trực tiếp và thu nhập từ đầu tư có làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa
cán cân ngân sách chính phủ và cân bằng bên ngoài hay không, từ đó giúp điều chỉnh lại
các chính sách can thiệp. Chẳng hạn, nếu thâm hụt ngân sách giảm dẫn đến thâm hụt tài
khoản vãng lai cũng giảm, thì sự cạnh tranh sẽ không quá quan trọng trong việc điều chỉnh
dòng xuất-nhập khẩu. Nếu như khi thâm hụt ngân sách giảm không có ảnh hưởng đến thâm
hụt thương mại, nhưng vẫn giảm được thâm hụt tài khoản vãng lai, thì cần nghiên cứu thêm
để hiểu thêm về mối quan hệ giữa cán cân ngân sách chính phủ và các khoản chuyển giao
quốc tế và các khoản thu nhập từ đầu tư quốc tế.
Hơn nữa, tài khoản vãng lai, cán cân thương mại và cán cân ngân sách cho phép các
nhà phân tích đánh giá nền kinh tế của từng quốc gia riêng biệt và khu vực EA nói chung.
Thường thì các nghiên cứu chỉ tập trung xem xét mối quan hệ giữa tài khoản vãng lai và
cán cân ngân sách chính phủ một nước (như Kosteletou, 2012; Bussière cùng đồng sự,
2010; Daly và Siddiki, 2009; Kumhof và Laxton, 2009; Baharumshah cùng đồng sự, 2006;
Salvatore, 2006).
NHÓM 4_TCC_K25
2
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
Ngoài ra, bài nghiên cứu này xem xét một cách rõ ràng sự đa dạng trong một nhóm
các nước có nền kinh tế yếu theo hai phương pháp phân tích nhân quả. Việc này sẽ cho
phép chúng ta nhận biết liệu giả thuyết nhân quả giữa ngân sách và tài khoản vãng lai có
nhạy cảm với các phép kiểm định được sử dụng để xác định mối quan hệ nhân quả hay
không, và đồng thời cũng làm tăng độ vững của kết quả tìm được. Một điểm mới của
nghiên cứu này là việc kiểm định về độ ổn định của quan hệ nhân quả giữa cán cân ngân
sách và cán cân bên ngoài. Mối quan hệ nhân quả này có thể sẽ không ổn định do các thay
đổi trong bối cảnh chính trị và kinh tế toàn cầu. Do đó, khi có sự không ổn định, kết quả
của các phân tích có thể dẫn đến các chính sách sai hoặc không hiệu quả.
Nhân tố quan trọng cuối cùng trong nghiên cứu này có liên quan tới việc sử dụng số
liệu từng quý, cho phép phân tích kĩ càng về mối quan hệ thâm hụt này hơn. Dữ liệu với
tần suất cao hơn cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về sự biến đổi trong tình trạng bên ngoài
và tình trạng tài khoá, và hơn nữa là hiểu rõ sự tương tác, hoặc không tương tác, giữa các
biến số. Bên cạnh đó, dữ liệu được phân tách nhỏ hơn cho phép việc phân tích sâu hơn vào
những kết quả tìm được để thấy rõ các vấn đề phát sinh và đưa ra các chính sách. Phần lớn
các nghiên cứu khác sử dụng số liệu theo năm.
Phần còn lại của bài nghiên cứu này được trình bày như sau. Phần 2 xem lại các lý
thuyết về mối quan hệ giữa thâm hụt bên ngoài và thâm hụt bên trong. Phần 3 nêu nền tảng
lý thuyết được rút ra từ khung kế toán quốc gia. Phần 4 là tổng quan tình hình kinh tế của
nhóm GIIPS. Phần 5 thảo luận các phương pháp thực nghiệm sử dụng trong phân tích kinh
tế. Phần 6 cung cấp mô tả dữ liệu, phân tích và trình bày kết quả phân tích. Phần cuối cùng
rút ra kết luận.
2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
Có thể xác định 4 xu hướng nghiên cứu để giải thích mối quan hệ giữa thâm hụt ngân
sách và thâm hụt tài khoản vãng lai: giả thuyết thâm hụt kép, giả thuyết tài khoản vãng lai
mục tiêu, sự liên kết qua lại và quan điểm liên thời gian của Ricardo.
Giả thuyết thâm hụt kép mặc nhiên cho rằng thâm hụt ngân sách có xu hướng gây ra
thâm hụt tài khoản vãng lai. Mối quan hệ này được giải thích trong khuôn khổ hai khung
lý thuyết: Lý thuyết Mundell-Fleming và Lý thuyết chi tiêu nội địa của trường phái Keynes
(Keynesian Absorption Theory). Theo cách tiếp cận thứ nhất, một sự tăng lên trong thâm
hụt ngân sách dẫn đến một sự tăng lên trong lãi suất thực trong nước, từ đó, làm cho dòng
vốn sẽ chảy vào và sẽ làm thay đổi tỷ giá hối đoái (đồng nội tệ tăng giá). Sự sụt giảm khả
NHÓM 4_TCC_K25
3
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
năng cạnh tranh dẫn đến sự thâm hụt trong tài khoản vãng lai. Lý thuyết chi tiêu nội địa
của trường phái Keynes cho rằng một sự tăng lên trong thâm hụt ngân sách sẽ gây nên áp
lực rất lớn lên chi tiêu nội địa và do đó nhập khẩu tăng lên, gây nên sự giảm sút trong tài
khoản vãng lai.
Các nghiên cứu điển hình (Abell, 1990; Islam, 1998, Vamvoukas, 1999, Piersanti,
2000; Cavallo, 2005; Erceg cùng đồng sự, 2005; Lau và Baharumshah, 2006; Salvatore,
2006; Rault và Afonso, 2009) đã chỉ ra bằng thực nghiệm rằng hai loại thâm hụt này liên
quan rất lớn với nhau và nói chung mối quan hệ nhân quả này chạy từ thâm hụt ngân sách
đến thâm hụt tài khoản vãng lai theo cách tiếp cận của Mundell-Fleming và Kenyes.
Ngược lại, Anoruo và Ramchander (1998), Khalid và Guan (1999), Kim và Kim
(2006), Marinheiro (2008) và Stiglitz (2010) đã tìm thấy mối quan hệ ngược lại mà di
chuyển từ sự thâm hụt tài khoản vãng lai đến thâm hụt ngân sách. Mối quan hệ ngược này
được gọi là “tài khoản vãng lai mục tiêu” bởi Summers (1988). Kết quả này là do thực tế
rằng một sự xấu đi trong tài khoản vãng lai dẫn đến giảm sút trong tăng trưởng và, dẫn đến
kết quả là một sự tăng lên trong thâm hụt ngân sách. Cụ thể, Chính phủ có thể đặt ra một
gói kích thích tài khóa để giảm những ảnh hưởng xấu về mặt kinh tế và tài chính của sự
mất cân bằng thương mại. Nền kinh tế đi xuống do thâm hụt tài khoản vãng lai ở mức độ
lớn không chỉ làm gia tăng chi tiêu Chính phủ, mà còn làm giảm sút doanh thu thuế.
Những nghiên cứu khác đã tìm thấy mối quan hệ hai chiều giữa hai sự thâm hụt. Chẳng
hạn, Fledstein and Horioka (1980) đã tìm thấy mối tương quan cao giữa tiết kiệm và đầu
tư, và sự liên kết này gây ra quan hệ nhân quả hai chiều giữa ngân sách và tài khoản vãng
lai. Sự tồn tại của mối quan hệ phản hồi quan trọng đưa đến mối quan hệ nhân quả giữa
hai biến ở cả hai chiều (Kalyoncu, 2007).
Cuối cùng, có một vài nghiên cứu khác (Enders và Lee, 1990; Kouassi cùng đồng sự,
2004; Papadogonas và Stournaras, 2006) đã không khám phá được bất cứ sự liên kết nào
giữa hai biến. Kết quả này phản ánh Giả thuyết cân bằng Ricardo. Theo giả thuyết này, sự
thâm hụt ngân sách và tài khoản vãng lai thì không liên quan nhau bởi vì sự linh hoạt tài
khóa của Chính phủ có thể dẫn đến sự tái phân bổ liên thời gian của tiết kiệm, những hạn
chế ngân sách liên thời gian của khu vực tư nhân được để lại, lãi suất thực, đầu tư, và cân
bằng tài khoản vãng lai không bị ảnh hưởng. Thực vậy, thâm hụt ngân sách Chính phủ
không dẫn đến bất kỳ sự thay đổi trong lãi suất và tỷ giá hối đoái (Garcia và Ramajo, 2004),
và vì vậy nó không ảnh hưởng đến tài khoản vãng lai. Những cá nhân biết rằng nếu có sự
NHÓM 4_TCC_K25
4
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
mở rộng tài khóa trong năm nay, năm sau hoặc một thời gian trong tương lai gần thuế sẽ
được tăng lên. Vì vậy, họ tiết kiệm hôm nay để trả tiền thuế tăng lên trong tương lai.
Những nghiên cứu thực nghiệm về sự tác động của thâm hụt ngân sách lên cân bằng
CA cho những quốc gia GIIPS là khá ít. Nói chung, một vài quốc gia trong GIIPS đã được
phân tích trong những nghiên cứu riêng lẻ. Chẳng hạn, Vamvoukas (1999) và Pantelidis
cùng cộng sự (2009) đã phân tích trường hợp của Hy lạp giai đoạn 1960-2007 và xác nhận
giả thuyết thâm hụt kép. Kalou và Paleologou (2011) cũng đã điều tra về Hy Lạp, nhưng
họ tìm thấy mối quan hệ đảo ngược chuyển từ thâm hụt tài khoản vãng lai đến thâm hụt
ngân sách trong giai đoạn 1970-2007. Rault và Afonso (2009) đã cung cấp bản phân tích
chung của các quốc gia, bao gồm Ý, Ireland, và Tây Ban Nha. Gần đây, Magazzino (2012)
đã ước lượng dữ liệu dạng bảng của 33 quốc gia Châu Âu. Bảng tóm tắt của các nghiên
cứu trước đây về những quốc gia được nghiên cứu được trình bày tại Bảng 1.
3. KHUNG LÝ THUYẾT TÀI KHOẢN QUỐC GIA
Mối quan hệ giữa ngân sách và tài khoản vãng lai xuất phát từ đồng nhất thức tài
khoản quốc gia
Bảng 1: Những nghiên cứu đối với những quốc gia được quan tâm
Trong đó Y là Tổng sản phẩm quốc nội GDP, C là tiêu dùng cá nhân, I là đầu tư, G là
chi tiêu chính phủ, TB là cán cân thương mại hay xuất khẩu ròng của hàng hóa và dịch vụ,
NHÓM 4_TCC_K25
5
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
NFI là thu nhập yếu tố ròng từ nước ngoài, NCT là chuyển nhượng ròng. Tổng của TB,
NFI và NCT mô tả tài khoản vãng lai (CA):
Cán cân thương mại do đó là một tài khoản con nằm trong Tài khoản vãng lai. Biết rằng
chênh lệch giữa Thu nhập (Y) và Tổng tiêu dùng (C + G) đại diện cho Tiết kiệm quốc gia
(S), đồng nhất thức (1) có thể viết thành một định nghĩa rộng hơn như sau:
Và thành một định nghĩa hẹp như sau:
S – I = TB
(4)
khi thu nhập ròng từ nước ngoài và chuyển nhượng được loại trừ.
Tiết kiệm quốc gia được tạo nên từ 2 thành phần: tiết kiệm chính phủ hay tiết kiệm của
khu vực công và tiết kiệm tư nhân, được thể hiện lần lượt bởi:
trong đó T là thuế được thu bởi chính phủ. Do đó, Phương trình (3) và (4) có thể được sắp
xếp lại lần lượt thành:
(T – G) đại diện cán cân ngân sách chính phủ GB và chỉ ra rằng ngân sách thặng dư nếu T
lớn hơn G. Tương tự, nếu CA > 0 (hoặc TB > 0), quốc gia trải qua một sự thặng dư tài
khoản vãng lai (hay một sự thặng dư cán cân thương mại). Thay vì thế, nếu thuế T nhỏ hơn
chi tiêu chính phủ G thì quốc gia được xác định là rơi vào thâm hụt ngân sách. Nếu CA <
0 (hay TB < 0) thì sẽ có một sự thâm hụt tài khoản vãng lai (hay một sự thâm hụt cán cân
thương mại). Tài khoản vãng lai cho thấy quy mô và xu hướng vay mượn quốc tế của một
quốc gia. Khi một quốc gia nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, quốc gia này sẽ tài trợ cho tài
khoản vãng lai CA thâm hụt bằng cách vay nước ngoài. Nói cách khác, một quốc gia bị
thâm hụt tài khoản vãng lai CA đang nhập khẩu tiêu dùng và/hoặc đầu tư hiện tại (nếu
được ngoại thương) và đang xuất khẩu tiêu dùng và/hoặc đầu tư tương lai.
(S – I) là cán cân tiết kiệm-đầu tư của khu vực tư nhân. Thành phần này đặc biệt quan
trọng để định hình nên đồng nhất thức (7) và (8). Nếu chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư
của khu vực tư nhân là ổn định thì cán cân ngân sách chính phủ và tài khoản vãng lai sẽ
NHÓM 4_TCC_K25
6
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
biến động cùng nhau và với một lượng như nhau; tức là chúng là “kép” (twins). Mặc dù
vậy, nếu những thay đổi trong thâm hụt ngân sách được bù đắp hoàn toàn bởi thay đổi
trong tiết kiệm theo giả thuyết cân bằng của Ricardo (Ricardian equivalence hypothesis)
thì những biến động trong ngân sách và tài khoản vãng lai trở nên không có mối liên hệ
với nhau.
4. TỔNG QUAN VỀ NHÓM NƯỚC GIIPS
Bảng 2 cung cấp cái nhìn tổng quan về tình trạng bên ngoài của Bồ Đào Nha, Ireland,
Ý, Hy Lạp, và Tây Ban Nha trong suốt 32 năm qua. Ngoại trừ Ireland, tất cả các quốc gia
cho thấy những giá trị âm ở tài khoản vãng lai và trong tiểu khoản cán cân thương mại. Bồ
Đào Nha, Hy Lạp và Tây Ban Nha có mức thâm hụt trong cán cân thương mại lớn hơn
trong tài khoản vãng lai. Điều này có nghĩa là những thay đổi trong các mẫu hình thương
mại là yếu tố tác động chính đối với tài khoản vãng lai của các nước này. Hy Lạp là nước
có mức độ mất cân bằng thương mại cao nhất; tức là, đây là một nước nhập khẩu ròng hàng
hóa và dịch vụ. Ngược lại, kể từ năm 2006, Ý cho thấy mức thâm hụt cán cân thương mại
thấp hơn thâm hụt tài khoản vãng lai. Điều này có nghĩa rằng các nghĩa vụ nợ phải trả nước
ngoài của Ý đã góp phần làm tăng đáng kể thâm hụt tài khoản vãng lai. Ireland cho thấy
một đặc điểm riêng: nước này bị âm ở tài khoản vãng lai và thặng dư ở cán cân thương mại
qua thời gian. Điều này phản ánh sự thật rằng trong khi xuất khẩu hàng hóa nhiều hơn nhập
khẩu, nguốn vốn đi ra và chuyển nhượng thì đủ cao để bù đắp bất kỳ khoản thặng dự thương
mại nào.
Bảng 2
Tình trạng bên ngoài của GIIPS
Nói chung, việc phân biệt bản chất của thâm hụt tài khoản vãng lai là cần thiết. Chẳng hạn,
nếu một sự thâm hụt tài khoản vãng lai được tài trợ từ các dòng vốn vào dài hạn, thì điều
này có thể có lợi cho nền kinh tế. Đầu tư trong nước có thể làm tăng năng lực sản xuất của
NHÓM 4_TCC_K25
7
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
nền kinh tế. Điều này là do tài khoản vãng lai có thể được diễn giải như là sự khác nhau
giữa tiết kiệm và đầu tư quốc gia. Do đó, một sự thâm hụt tài khoản vãng lai có thể phản
ánh một mức độ tiết kiệm quốc gia thấp tương đối so vối đầu tư hay nói cách khác là một
tỷ lệ đầu tư cao. Như vậy, một sự thâm hụt ngắn hạn thì chưa thành vấn đề. Tuy nhiên, nếu
thâm hụt trở nên quá lớn và dai dẳng xét theo tỷ lệ trên GDP, điều này có thể nguy hiểm
vì nó trở thành một tín hiệu của sự yếu kém về cấu trúc và một số lĩnh vực ngoại thương
kém cạnh tranh, và có thể dẫn đến những đảo chiều mạnh. Những đảo chiều có thể mang
đến sự phá hoại cực kỳ lớn khi tiêu dùng cá nhân, đầu tư và chi tiêu chính phủ phải cắt
giảm đột ngột trong khi nguồn tài trợ từ nước ngoài không còn tiếp cận được nữa và một
quốc gia cần phải có thặng dư đáng kể để nhanh chóng hoàn trả các khoản vay trong quá
khứ. Do đó, một cách độc lập từ các nguyên nhân của việc thâm hụt tài khoản vãng lai,
việc quan tâm là cần thiết để giải quyết các khoản thâm hụt lớn và kéo dài liên tục trong
trường hợp quốc gia có một sự đảo chiều dòng vốn tài trợ đột ngột (Ghosh và
Ramakrishnan, 2006).
Bảng 3
Tình trạng tài khóa của GIIPS
Theo số liệu cán cân ngân sách chính phủ (Bảng 3), Ý, Hy Lạp, và trong một mức độ nhất
định là Bồ Đào Nha, đã trải qua các thâm hụt quan trọng trước khi áp dụng đồng euro. Sau
đó, Ý đã duy trì tỷ lệ thâm hụt dưới 3.60%, trong khi Hy Lạp, và trong những năm cuối,
Ireland và Tây Ban Nha đã ghi nhận sự thâm hụt nghiêm trọng. Điều này có nghĩa là chi
tiêu hiện nay thì cao hơn thu ngân sách hiện tại, và những khoản thâm hụt này sẽ góp phần
gia tăng nợ công. Việc tài chính công đi xuống gần đây của nhóm GIIPS được thấy rõ ràng
từ các cột lãi suất những trái phiếu chính phủ 10 năm. Giai đoạn 2011 – 2012, Hy Lạp và
Bồ Đào Nha đã đạt đến lãi suất lần lượt khoảng 19% và 12%. Những giá trị này mặc dù
thấp hơn so với những giá trị ghi nhận trước khi áp dụng đồng euro, nhưng là rắc rối vì
NHÓM 4_TCC_K25
8
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
chúng là tín hiệu của sự dễ dàng bị tổn thương về tài khóa và cho thấy GIIPS, đặc biệt là
Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Ireland là những khu vực rủi ro cao nhất của thị trường xét về mặt
bền vững của tài chính công và do đó cũng là về mặt vỡ nợ. Thật vậy, lãi suất càng cao thì
sự chênh lệch với Deutsche Bund càng cao.
5. PHƯƠNG PHÁP
Để kiểm tra mối quan hệ giữa cán cân ngân sách, tài khoản vãng lai, và cán cân thương
mại, hai phương pháp đã được sử dụng. Phương pháp đầu tiên là kiểm định nhân quả theo
truyền thống của Granger (1969), dựa trên mô hình vector tự hồi quy được định nghĩa bên
dưới:
hoặc
Đặc biệt hơn, kiểm định nhân quả Granger trong mô hình vector tự hồi quy để xác định
có hay không một biến (CA hoặc TB) có thể dự đoán được bởi biến khác (GB) nếu việc
đưa vào các quan sát trong quá khứ (độ trễ của của GB) giảm sai số dự báo của CA (hoặc
TB) và GB, cũng như so sánh với một mô hình chỉ bao gồm các quan sát trước đó của CA
hoặc TB.
Kiểm định nhân quả Granger xem xét giả thuyết không (H0) và giả thuyết thay thế (H1)
như sau:
H0: 1 = 2 =…= k = 0
vs
H1: 1 ≠ 2 ≠...≠ k ≠0
(13)
Khi giả thuyết H0 không thể bác bỏ đồng nghĩa với việc GB không có quan hệ nhân quả
Granger với CA (hoặc TB).
Tương tự, kiểm định nhân quả Granger kiểm định
H0:
1=
2 =.....=
k
=0
vs H1:
1≠
2 ≠....≠
k
≠0
(14)
Tức là CA (hoặc TB) không có quan hệ nhân quả Granger với GB, đối nghịch lại với
các giả thuyết thay thế khác rằng CA (hoặc TB) có quan hệ nhân quả Granger với GB.
Phương pháp thứ hai sử dụng cho nghiên cứu thực nghiệm là kỹ thuật Toda-Yamamoto
(T-Y) (1995). Phương pháp này sử dụng thống kê có điều chỉnh Wald để kiểm tra mức ý
NHÓM 4_TCC_K25
9
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
nghĩa của các thông số làm tăng phương sai của mô hình VAR (k+dmax), k là độ trễ của hệ
thống và dmax là tối đa các thứ tự hợp nhất trong mô hình. Điều này đảm bảo tiệm cận 2
phân bố trong kiểm định Wald. Độ trễ của các biến trong mô hình nhân quả được thiết lập
độ hữu dụng của mô hình để đưa đến một phương sai VAR hợp nhất hay không. Vì độ trễ
của các biến phụ thuộc hiện ra trong mỗi phương trình của mô hình nhân quả, sự tác động
của chúng được kỳ vọng có thể loại bỏ một loạt mối tương quan giữa chúng với các biến
còn lại.
Phương pháp tiếp cận của Toda và Yamamoto là một cách tiếp cận kiểm định nhân
quả thay thế dựa trên những phương trình không có quan hệ nhân quả Granger, nhưng một
sự gia tăng của các độ trễ được xác định bởi thứ tự kết hợp tiềm năng có thể của một loạt
các kiểm định nhân quả. Thêm vào đó, kiểm định T-Y được thực hiện trong mô hình VAR với
cùng một mức sai phân.
Tóm lại, phương pháp T-Y bao gồm hai bước. Trước tiên, xác định các tham số k và d
trong mô hình VAR. Thứ hai, kiểm định Wald dựa trên ma trận hệ số tương quan k VAR
được thực hiện để kiểm định nhân quả Granger. Để kiểm định giả thuyết H0, kiểm định TY xác nhận rằng thống kê Wald tập trung vào sự phân bố của biến ngẫu nhiên 2 với k bậc
tự do, bất kể trong quá trình thiết lập có hay không tính dừng hoặc đồng liên kết.
Như vậy, phương pháp này tối thiểu hóa các rủi ro liên quan đến việc nhận diện sai
bậc của kết hợp của các biến hoặc sự hiện diện của đồng liên kết. Thêm vào đó, nó tối thiểu
hóa khả năng sai lệch kích cỡ kiểm định, kết quả thường thấy của quá trình kiểm thử.
6. DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu hàng quý từ 1980Q2 đến 2012Q2 để xem xét mối liên
hệ nhân quả giữa các biến. Một cách minh bạch, cán cân ngân sách Chính phủ như là một
tỷ lệ phần trăm của GDP (GB), tài khoản vãng lai như là một tỷ lệ phần trăm của GDP
(CA), và cán cân thương mại như là một tỷ lệ phần trăm của GDP (TB). Cán cân Chính
phủ được định nghĩa dựa theo định nghĩa của Maastricht. Dữ liệu được lấy từ Datastream.
Chi tiết thông tin dữ liệu và đặc tính của các biến được báo cáo trong phần Phụ lục.
Đầu tiên, Augmented Dickey-Full (ADF) (1979), Phillip-Perron (PP) (1988), và
Kwiatkowski cùng cộng sự (KPSS) (1992) kiểm định tính dừng của một loạt các mức độ.
Kết quả được thể hiện trong phần Phụ lục (Bảng A2 và A3). Kiểm định nghiệm đơn vị
của ADF và PP cung cấp một bằng chứng mạnh mẽ về sự hiện diện của các mức sai phân
NHÓM 4_TCC_K25
10
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
của các biến chính trong mô hình; một số biến có tính dừng. Do đó, xem xét việc lấy sai
phân bậc 1 của các biến chưa dừng bằng các kiểm định lại nghiệm đơn vị. Kết quả tìm thấy
chỉ ra rằng tất các những biến không có tính dừng sẽ có tính dừng khi lấy sai phân bậc 1
(bảng A2, Phụ lục). Kiểm định KPSS xác nhận kết quả của hầu hết các kiểm định ADF và
PP và những công cụ để làm rõ nguyên nhân khi mà những tìm kiếm của ADF và PP là
trái ngược nhau.
Đó là một thông báo có giá trị khi mà kiểm định nhân quả Granger quan tâm đến tính
dừng của các biến (sử dụng các biến trong những khác biệt thứ nhất hoặc thứ hai khi chúng
tại mức I(1) hoặc I(2)), phương pháp Y-T sử dụng mức độ của các biến. Tuy nhiên, phương
pháp Y-T có thể được xem xét chỉ nếu các biến là I(1) hoặc I(2) tại một mức độ. Nếu chúng
tại mức độ I(0) thì kiểm định nhân quả Granger phải được áp dụng. Kết quả của kiểm định
nhân quả Granger và kiểm định Toda-Yamamoto cho mỗi quốc gia được báo cáo trong
phần Phụ lục.
Việc lựa chọn độ trễ của hai phương pháp dựa trên kiểm định có thứ tự trong mô hình
VAR bằng cách sử dụng chỉ số AI và chỉ số LR có hiệu chỉnh, ước lượng dự báo cuối cùng,
và chỉ số SIC. Khi một vài điều kiện chỉ ra những kết quả trái ngược, số lượng các độ trễ
được chọn dựa trên số lượng cao nhất các điều kiện chỉ ra cùng một kết quả.
Vì lý do đó tôi kiểm định hai bộ kiểm định nhân quả Granger cho mỗi quốc gia. Bộ kiểm
định đầu tiên quan tâm đến mối quan hệ giữa cán cân thương mại và cán cân ngân sách:
nếu thâm hụt thương mại gây ra thâm hụt ngân sách (thâm hụt thương mại thâm hụt
ngân sách), nếu thâm hụt ngân sách gây ra thâm hụt thương mại ( thâm hụt ngân sách
thâm hụt thương mại), nếu có mối liên hệ nhân quả một chiều (thâm hụt ngân sách ↔ thâm
hụt thương mại), hoặc không có mối liên hệ nhân quả giữa hai biến. Bộ kiểm định thứ hai
quan tâm đến mối liên hệ giữa tài khoản vãng lai và thâm hụt ngân sách theo cách tương
tự.
Kết quả chỉ ra sự vắng mặt của bất kỳ mối liên hệ một chiều hoặc hai chiều giữa cán cân
thương mại và thâm hụt ngân sách, giữa cán cân vãng lai và thâm hụt ngân sách cho trường
hợp của Hy Lạp (Bảng A4), Ý (Bảng A8), và Bồ Đào Nha (Bảng A10). Các giả thuyết
không thể bị bác bỏ tại mức ý nghĩa 5%. Tây Ban Nha chỉ ra một vào dấu hiệu của giả
thuyết thâm hụt kép; đó là, thâm hụt ngân sách dẫn tới thâm hụt cán cân vãng lai (Bảng
A12). Một điều quan trọng cần chú ý là tuyên bố “thâm hụt ngân sách Granger gây ra thâm
hụt tài khoản vãng lai” không hàm ý rằng thâm hụt tài khoản vãng lai là ảnh hưởng hoặc
NHÓM 4_TCC_K25
11
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
kết quả của thâm hụt ngân sách. Sự ưu tiên ước lượng nhân quả Granger và nội dung thông
tin, nhưng không tự nó chỉ ra nguyên nhân trong việc sử dụng phổ biến hơn các kỳ hạn.
Hơn nữa, kiểm định nhân quả Granger chỉ ra có hay không có một biến dẫn đến một biến
khác. Trường hợp của Ireland, Kiểm định nhân quả Granger (Bảng A6) chỉ ra rằng cán cân
ngân sách dẫn đến cán cân tài khoản vãng lai, nhưng một mối quan hệ đảo ngược xảy ra từ
cán cân thương mại đến cán cân ngân sách.
Theo phương pháp Toda – Yamamoto, một khi VAR được chỉ định, kiểm định LM cho
một loạt các độc lập đối nghịc lại với sự thay thể của AR(k)/MA(k), với k=1,2, ..., 12 được
áp dụng để kiểm tra sự vắng mặt của một loạt các mối tương quan với phần còn lại. Nếu
cần, số lượng các độ trễ k được gia tăng cho tới khi vấn đề tự tương quan được giải quyết.
Sau đó việc lựa chọn VAR được tăng thêm, thêm d độ trễ tăng thêm cho mỗi biến trong
mỗi phương trình. Mỗi mô hình ước lượng cũng được kiểm tra tính vững, bằng cách sử
dụng mô hình gốc đảo ngược của một đa thức đặc trưng AR.
Phương pháp Toda-Yamamoto xác nhận kết quả nhận diện với kiểm định nhân quả
Granger truyền thống. Đặc biệt, kết quả cho Hy Lạp (Bảng A5) và Ý (Bảng A9) cho thấy
rằng người ta không thể bác bỏ sự vô hiệu của giả thuyết, không có mối quan hệ nhân quả
giữa các biến được xét. Kết quả cho Tây Ban Nha (Bảng A13) chỉ ra rằng có thể bác bỏ
giả thuyết vô hiệu không có mối liên hệ nhân quả giữa cán cân ngân sách và cán cân tài
khoản vãng lai ở mức ý nghĩa 10%, trong khi không thể bác bỏ giả thuyết vô hiệu giữa cán
cân ngân sách và cán cân thương mại. Kết quả cho Ireland (Bảng A7) đưa ra rằng mối
quan hệ dịch chuyển từ cán cân thương mại đến cán cân ngân sách, nhưng kiểm định tính
dừng của mô hình chỉ ra sự bất ổn (Biểu đồ 3 và 4).
Tổng hợp lại, cả hai kiểm định cung cấp sự ủng hộ giả thuyết tương đương Ricardo cho
trường hợp của Bồ Đào Nha, Ý và Hy Lạp. Điều này có nghĩa là thâm hụt tài khóa không
tác động đến thâm hụt tài khoản vãng lai, vì thế sau cùng có thể đầu tư tư nhân nguyên
mẫu và quyết định tiết kiệm, hoặc có thể vì các nhân tố liên quan đến nền kinh tế và sự hội
nhập tài chính dẫn tới những thất bại sâu sắc trên thị trường cạnh tranh quốc tế. (Algieri,
2011). Điều này khuyến nghị rằng các chính sách chỉ dẫn cắt giảm thâm hụt ngân sách
bằng một sự gia tăng thuế , và gián tiếp cắt giảm thâm hụt bên ngoài vì sự cắt giảm nhập
khẩu được gây ra bởi một sự sụt giảm thu nhập khả dụng, sẽ chắc chắn không phải là một
mục tiêu hiệu quả để theo đuổi.
NHÓM 4_TCC_K25
12
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
Một lần nữa, cả hai kiểm định chỉ ra một điểm yếu trong giả thuyết thâm hụt ngân sách
kép cho trường hợp của Tây Ban Nha rằng có dịch chuyển từ GB đến CA, nhưng không
có mối liên quan giữa GB và TB. Điều này nhấn mạnh một mối liên hệ nổi lên, mặc dù
yếu, giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai khi thu nhập ròng và chuyển
giao ròng được xem xét.
Trường hợp của Ireland, cả hai kiểm định chỉ ra rằng một giả thuyết mục tiêu cho cán
cân thương mại – nghĩa là một sự gia tăng trong thặng dư cán cân thương mại sẽ khuyến
khích Chính phủ tăng chi tiêu và thâm hụt ngân sách hoặc giảm thặng dư ngân sách – một
giả thuyết thâm hụt kép cho tài khoản vãng lai, đó là một cú sốc thâm hụt ngân sách tích
cực sẽ làm suy yếu cán cân vãng lai. Hai kết quả khác nhau, trong thời hạn của quan hệ
nhân quả, có thể được giải thích bởi hiệu ứng ngược của thương mại Ireland và cán cân tài
khoản vãng lai và vai trò của các dòng chảy vốn và chuyển giao. Tuy nhiên, khác với Hy
Lạp, Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, khi chúng tôi kiểm định tính vững, mô hình của Ireland
không được như ý. Rõ ràng việc sử dụng mô hình gốc đảo ngược của một đa thức đặc trưng
AR (Biểu đồ 3 và 4) nằm ngoài vòng tròn đơn vị. Do đó, các kết quả trong trường hợp của
Ireland cần được thực hiện một cách thận trọng.
Vì vậy, kết quả của bài nghiên cứu chỉ ra rằng phương pháp nhân quả không ảnh hưởng
đến nguyên nhân kết quả, thay vì như thế, chúng củng cố thêm cho chúng. Một bảng tóm
tắt các kết quả tìm thấy được trình bày trong Bảng 4.
7. KẾT LUẬN
Bài nghiên cứu hiện tại xem xét thực nghiệm mối quan hệ nhân quả giữa cán cân
thương mại và cán cân ngân sách Chính phủ trên một khía cạnh và sự liên quan giữa cán
cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân sách trên một khía cạnh khác. Việc phân tích, dựa
NHÓM 4_TCC_K25
13
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
trên xếp hạng dự liệu hàng quý từ 1980Q2 đến 2012Q2, tập trung đến các nước Hy Lạp,
Ireland, Ý, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
Bài nghiên cứu dựa trên hai phương pháp: phương pháp kiểm định nhân quả Granger
truyền thống và kiểm định Toda-Yamamoto. Kết quả chính của bài nghiên cứu có thể được
tóm lược như sau:
1. Thú vị là, không có sự liên kết hệ thống giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài
khoản vãng lai và giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại.
2. Kết quả được duy trì như nhau, bất kể kỹ thuật nhân quả thay đổi.
3. Một sự cắt giảm thâm hụt công không đủ để giảm thâm hụt cân bằng bên ngoài.
4. Mô hình thỏa mãn điều kiện tính dừng của bốn quốc gia bên ngoài nhóm GIIPS bởi
vì tất cả các việc sử dụng mô hình gốc đảo ngược của một đa thức đặc trưng AR
nằm ngoài vòng tròn liên kết.
Điều này chỉ ra rằng mối quan hệ giữa thâm hụt công và thâm hụt tài khoản vãng lai
thì phức tạp hơn giả thuyết thâm hụt kép, và giả thuyết tài khoản vãng lai mục tiêu được
đưa ra. Điều này xảy ra bởi vì vấn đề đầu tư và tiết kiệm, cũng như các vấn đề khác về cơ
bản theo các xu hướng của nền kinh tế.
Kết quả của quan hệ nhân quả chỉ ra rằng quá trình này tiến triển theo một chiều, việc
giảm bớt thâm hụt ngân sách chính phủ, không đóng góp vào việc giảm sự mất cân đối cán
cân bên ngoài. Do đó, hạn chế của chính sách tài khóa có thể không thành công trong việc
tạo ra thặng dư cán cân tài khoản vãng lai (hoặc cán cân thương mại). Ngược lại, chính
sách tài khóa thắt chặt có thể giúp cải thiện cán cân ngân sách và phù hợp với điều kiện
thâm hụt ngân sách dưới việc cung cấp các điều kiện về tăng trưởng và phát triển, được
thiết lập như một tỷ lệ thâm hụt/ GDP thấp hơn 3%. Tuy nhiên, trong sự hiện diện của một
chính sách tài khóa nghiêm ngặt, điều đó dường như thật khó để tăng thuế và cắt giảm tài
chính hơn nữa. Một sự cắt giảm trong chi tiêu chính phủ, hoặc chi tiêu tư nhân bởi vì mức
thuế cao hơn, có thể làm cho nền kinh tế co lại và thất nghiệp gia tăng, làm cho tình trạng
trở nên xấu hơn.
Thay vào đó, các nhà hoạch định chính sách đưa ra các gói kích thích kinh tế để thúc
đẩy tăng trưởng và tạo ra thặng dư thương mại. Trong tình huống này, để đạt cân bằng bên
ngoài, các nước GIIPS nên thích ứng với chính sách định dưới giá bên trong (“internal
devaluation” policy). Điều này có nghĩa là bởi vì 5 quốc gia không thể giảm giá trị danh
nghĩa của đồng tiền, để cải thiện cân bằng bên ngoài họ nên cải thiện mức độ cạnh tranh
NHÓM 4_TCC_K25
14
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
thực bằng việc cắt giảm việc tăng giá nội địa và cải thiện chất lượng hàng hóa và dịch vụ
thương mại. Đây là sản phẩm phụ của việc gia tăng năng suất như là thành tựu của việc cải
thiện công nghệ bởi hiệu quả đầu tư và được thúc đẩy bởi một chính sách tiền tệ nới lỏng
tại khu vực đồng Euro. Điều này cũng tránh bất kỳ sự từ bỏ khu vực đồng tiền Euro.
Lời cảm ơn
Tác giả chân thành biết ơn Biên tập viên, Ali M. Kutan, Giáo sư Antonio Aquino, và
hai trọng tài vô danh về những lời bình luận và khuyến nghị sâu sắc của họ. Tác giả cũng
chân thành cảm ơn sự hỗ trợ tài chính của Calabria Region, Italy (Chương trình nghiên cứu
khoa học CALCO về “Cạnh tranh khu vực và đổi mới”).
NHÓM 4_TCC_K25
15
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
PHỤ LỤC
Bảng A1
Các biến được xem xét
Bảng A2
Kiểm định nghiệm đơn vị bằng Dickey-Fuller Điều chỉnh và Phillips-Perron
NHÓM 4_TCC_K25
16
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
Bảng A3
Kiểm định Kwiatkowski-Phillips-Schmidt-Shin
NHÓM 4_TCC_K25
17
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÂN BẰNG BÊN NGOÀI VÀ CÁN CÂN
NGÂN SÁCH CHÍNH PHỦ TẠI CÁC QUỐC GIA GIIPS
Bảng A4
Kiểm định quan hệ nhân quả Granger từng cặp của Hy Lạp, mẫu: 1980Q2 – 2012Q2
Bảng A5
Toda-Yamamoto: kiểm định Wald hiệu chỉnh, mẫu: 1980Q2 – 2012Q2 số quan sát được
bao gồm: 124 và 121
NHÓM 4_TCC_K25
18
- Xem thêm -