Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phân tích tài chính tại Công ty TNHH một thành viên Đầu tư và phát triển nông ng...

Tài liệu Phân tích tài chính tại Công ty TNHH một thành viên Đầu tư và phát triển nông nghiệp Hà Nội

.PDF
80
64783
196

Mô tả:

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.1 Tổng quan về tài chính tài chính doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp Tài chính là thuật ngữ kinh tế, sử dụng để miêu tả các mối quan hệ giá trị trong việc phân phối của cải giữa các thành phần xã hội. Trong đó, tài chính doanh nghiệp là lĩnh vực phát sinh trong quá trình tạo lập, duy trì và phát triển các quỹ tiền tệ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trong quá trình này, doanh nghiệp phát sinh các quan hệ kinh tế, bao gồm: Thứ nhất, mối quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước Tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều hoạt động trong môi trường pháp luật được Nhà nước bảo hộ, được đảm bảo an ninh trật tự. Do đó, doanh nghiệp cần thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước thông qua việc đóng thuế và các lệ phí khác đầy đủ. Ngoài ra, ngân sách Nhà nước có thể cấp vốn cho doanh nghiệp nhà nước, góp vốn liên doanh, mua cổ phiếu để trở thành chủ sở hữu hay cho vay thông qua mua trái phiếu với tỉ lệ ít hay nhiều tùy thuộc vào mục tiêu quản lí kinh tế. Thứ hai, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế khác Mối quan hệ này vô cùng đa dạng với nhiều hình thức thể hiện, doanh nghiệp có thể đóng những vai trò khác nhau trong quan hệ với từng chủ thể khác nhau. Theo đó, doanh nghiệp có thể là bên cho vay khi đang dư thừa vốn hay có thể bên đi vay khi cần huy động vốn. Doanh nghiệp là đơn vị huy động các nguồn lực đầu vào thông qua việc mua nguyên vật liệu từ các đơn vị khác, thuê mướn nhân công, chi trả các dịch vụ phát sinh, đồng thời, doanh nghiệp cũng là đơn vị cung cấp dịch vụ, bán hàng hóa, thành phẩm cho các đơn vị khác có nhu cầu. Như vậy, trong mối quan hệ này, doanh nghiệp là một mắt xích trong mạng lưới quan hệ mua bán, trao đổi, vay mượn phức tạp về cả nguồn vốn và tài sản. Thứ ba, quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp gồm có mối quan hệ giữa các phòng ban, phân xưởng, tổ đội sản xuất và mối quan hệ giữa cá nhân trong từng bộ phận. Mối 1 quan hệ này mang nặng tính vi mô, tương đối phức tạp và phản ánh đặc trưng của mỗi doanh nghiệp. Như vậy, ta có thể hiểu: Tài chính doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính, các quỹ tiền tệ trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu nhất định. 1.1.2. Chức năng tài chính doanh nghiệp 1.1.2.1 Đảm bảo nguồn vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh Yêu cầu đầu tiên trong việc xây dựng một doanh nghiệp là yêu cầu về vốn hoạt động. Tài chính doanh nghiệp đóng góp phần quan trọng vào việc đảm bảo huy động và sử dụng nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh được hiệu quả. Chức năng này được cụ thể hóa như sau: Thứ nhất, xác định nhu cầu vốn cố định và vốn lưu động trong cần phải đáp ứng để phục vụ hoạt động kinh doanh. Thứ hai, đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu vốn, so sánh nhu cầu với khả năng để quyết định phương án hoạt động. Nếu nhu cầu vượt quá khả năng đáp ứng hiện tại thì cần huy động thêm vốn, tìm kiếm nguồn tài trợ mới với chi phí càng thấp càng tốt. Nếu nhu cầu vốn nhỏ hơn khả năng có thể đáp ứng thì doanh nghiệp có thể quyết định mở rộng sản xuất hay đầu tư tài chính để gia tăng lợi nhuận. Thứ ba, lựa chọn nguồn vốn và phương thức thanh toán sao cho chi phí sử dụng vốn phải trả là thấp nhất trong khoảng thời gian hợp lý 1.1.2.2. Chức năng phân phối thu nhập Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong kì thể hiện ở doanh thu bán hàng và thu nhập từ hoạt động khác, sau khi được tập hợp lại sẽ được phân phối với theo trình tự nhất định. Đầu tiên là bù đắp các hao tổn trong quá trình kinh doanh gồm có giá vốn, chi phí bán hàng và quản lí doanh nghiệp, chi phí lãi vay và các chi phí khác. Sau đó thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Cuối cùng là phần trích quỹ doanh nghiệp và phân chia lợi nhuận cho chủ sở hữu. 1.1.2.3 Chức năng giám đốc Giám đốc là việc kiểm tra, kiểm soát quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp thực hiện chức năng này thông qua việc thu thập số liệu về tình hình kinh doanh, tính toán các chỉ tiêu tài chính, và theo dõi sự 2 Thang Long University Library biến động của các chỉ tiêu này. Trên cơ sở đó, giúp cho chủ thể quản lí phát hiện những khâu mất cân đối, những khiếm khuyết trong công tác điều hành, quản lý kinh doanh, đánh giá được tác động đến tình hình tài chính. Từ đây, đưa ra quyết định ngăn chặn kịp thời các khả năng tổn thất có thể xảy ra, nhằm duy trì và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2. Tổng quan phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp 1.2.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp Tài chính doanh nghiệp là phạm trù ảnh hưởng toàn diện và sâu rộng đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó, tác động trực tiếp đến lợi ích của bên liên quan đến doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải ai cũng có đủ kiến thức, thời gian để từ những con số báo cáo do doanh nghiệp công bố, phân tích và đưa ra ngay các nhận xét về quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ hoặc vốn hoạt động của doanh nghiệp liệu có phù hợp với mục tiêu kinh doanh hay không. Do đó, phân tích tài chính xuất hiện như một bước quan trọng chiết xuất thông tin từ báo cáo của doanh nghiệp trở thành các thông tin dễ hiểu, cụ thể, phù hợp với nhu cầu riêng của các chủ thể. Từ đó, trở thành đầu vào quan trọng của các quyết định kinh tế. Phân tích tài chính doanh nghiệp là quá trình kiểm tra, xem xét các số liệu về tài chính hiện tại và quá khứ nhằm mục đích đánh giá thực trạng tài chính, dự tính rủi ro và tiềm năng phát triển của doanh nghiệp, trên cơ sở đó giúp cho người sử dụng thông tin phân tích đưa ra các quyết định tài chính có liên quan tới lợi ích của mình đối với doanh nghiệp. 1.2.2 Sự cần thiết phải phân tích tài chính doanh nghiệp Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều có ảnh hưởng tới tình hình tài chính của doanh nghiệp và ngược lại tình hình tài chính doanh nghiệp tốt hay xấu đều có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này đặt ra yêu cầu phải thường xuyên theo dõi đánh giá kịp thời, kiểm tra tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua công tác phân tích, tổng hợp các thông tin tài chính. Tình hình tài chính của doanh nghiệp như đã nói ở trên, bao hàm rất nhiều những mối quan hệ khác nhau và mỗi chủ thể của từng mối quan hệ đó lại có những mối quan tâm khác nhau đối với doanh nghiệp. Do đó, sự cần thiết của hoạt động phân tích cần được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau, cụ thể như sau: 1.2.2.1. Đối với người quản lý doanh nghiệp Nhà quản trị doanh nghiệp là người đầu tiên phải chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Họ là người hoạch định chiến lược phát triển, 3 điều hành hoạt động thường ngày hay đối phó với những sự cố doanh nghiệp gặp phải. Với vai trò chủ chốt đó, nhà quản trị luôn có nhu cầu thông tin tài chính lớn nhất, chi tiết nhất có thể. Đây cũng là nguồn gốc sâu xa cho sự hình thành và phát triển của hệ thống kế toán quản trị như ngày nay. Trong đó, phân tích TCDN có nhiệm vụ quan trọng, cụ thể như sau: Giúp nhà quản lý đưa ra những quyết định ngắn hạn đúng đắn và xây dựng chiến lược đầu tư dài hạn hợp lí. Phân tích tài chính được hình thành bắt nguồn từ nhu cầu thông tin trong nội bộ doanh nghiệp và các bên hữu quan để làm cơ sở cho những quyết định liên quan đến lợi ích của mình. Vai trò này thể hiện xuyên suốt trong mọi khía cạnh của hoạt động phân tích. Ví dụ như, từ việc phân tích hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp, nhà quản lý sẽ cân nhắc nên đầu tư vào loại tài sản nào cho phù hợp. Phân tích khả năng quản lí nợ là cơ sở cho các quyết định vay nợ nhiều hơn hay không, kế hoạch trả gốc và lãi sao cho hợp lí, hay làm cách nào để hạn chế doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn thông qua tín dụng thương mại, thu hồi hay bán nợ xấu ra sao. Thêm nữa, dựa vào việc phân tích diễn biến sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn, các nhà quản trị tài chính sẽ nhận định về tình hình cân đối vốn của doanh nghiệp, từ đó quyết định tăng giảm các khoản mục nguồn vốn cũng như quyết định cách thức huy động vốn hợp lý nhất. Nhà quản lý doanh nghiệp phải lựa chọn xem doanh nghiệp nên huy động vốn từ nguồn nào và với cơ cấu thế nào sao cho chi phí cho mỗi đồng vốn vay là thấp nhất. Giúp dự báo tình hình TCDN trong tương lai Phân tích các chỉ tiêu tài chính trong một giai đoạn gồm nhiều năm liên tiếp sẽ là định hướng đáng tham khảo cho các nhà quản lí trong việc dự báo xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Kết hợp với các thông tin về ngành nghề kinh doanh, sự biến động kinh tế, chính trị, xã hội chung, để xây dựng những chương trình hoạt động phù hợp, khai thác triệt để các thể mạnh của doanh nghiệp, phát huy các thành tích đã đạt được, đồng thời không ngừng khắc phục hạn chế trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.2.2.2. Đối với chủ sở hữu doanh nghiệp Trong mối quan hệ này, chủ sở hữu được tách biệt vai trò với nhà quản lí doanh nghiệp. Họ là những nhà đầu tư và hi vọng kiếm lời từ khoản đầu tư của mình. Do đó, mối quan tâm hàng đầu của đối tượng này là khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Doanh nghiệp càng hoạt động hiệu quả, lợi ích của chủ sở hữu càng cao. 4 Thang Long University Library Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp cung cấp cho chủ sở hữu cái nhìn tổng quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu báo cáo phân tích TCDN chỉ ra doanh nghiệp đang làm ăn có lãi ở hiện tại và triển vọng cao trong tương lai thì các nhà đầu tư sẽ quyết định đầu tư vào doanh nghiệp với mục đích kiếm lời. Còn trong trường hợp doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài, dự báo về doanh thu ảm đạm, không có tiềm năng tăng trưởng, không những doanh nghiệp khó có khả năng huy động thêm vốn từ nhà đầu tư mà thậm chí, các chủ sở hữu hiện tại cũng có thể rút vốn để bảo toàn lợi ích. 1.2.2.3. Đối với cơ quan quản lý nhà nước Cơ quan thuế là đơn vị quan tâm nhiều và thường xuyên nhất đến các báo cáo TCDN nhằm xác định số thuế phải nộp của doanh nghiệp trong kì. Hoạt động phân tích tài chính là cơ sở cho các cơ quan quản lí Nhà nước thực hiện quá trình kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính, tiền tệ của doanh nghiệp theo yêu cầu pháp luật; cảnh báo, xử lý ngay những doanh nghiệp có dấu hiệu gian lận, bất thường trong kinh doanh. 1.2.2.4. Đối với chủ nợ của doanh nghiệp Chủ nợ của doanh nghiệp là những người cho doanh nghiệp vay vốn, bao gồm các ngân hàng, các tổ chức kinh tế hay cá nhân cho vay. Phân tích tài chính cung cấp cho các đối tượng này thông tin về khả năng sinh lời trong kinh doanh, tình hình đảm bảo tài sản cho các khoản vay hay khả năng thanh toán hiện thời. Thông thường, chủ nợ sẽ quyết định cho các doanh nghiệp có tình hình kinh doanh ổn định, thanh toán tốt và nhiều tài sản thế chấp vay nhiều hơn với các điều kiện thanh toán nới lỏng và lãi suất ưu đãi. Ngược lại, nếu phân tích tài chính chỉ ra rằng doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tình hình kinh doanh hay tính thanh khoản thấp, rủi ro mất khoản tiền đầu tư sẽ làm các chủ nợ cẩn trọng hơn khi quyết định cho vay. 1.2.3 Tài liệu sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp 1.2.3.1 Thông tin bên trong doanh nghiệp Phân tích tài chính doanh nghiệp bản chất là quá trình biến đổi các số liệu, bằng chứng, thông tin thu thập được về hoạt động sản xuất kinh doanh để từ đó, thực hiện các tính toán, so sánh, để đưa ra nhận xét thích hợp về bức tranh tài chính doanh nghiệp, dự báo xu thế, các thành tựu và khuyết điểm cần sửa đổi. Trong đó, thông tin đầu vào cho quá trình phân tích bao gồm thông tin tình hình huy động, phân phối và sử dụng vốn, kết quả kinh doanh, khả năng thanh toán, hiệu quả sản xuất kinh doanh... được phản ánh đầy đủ trong các báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp, cụ thể 5 là: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính. Bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán là một báo cáo thời điểm, trong đó chỉ tiêu tài chính được trình bày dưới hình thái giá trị, phân chia thành hai phần lớn là Tài sản và Nguồn vốn. Cụ thể như sau: Tài sản là toàn bộ giá trị của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Các chỉ tiêu tài sản trên BCĐKT được trình bày theo thứ tự giảm dần của tính thanh khoản, tức khả năng chuyển đổi thành tiền. Tài sản được chia thành hai hạng mục lớn: Tài sản ngắn hạn: Tính ngắn hạn được thể hiện thông qua thời gian dự kiến khai thác các loại tài sản này là nhỏ hơn hoặc bằng một niên độ kế toán, thường là một năm. Theo quy định của Bộ Tài chính, các loại tài sản thuộc danh mục Tài sản ngắn hạn bao gồm: Tiền và các khoản tương đương tiền, Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, Các khoản phải thu ngắn hạn, Hàng tồn kho và TSNH khác. Tài sản dài hạn: Ngược lại với ngắn hạn, dài hạn thể hiện ở thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi vốn trong nhiều hơn một kỳ kinh doanh, gồm có: Tài sản cố định, Các khoản phải thu dài hạn. Nguồn vốn là toàn bộ nguồn tiền đã huy động của doanh nghiệp để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Khác với tài sản, các chỉ tiêu phản ảnh nguồn vốn được trình bày theo sự tăng dần của thời hạn thanh toán. Nguồn vốn được hợp thành từ hai bộ phận: Nợ phải trả là nguồn vốn doanh nghiệp đi vay, nợ chưa thanh toán hay chiếm dụng của đơn vị, cá nhân khác, bao gồm Nợ ngắn hạn và Nợ dài hạn. Vốn chủ sở hữu là khoản tiền do chủ doanh nghiệp đóng góp, tách biệt với tài sản của người góp vốn. Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn vĩnh viễn, thể hiện tính tự chủ tài chính và tiềm lực của doanh nghiệp. Trong BCĐKT được chia thành Vốn đầu tư của chủ sở hữu và Nguồn kinh phí, quỹ khác. Về bản chất, hai phần của Bảng CĐKT là Tài sản và Nguồn vốn là hai mặt của một vấn đề, thể hiện toàn bộ nguồn lực doanh nghiệp đang sử dụng phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Một mặt là nguồn lực huy động được, một mặt là tình hình sử dụng các nguồn lực ra sao. Do đó, lẽ đương nhiên là hai khoản mục này là hai vế của đẳng thức kế toán: Tổng Tài sản = Tổng Nguồn vốn Trong quyết định 15/2006/QĐ-BTC, ban hành ngày 20 tháng 03 năm 2006 của Bộ Tài chính, BCĐKT được trình bày 6 cột: Số thứ tự, tên chỉ tiêu, mã số, thuyết 6 Thang Long University Library minh, số năm nay, số năm trước. Cơ sở dữ liệu để lập bảng là căn cứ vào sổ kế toán tổng hợp, số kế toán chi tiết và BCĐKT kỳ trước. Báo cáo kết quả kinh doanh Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một kỳ hoạt động của doanh nghiệp và chi tiết cho các hoạt động kinh doanh chính. Nói cách khác, báo cáo kết quả kinh doanh là phương tiện trình bày khả năng sinh lời và thực trạng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, dưới hình thái tiền tệ. Cơ sở để lập báo cáo kết quả kinh doanh là từ số phát sinh trong các số tổng hợp về doanh thu, chi phí và số liệu báo cáo kì trước. Lợi nhuận là mục đích quan trọng nhất của doanh nghiệp, do vậy, việc cung cấp các thông tin về tình hình kinh doanh của từng hoạt động, sự lãi, lỗ của doanh nghiệp có tác dụng quan trọng trong việc ra các quyết định quản trị, cũng như quyết định đầu tư của những người liên quan. Phân tích Báo cáo kết quả kinh doanh sẽ làm sáng tỏ các mối quan hệ về lợi nhuận, doanh thu, chi phí. Qua đó, phục vụ công tác đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh, và dự báo tiềm năng, xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo tài chính cung cấp thông tin về những nghiệp vụ kinh tế có ảnh hưởng đến dòng tiền vào và ra của doanh nghiệp. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập trên cơ sở cân đối thu chi tiền mặt, phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo rất quan trọng, cung cấp những thông tin để đánh giá khả năng tạo tiền và sử dụng tiền của doanh nghiệp, chỉ ra được mối liên quan giữa lợi nhuận ròng và dòng tiền ròng, sử dụng trong phân tích khả năng thanh toán và dự toán kế hoạch thu chi tiền cho kỳ tiếp theo. Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) số 24 – Báo cáo lưu chuyển tiền tệ ban hành theo Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31/12/2002, doanh nghiệp có thể trình bày Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp trực tiếp hay gián tiếp. Tuy nhiên, phải trình bày được các luồng tiền trong kỳ theo 3 loại hoạt động: hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính. Các hoạt động này được định nghĩa như sau: Hoạt động kinh doanh là các hoạt động tạo ra doanh thu chủ yếu của doanh nghiệp và các hoạt động khác không phải là các hoạt động đầu tư hay hoạt động tài chính. 7 Hoạt động đầu tư là các hoạt động mua sắm, xây dựng, thanh lý, nhượng bán các tài sản dài hạn và các khoản đầu tư khác không thuộc các khoản tương đương tiền. Hoạt động tài chính là các hoạt động tạo ra các thay đổi về quy mô và kết cấu của vốn chủ sở hữu và vốn vay của doanh nghiệp. Thuyết minh báo cáo tài chính Thuyết minh Báo cáo tài chính được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình hình hoạt động sản xuất - kinh doanh, tình hình tài sản – nguồn vốn hay hoạt động lưu chuyển tiền trong kỳ báo cáo mà các báo cáo khác không thể trình bày rõ ràng và chi tiết. Qua đó, nhà đầu tư hiểu rõ và chính xác hơn về tình hình hoạt động thực tế của doanh nghiệp. Thuyết minh báo cáo tài chính gồm những nội dung cơ bản sau: Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, kỳ kế toán, đơn vị tiền tệ sử dụng trong kế toán, chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán áp dụng, các chính sách kế toán áp dụng. Ngoài ra, còn có các thông tin bổ sung cho các khoản mục trình bày trong bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ. 1.2.3.2 Thông tin bên ngoài doanh nghiệp Các thông tin liên quan đến môi trường kinh tế chung Đây là các thông tin về tình hình kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tùy từng doanh nghiệp với những đặc thù riêng của hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ có những mối quan tâm khác nhau. Trong đó, những thông tin phổ biến cần chú ý có thể kể đến như sự suy thoái hoặc tăng trưởng của nền kinh tế, lãi suất ngân hàng, tỉ giá ngoại tệ, tỉ lệ lạm phát, chính sách kinh tế, chính trị, ngoại giao lớn của Nhà nước. Những thông tin trên có tác động mạnh mẽ đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh hay sự biến động giá cả của các yếu tố đầu vào của thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Khi các tác động diễn ra theo chiều hướng có lợi cho doanh nghiệp thì hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ được mở rộng, lợi nhuận tăng, các chỉ số tài chính biến đổi theo chiều hường tích cực. Ngược lại khi những biến động của tình hình kinh tế là bất lợi sẽ ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, để đánh giá khách quan và chính xác về hoạt động của doanh nghiệp, người phân tích phải đặt tình hình tài chính doanh nghiệp trong tương quan so sánh với tình hình chung của nền kinh tế 8 Thang Long University Library Các thông tin liên quan đến ngành kinh tế Đặc điểm ngành kinh tế có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ở các khía cạnh như quyết định những đặc tính cơ bản của sản phẩm, quy trình kỹ thuật áp dụng, tốc độ đổi mới công nghệ, nhịp độ phát triển của các chu kỳ kinh doanh, chiến lược cạnh tranh, khuynh hướng tiêu dùng tương lai... Thông tin ngành kinh tế, đặc biệt là hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành là cơ sở tham chiếu quan trọng mà nhà phân tích sử dụng để đưa ra những đánh giá, kết luận chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp. Từ đây, doanh nghiệp sẽ có bước điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho phù hợp với bình diện chung của ngành, đem lại lợi nhuận cao, phát triển vượt trên xu thế chung của ngành. 1.2.4. Phương pháp phân tích tài chính trong doanh nghiệp 1.2.4.1 Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh là phương pháp cơ bản và được sử dụng phổ biến nhất trong phân tích tài chính. Nguyên nhân là mỗi doanh nghiệp có những đặc điểm cụ thể, có lịch sử phát triển, quy mô, cơ cấu khác nhau, do vậy, từng con số đơn lẻ hầu như không có ý nghĩa trong việc kết luận về mức độ tốt, xấu trong tình hình tài chính. Các giá trị phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng, liên hệ logic với các giá trị tương đồng mới tìm ra được sự thay đổi trong giai đoạn nghiên cứu. Đó mới là tiền đề để đưa ra các kết luận. So sánh là việc đối chiếu tình hình biến động cả về số tuyệt đối và số tương đối trên từng chỉ tiêu của báo cáo tài chính. Để phép so sánh có ý nghĩa, số liệu sử dụng phải đáp ứng yêu cầu thống nhất về nội dung kinh tế, phương pháp tính toán, thời gian và đơn vị ghi chép. Gốc so sánh được chọn tùy thuộc vào mục đích, có thể là gốc không gian hoặc thời gian. Kì kinh doanh chứa gốc so sánh là kì gốc, kì được chọn để phân tích gọi là kì phân tích. Tùy thuộc vào việc chọn gốc so sánh, ta có các kĩ thuật so sánh riêng với ý nghĩa như sau: Gốc so sánh là số thực tế kỳ trước: Kĩ thuật này cho phép người đọc thấy rõ xu hướng thay đổi, thấy được sự tăng hay giảm giá trị của các chỉ tiêu tài chính so với cùng kì năm trước. Từ đó, đi tìm nguyên nhân và đề ra các giải pháp cho thời gian hoạt động sắp tới. Gốc so sánh là số kế hoạch: Chỉ ra mức độ hoàn thành kế hoạch của doanh nghiệp trong kì, sự chênh lệch hơn hay kém sẽ được tiếp tục tìm hiểu và lí giải để tiếp tục phát huy hay rút kinh nghiệm cho kì sau. 9 Gốc so sánh là mức trung bình ngành: Phản ánh vị trí hiện tại của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp trong ngành, tình hình kinh doanh là tốt hay xấu so với mức bình quân. Sau khi chọn được gốc so sánh phù hợp với mục đích phân tích, ta cần xem xét các hình thức so sánh nên sử dụng. Các hình thức này gồm có: So sánh theo chiều ngang, So sánh theo chiều dọc và So sánh xác định xu hướng và tính chất liên hệ giữa các chỉ tiêu. So sánh theo chiều ngang là việc so sánh, đối chiếu tình hình biến động cả về số tuyệt đối và số tương đối trên từng chỉ tiêu trong báo cáo tài chính. Thực chất của việc này là tính toán sự biến đổi về quy mô, tỉ trọng của từng khoản mục trong kì phân tích so với kì gốc, qua đó, lí giải nguyên nhân và đưa ra nhận xét về từng khoản mục riêng biệt. So sánh theo chiều dọc là việc sử dụng các tỉ lệ, các hệ số thể hiện mối tương quan giữa các chỉ tiêu trong cùng một báo cáo tài chính, hay giữa các báo cáo tài chính với nhau. Mục đích cơ bản của hình thức so sánh này là phục vụ công tác phân tích sự biến động về cơ cấu hay những mối quan hệ tỉ lệ giữa các chỉ tiêu trong hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp. So sánh xác định xu hướng và tính chất liên hệ giữa các chỉ tiêu tập trung vào xem xét các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu riêng biệt hay các chỉ tiêu tổng cộng trên báo cáo tài chính với các chỉ tiêu phản ánh quy mô chung. Chúng được xem xét trong nhiều kì, để phản ánh rõ hơn xu hướng phát triển của các hiện tượng kinh tế - tài chính trong doanh nghiệp. Hình thức so sánh này cần một lượng số liệu lớn, xuyên suốt trong nhiều năm cộng thêm nhiều yêu cầu về tính nhất quán trong tính toán và ghi chép số liệu. Do đó, ít phổ biến hơn hình thức so sánh ngang và so sánh dọc. 1.2.4.2 Phương pháp loại trừ Loại trừ là một phương pháp nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh doanh, thông qua việc tính toán sự thay đổi của một chỉ tiêu tổng quát khi chỉ một nhân tố cấu thành nên nó thay đổi, các nhân tố khác giữ nguyên. Trong thực tế phương pháp loại trừ được sử dụng trong phân tích kinh tế dưới 3 dạng là: phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch và phương pháp liên hệ cân đối Phương pháp thay thế liên hoàn là phương pháp xác định ảnh hưởng của các nhân tố bằng cách thay thế lần lượt và liên tiếp các nhân tố từ giá trị kỳ gốc sang kỳ phân tích để xác định trị số của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi. Sau đó so sánh trị số 10 Thang Long University Library của chỉ tiêu vừa tính được với trị số của chỉ tiêu khi chưa có biến đổi của nhân tố cần xác định sẽ tính được mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó. Phương pháp số chênh lệch thực chất là phương pháp rút gọn của phương pháp thay thế liên hoàn, nhưng áp dụng cho các chỉ tiêu mà là tích của nhiều nhân tố. Theo đó, mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào đó đối với chỉ tiêu tổng hợp được xác định bằng số chênh lệch của nhân tố đó nhân với các nhân tố khác được cố định trong khi lập tích số. Phương pháp liên hệ cân đối được đặc trưng áp dụng trong trường hợp xác định mối quan hệ giữa các chỉ tiêu nhân tố với chỉ tiêu phân tích được biểu hiện dưới dạng tổng – hiệu. Để xác định sự ảnh hưởng của các nhân tố đối với chỉ tiêu phân tích chỉ cần xác định mức chênh lệch của từng nhân tố giữa kì phân tích và kì gốc, giữa các nhân tố mang tính độc lập. 1.2.4.3 Phương pháp Dupont Phân tích tài chính bằng phương pháp Dupont thực chất là việc biến đổi một tỉ số tài chính thành một số chỉ số khác có mối liên hệ đặc biệt. Từ đây, sự biến đổi của tỉ số ban đầu sẽ được lí giải bởi sự biến đổi của các tỉ số cấu thành. Qua đó, nhà phân tích sẽ xác định được các yếu tố tạo nên điểm mạnh, điểm yếu trong hoạt động kinh doanh, từ đó có cái nhìn cụ thể hơn, sâu sắc hơn trong việc ra quyết định. Phương pháp này được các nhà quản trị đặc biệt ưa thích khi phân tích các chỉ tiêu sinh lời như Tỉ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) hay Tỉ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) 1.2.5 Quy trình thực hiện phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp Quy trình thực hiện phân tích tài chính là một tập hợp các bước làm tuần tự đã được hệ thống sẵn, có phân chia các công việc cụ thể trong từng bước để vừa là định hướng cho quá trình phân tích, vừa là căn cứ để xem xét, đánh giá sự nghiêm túc trong việc thực hiện phân tích. Mỗi doanh nghiệp phân tích đều có những đặc điểm riêng nên quá trình phân tích cũng phải tùy biến sao cho phù hợp. Tuy nhiên, tựu chung lại, tổ chức công tác phân tích tài chính phải gồm 3 bước lớn: Bước 1: Thu thập thông tin Quá trình này là việc chuẩn bị thông tin đầu vào cho phân tích tài chính. Các thông tin cầu thu thập bao gồm cả thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Thông tin bên trong thể hiện chủ yếu trên các báo cáo tài chính, các kế hoạch, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Thông tin bên ngoài phong phú hơn nhưng thông thường là các thông tin liên quan đến ngành nghề kinh doanh, môi trường địa phương, môi trường văn hóa, xã hội và pháp luật có tác động đến tài chính doanh nghiệp. 11 Bước 2: Xử lý thông tin Xử lý thông tin là quá trình sắp xếp các thông tin theo mục tiêu nhất định nhằm so sánh, đánh giá, giải thích, xác định nguyên nhân của các kết quả đã đạt được nhằm phục vụ cho quá trình phân tích và đưa ra quyết định sau này. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở góc độ nghiên cứu, ứng dụng các phương pháp phân tích khác nhau, sử dụng các công cụ phù hợp để phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt ra. Đây là giai đoạn rất quan trọng, quyết định hiệu quả của quá trình phân tích bởi có xử lí thông tin tốt thì nhận xét đưa ra mới chính xác. Bước 3: Kết luận phân tích Sau khi xử lý các thông tin thu thập được, nhận thấy sự khác biệt, người phân tích tiến hành tìm hiểu biết nguyên nhân của vấn đề và những nhân tố làm ảnh hưởng tới sự biến động này. Sau đó, đưa ra các nhận xét thích hợp về tình hình tài chính doanh nghiệp, nêu ra các giải pháp khắc phục những hạn chế trong tương lai. Giai đoạn này đòi hỏi người phân tích phải có trình độ chuyên môn cao, sự nhạy cảm trong công việc, đi kèm với ý thức trách nhiệm. 1.2.6 Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 1.2.6.1 Phân tích bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán là bức tranh toàn cảnh về các nguồn lực của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Trong đó, các chỉ tiêu được phân loại theo hai khía cạnh là huy động vốn (Nguồn vốn) và sử dụng vốn (Tài sản). Phân tích bảng cân đối kế toán là phân tích tình hình tài sản và nguồn vốn, bao gồm hoạt động xem xét, tính toán sự thay đổi của toàn bộ chỉ tiêu giữa cuối kì so với đầu kì phân tích. Từ đó, đưa ra các nhận xét, đánh giá về tình hình, cơ cấu tài sản, nguồn vốn để định hướng cho hoạt động tài chính trong tương lai. Phân tích tình hình tài sản và tình hình nguồn vốn Phân tích được tiến hành theo trình tự từ tổng quát đến cụ thể, sử dụng số liệu từ số tuyệt đối đến số tương đối, nghiên cứu các chỉ tiêu đơn lẻ, riêng biệt đến mối quan hệ, sự cân bằng giữa các nhóm chỉ tiêu. Kết quả phân tích cần được trình bày một cách khoa học, đầy đủ những cần dễ hiểu, dễ theo dõi, phục vụ nhiều đối tượng sử dụng. Thứ nhất, phân tích tổng quát về quy mô Tài sản – Nguồn vốn trong kì. Trong bước phân tích này, ta cần có những nhận định chung về quy mô và sự thay đổi về quy mô tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp trong kì phân tích. Sự thay đổi được biểu hiện bằng cả số chênh lệch tuyệt đối và số chênh lệch tương đối với công thức tính như sau: 12 Thang Long University Library Chênh lệch tuyệt đối Tổng tài sản (Δ Tổng tài sản) Chênh lệch tương đối Tổng tài sản (%Δ Tổng tài sản) = Tổng tài sản năm N Tổng tài sản năm (N-1) – Chênh lệch tuyệt đối Tổng tài sản = × 100% Tổng tài sản năm (N-1) Công thức tương tự cho Tổng nguồn vốn. Đây là những nhận xét ban đầu nhưng vô cùng quan trọng trong việc định hướng phân tích các chi tiêu chi tiết về sau. Nếu như tổng tài sản hay tổng nguồn vốn có sự biến động bất thường, ta cần đi sâu phân tích kĩ hơn để tìm ra sự thay đổi đó đến từ những khoản mục tài sản, nguồn vốn nào, và ảnh hưởng ra sao đến cục diện chung. Thứ hai, phân tích chi tiết sự thay đổi của từng khoản mục tài sản, nguồn vốn. Mức độ và số lượng các chỉ tiêu cần xem xét của bước phân tích này phụ thuộc rất nhiều vào việc đánh giá tổng quát tình hình tài sản nguồn vốn. Thông thường, nếu tài sản, nguồn vốn duy trì ổn định, không có sự biến động lớn trong năm thì tương ứng các khoản mục nhỏ trong BCĐKT cũng ít có sự thay đổi. Do vậy, ta có thể bỏ qua không đề cập đến các khoản mục ít thay đổi hay mức thay đổi không làm ảnh hưởng đến tình hình chung. Nhưng ngược lại, nếu sự thay đổi tổng quát là đáng lưu tâm, tất nhiên việc phân tích sự thay đổi của từng chỉ tiêu và mức độ ảnh hưởng đến tình hình tài sản, nguồn vốn trong năm cũng được đào sâu phân tích. Công thức tính về sự thay đổi của các khoản mục giống với sự thay đổi của tổng tài sản, cũng bao gồm chênh lệch tuyệt đối và chênh lệch tương đối. Chênh lệch tuyệt đối Tài sản i (Δ Tài sản i) = Chênh lệch tương đối Tài sản i (%Δ Tài sản i) = Giá trị Tài sản i năm N – Giá trị Tài sản i năm (N-1) Chênh lệch tuyệt đối Tài sản i Giá trị Tài sản i năm (N-1) × 100% Thứ ba, phân tích tình hình công nợ phải thu và phải trả Công nợ phải thu và phải trả liên quan chủ yếu đến hoạt động tín dụng thương mại của mỗi doanh nghiệp. Hoạt động này nếu biết sử dụng khéo léo có thể trở thành nguồn huy động vốn linh hoạt, hiệu quả với chi phí thấp, nhưng ngược lại, nếu quản lí lỏng lẻo, nợ phải thu duy trì ở mức cao trong nhiều năm thì doanh nghiệp đang trong tình trạng bị chiếm dụng vốn bởi các chủ thể kinh tế khác. Do đó, ta xem xét tương quan so sánh giữa công nợ phải thu và phải trả thông qua chi tiêu: 13 Các khoản phải thu Hệ số công nợ phải thu trên = công nợ phải trả Các khoản phải trả Giá trị của hệ số sau khi tính toán được so sánh với 1 để đánh giá trạng thái tín dụng của doanh nghiệp. Nếu lớn hơn 1, tức là doanh nghiệp đang bị chiếm dụng vốn, nếu nhỏ hơn 1, doanh nghiệp đang chiếm dụng vốn của đơn vị khác. Tuy nhiên, đến đây ta chưa thể kết luận bị chiếm dụng vốn hay đi chiếm dụng vốn là tốt hay xấu vì còn tùy thuộc vào chiến lược kinh doanh, tình hình tài sản, nguồn vốn hiện tại hay sự ảnh hưởng của tính thời điểm trong thông kê. Sau đó, ta xem xét độ lớn của hệ số, thông thường, quá lớn và quá nhỏ đều là biểu hiện một tình trạng quản lí nợ yếu kém. Phân tích cân bằng tài sản – nguồn vốn Việc đảm bảo nhu cầu về vốn là vấn đề cốt lõi cho quá trình kinh doanh được diễn ra liên tục và có hiệu quả. Phân tích cân bằng tài sản – nguồn vốn là việc tính toán, xem xét tính hợp lí giữa tình hình huy động vốn của doanh nghiệp và cách sử dụng nguồn vốn đã huy động, trong đó, nội dung chủ yếu xoay quanh Vốn lưu động dòng. Vốn lưu động là hình thái giá trị tài sản doanh nghiệp sở hữu với đặc trưng về thời gian sử dụng, thu hồi, vòng quay luân chuyển thường dưới một năm hay một chu kì kinh doanh. Cân bằng tài sản – nguồn vốn trong doanh nghiệp được thể hiện qua hình thái vốn lưu động thông qua hai chỉ tiêu: Nhu cầu vốn lưu động ròng (cân bằng ngắn hạn) và Vốn lưu động ròng (cân bằng dài hạn). Phân tích cần bằng tài sản – nguồn vốn trong ngắn hạn. Nhu cầu = vốn lưu động ròng Phải thu + khách hàng Hàng tồn kho – Nợ ngắn hạn Trong đó, nợ ngắn hạn là các khoản nợ không bao gồm các khoản đi vay. Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thương mại là một nguồn tài trợ có chi phí thấp và rất linh hoạt trong thời hạn và điều kiện thanh toán, cho nên, thường xuyên được các doanh nghiệp tận dụng trong quá trình hoạt động kinh doanh. Nhu cầu vốn lưu động ròng phản ánh việc các nguồn tài trợ ngắn hạn từ bên ngoài đặc biệt là khoản tín dụng thương mại của doanh nghiệp có đáp ứng được cho nhu cầu sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Nhu cầu vốn lưu động ròng âm tức là khoản tồn kho và các khoản phải thu nhỏ hơn nợ ngắn hạn. Chính vì vậy các nguồn ngắn hạn từ bên ngoài dư thừa và bù đắp đủ cho các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Nhu cầu vốn lưu động ròng âm là một 14 Thang Long University Library tình trạng rất tốt với doanh nghiệp, với ý nghĩa là doanh nghiệp được các chủ nợ ngắn hạn cung cấp vốn cần thiết cho chu kỳ sản xuất kinh doanh. Nhu cầu vốn lưu động ròng dương tức là tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn. Trong trường hợp này, các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có từ bên ngoài. Vì vậy, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho phần chênh lệch. Để giảm nhu cầu vốn lưu động ròng, biện pháp tích cực nhất là giải phóng tồn kho và giảm các khoản phải thu. Phân tích cân bằng tài sản – nguồn vốn trong dài hạn Các nhà phân tích sử dụng chỉ tiêu Vốn lưu động ròng để nhận xét về sự ổn định, bền vững, cân đối và an toàn trong tài trợ và sử dụng vốn. Vốn lưu động ròng = Tài sản ngắn hạn – Nguồn vốn ngắn hạn = Nguồn vốn dài hạn – Tài sản dài hạn Nguyên tắc tài chính chỉ ra rằng, doanh nghiệp cần sử dụng nguồn vốn có thời hạn hoàn trả lớn hơn chu kì hoạt động của tài sản mà nó tài trợ. Nói đơn giản, nếu doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để mua tài sản dài hạn, thì khi đến hạn thanh toán gốc và lãi cho vốn huy động thì tài sản chưa hoạt động hết một chu kì, nếu không có nguồn vốn khác bù lại thì nguy cơ phải bán tài sản để trả nợ là rất cao, ảnh hưởng đến quá trình hoạt động kinh doanh trong kì. Giá trị vốn hoạt động thuần biểu hiện tính ổn định trong việc huy động và sử dụng nguồn tài trợ. Vốn lưu động ròng < 0: Cân bằng xấu, doanh nghiệp chịu áp lực nặng nề về thanh toán nợ ngắn hạn do Nguồn vốn ngắn hạn phải sử dụng để tài trợ cho Tài sản dài hạn. Vốn lưu động ròng = 0: Cân bằng tài chính tương đối bền vững, nhưng tín ổn định chưa cao, tiềm tàng nguy cơ xảy ra “cân bằng xấu”. Trên thực tế, trường hợp cân bằng tuyệt đối khó có thể xảy ra, nhưng khi nghiên cứu lí thuyết, vẫn được xét đến như một trạng thái dễ phá vỡ. Vốn lưu động ròng > 0: Cân bằng tốt, doanh nghiệp cần duy trì trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh. Tài sản ngắn hạn một phần được tài trợ bởi vốn ngắn hạn, phần còn lại từ vốn dài hạn, do đó, vòng quay tài sản ngắn hơn vòng quay nguồn vốn tài trợ nó, lợi nhuận từ mỗi vòng quay tài sản đảm bảo cho việc chi trả chi phí sử dụng vốn và hoàn vốn đúng hạn. 1.2.6.2 Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kì. Do đó, hầu hết các bên liên 15 quan đến doanh nghiệp đều quan tâm đến việc phân tích vì nó ảnh hưởng đến quyền lợi của họ khi gắn lợi ích với doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể kiểm tra, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, dự toán chi phí sản xuất, giá vốn, doanh thu sản phẩm vật tư hàng hóa đã tiêu thụ, tình hình chi phí, thu nhập của hoạt động khác và kết quả kinh doanh sau một kỳ kế toán. Khi sử dụng số liệu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh để phân tích tài chính, cần lưu ý quan tâm nhiều nhất đến tốc độ tăng, giảm của các khoản mục doanh thu, chi phí và lợi nhuận. Cụ thể, khi tốc độ tăng doanh thu lớn hơn tốc độ tăng chi phí dẫn đến lợi nhuận tăng, ngược lại, lợi nhuận sẽ giảm. Sau đó, so sánh các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. Một số chỉ tiêu thông dụng trong phân tích chi phí, lợi nhuận trên BCKQKD như sau: Giá trị giá vốn hàng bán Tỉ suất giá vốn trên doanh thu thuần = × 100% Doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho biết để thu được 100 đồng doanh thu thuần, doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng giá vốn. Chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ doanh nghiệp quản lí giá vốn hàng bán càng hiệu quả. Giá trị lợi nhuận gộp Tỉ suất lợi nhuận gộp trên doanh thu thuần = Doanh thu thuần × 100% Chỉ tiêu này mang ý nghĩa cứ 100 đồng doanh thu thuần thu về thì lợi nhuận thì tạo ra bao nhiêu đồng lãi gộp. Đây là chỉ tiêu đối nghịch với Tỉ suất giá vốn trên doanh thu thuần. Hệ số này càng cao chứng tỏ công tác quản lí chi phí giá vốn của doanh nghiệp càng hiệu quả. Chi phí bán hàng + Chi phí quản lý doanh nghiệp Tỉ suất chi phí gián tiếp = trên doanh thu thuần × 100% Doanh thu thuần Chỉ tiêu này là một chỉ tiêu chi phí, phản ánh giá trị của chi phí gián tiếp là bao nhiêu đồng khi thu được 100 đồng doanh thu thuần. Giá trị của nó càng thấp tức là doanh nghiệp quản lí chi phí gián tiếp càng hiệu quả. Đa số các chi phí gián tiếp đều là chi phí cố định, do đó, khi doanh thu tăng, mọi người luôn kì vọng chi phí gián tiếp phải tăng với tốc độ chậm hơn. Tỉ suất lợi nhuận trước thuế và = Lợi nhuận trước thuế và lãi 16 Thang Long University Library × 100% lãi vay trên doanh thu thuần vay Doanh thu thuần Nhiều nhà phân tích cho rằng chỉ tiêu này là vô cùng quan trọng trong việc đánh giá năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kì phân tích, đặc biệt khi đặt trong tương quan so sánh với các doanh nghiệp khác hay với trung bình ngành. Sau khi loại bỏ tác động của thuế và cơ cấu vốn vay, chỉ tiêu này cho ta thấy tỉ lệ lợi nhuận thật sự doanh nghiệp đã tạo ra. Chỉ tiêu này càng cao, doanh nghiệp hoạt động càng hiệu quả. Lợi nhuận sau thuế Tỉ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu thuần = Doanh thu thuần × 100% Chỉ tiêu này phản ánh cứ 100 đồng doanh thu thuần thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Tỉ số này mang giá trị dương nghĩa là công ty kinh doanh có lãi; tỉ số càng lớn nghĩa là lãi càng lớn và ngược lại. Chủ sở hữu công ty là đối tượng quan tâm nhiều nhất đến chỉ tiêu này do nó gắn trực tiếp với chỉ tiêu Lợi nhuận chưa phân phối trên BCĐKT, ảnh hưởng đến lợi ích thu về từ khoản đầu tư CSH đã bỏ ra. 1.2.6.3 Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thực chất là một báo cáo cung cấp thông tin về những sự kiện và nghiệp vụ kinh tế có ảnh hưởng đến tình hình tiền tệ của một doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ cho nhà đầu tư biết thông tin về các khoản tiền mặt mà doanh nghiệp đã nhận được và chi ra trong năm tài chính, thông tin cụ thể về các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Dòng tiền thuần của doanh nghiệp phụ thuộc vào dòng tiền của mối hoạt động này thông qua đẳng thức: Lưu chuyển Lưu chuyển Lưu chuyển Lưu chuyển tiền thuần từ tiền tiền tiền thuần = + + Hoạt động Hoạt động Hoạt động tài kinh doanh đầu tư chính Dòng tiền của doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến tính thanh khoản, khả năng trả nợ. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ giúp kiểm tra tính trung thực của tất cả các thông tin rút ra từ việc đánh giá các tỉ suất và vốn lưu động, về tình trạng tiền mặt, khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Phân tích lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh là việc phân tích dòng tiền ra, vào doanh nghiệp có liên quan trực tiếp đến sản phẩm, dịch vụ doanh nghiệp cung cấp. Trong đó, nguồn thu là từ khách hàng thanh toán tiền hàng và dịch vụ, nguồn chi là cho hoạt động duy trì sản xuất như chi trả lương, chi mua nguyên vật liệu đầu vào, 17 chi trả lãi vay hay nộp thuế Thu nhập doanh nghiệp. Dòng tiền tư hoạt động kinh doanh luôn được kì vọng mang lại mức thặng dư lớn cho mỗi doanh nghiệp. Phân tích lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư là phân tích dòng tiền xuất hiện khi doanh nghiệp thực hiện hoạt động mua bán TSCĐ, góp vốn kinh doanh và thu lời, hay đầu tư các công cụ nơ trên thị trường chứng khoán. Dòng tiền này có thể biến động tùy theo chiến lược điều hành kinh doanh của ban lãnh đạo, có khả năng tăng đột biến trong một giai đoạn rồi lại giảm mạnh trong giai đoạn tiếp theo. Phân tích lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính là tiền hành xem xét dòng luân chuyển tiền trong hoạt động huy động vốn chủ, trả cổ tức, hay thanh toán nợ gốc vay được thực hiện trong kì. Để đánh giá được mức độ ảnh hưởng của từng hoạt động đến tình hình lưu chuyển tiền tệ chung trong kì, ta tính toán tỉ trọng lưu chuyển tiền tệ từng hoạt đồng bằng công thức: Tỉ trọng lưu chuyển tiền từng hoạt động Lưu chuyển tiền thuần từng hoạt động = Tổng lưu chuyển tiền thuần trong năm 1.2.6.4 Phân tích tài chính thông qua các chỉ tiêu tài chính (1) Phân tích khả năng thanh toán Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn: Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn = Tài sản ngắn hạn Nợ ngắn hạn Trong đó, Tài sản ngắn hạn bao gồm Tiền và các khoản tương đương tiền, Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, Các khoản phải thu khách hàng, Hàng tồn kho và Tài sản ngắn hạn khác. Nợ ngắn hạn là các khoản nợ phải trả trong năm bao gồm: Vay ngắn hạn, Vay dài hạn đến hạn trả và Các khoản phải trả khác. Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn cho biết 1 đồng Nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng bao nhiều đồng Tài sản ngắn hạn. Giá trị của chỉ tiêu càng cao tương ứng với khả năng thanh toán ngắn hạn càng tốt. Khi đó, tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ được các chủ nợ đánh giá cao, không tạo áp lực cho doanh nghiệp trong việc trả nợ. Ngược lại, hệ số này nhỏ hơn 1 tức là doanh nghiệp đang ở trạng thái thanh toán kém, tình hình tài chính ở mức nguy hiểm, tạo lo ngại cho các chủ nợ và đối tác, doanh nghiệp phải có những biện pháp cải thiện tình hình càng sớm càng tốt nếu như không muốn phải bán TSDH để thanh toán các khoản nợ đến hạn. Hệ số khả năng thanh toán nhanh: Hệ số khả năng thanh toán nhanh Tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho = Nợ ngắn hạn 18 Thang Long University Library Hàng tồn kho là loại tài sản có khả năng chuyển đổi thành tiền kém nhất trong số các TSNH được liệt kê. Do đó, khi loại bỏ giá trị hàng tồn kho, ta được bộ phận TSNH còn lại có tính thanh khoản cao hơn, có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền sử dụng trong các trường hợp khẩn cấp. Tương tự với hệ số thanh toán ngắn hạn, hệ số khả năng thanh toán nhanh càng cao chứng tỏ khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng tốt. Tuy nhiên, nếu quá cao sẽ mang ý nghĩa như một biểu hiện xấu khi đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn, dẫn đến khả năng sinh lời thấp. Hệ số khả năng thanh toán tức thời: Tiền và các khoản tương đương tiền Hệ số khả năng thanh toán = tức thời Nợ ngắn hạn Trong đó, Tiền bao gồm tiền mặt, tiền gửi, tiền đang chuyển. Các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn (dưới 3 tháng) có thể chuyển đổi thành tiền bất kỳ lúc nào như: chứng khoán ngắn hạn, thương phiếu, nợ phải thu ngắn hạn và các khoản đầu tư ngắn hạn khác. Hệ số khả năng thanh toán tức thời phản ánh sự sẵn sàng khi thanh toán các khoản nợ đến hạn và quá hạn tại bất cứ thời điểm nào. Giá trị chỉ tiêu cao chứng tỏ doanh nghiệp có dự trữ một lượng tiền lớn để sử dụng cho chi tiêu thường ngày và trả nợ gấp. Tuy nhiên, nếu quá cao sẽ là dấu hiệu của việc sử dụng vốn thiếu hiệu quả, giảm tỉ suất sinh lời. (2) Phân tích khả năng quản lý tài sản Khi phân tích khả năng quản lý tài sản, ta cần đặt trọng tâm phân tích vào 3 khía cạnh chính. Đó là phân tích hiệu quả quản lý tổng tài sản, tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Ba chỉ tiêu này cần được xem xét song song với nhau để nêu lên một cách toàn diện về việc doanh nghiệp đã sử dụng tài sản ra sao, phân bổ cơ cấu như thế nào, có hợp lí hay chưa trong mối quan hệ với chỉ tiêu doanh thu thuần trong kinh doanh. Việc phân tích phải được tiến hành trên cơ sở phân tích từng chỉ tiêu sau đó tổng hợp lại, từ đó đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động, nhằm khai thác hết công suất các tài sản đã đầu tư. Số vòng quay Tổng tài sản Số vòng quay Tổng tài sản = Tổng doanh thu thuần Tổng tài sản Hoạt động kinh doanh đặt ra yêu cầu tài sản phải luân chuyển không ngừng, mỗi vòng quay của tài sản là một lượt lợi nhuận được sinh ra, giúp nâng cao giá trị doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết trong một kì phân tích, các tài sản quay được bao nhiêu vòng. Giá trị của nó càng cao, chứng tỏ các tài sản vận động càng nhanh, góp phần làm tăng doanh thu, điều kiện tiên quyết gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. 19 Chỉ tiêu này phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm ngành nghề kinh doanh và đặc trưng của mỗi doanh nghiệp. Từ chỉ tiêu số vòng quay của tài sản, ta dễ dàng tính được chu kì một vòng quay bằng cách lấy thời gian của một chu kì kinh doanh chia cho Số vòng quay Tổng tài sản. Chu kì một vòng quay tổng tài sản Chu kì một vòng quay tổng tài sản = 365 ngày Hiệu suất sử dụng tổng tài sản Chu kì một vòng quay của tài sản là số ngày để tài sản quay một vòng. Thời gian này càng ngắn tức tốc độ quay vòng tài sản càng nhanh, lợi nhuận sinh ra càng nhiều. Tài sản quay vòng nhanh tương ứng với chu kì một vòng quay được rút ngắn là dấu hiệu tích cực cho tài chính doanh nghiệp. Về lí thuyết, giá trị thặng dư được sản sinh thông qua quá trình vận động của tài sản, do vậy, tài sản luân chuyển càng nhanh thì lượng giá trị thặng dư của doanh nghiệp càng lớn. Duy trì được tốc độ quay vòng tài sản ở mức cao, tức là giữ cho tình hình tài chính doanh nghiệp phát triển ổn định. Tổng tài sản bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản là chỉ tiêu tổng quát cho hiệu quả hoạt động, nhưng nếu muốn đào sâu phân tích hiệu quả sử dụng từng loại tài sản, các nhà phân tích sử dụng thêm các chỉ tiêu số vòng quay của tài sản ngắn hạn và tài sản cố định với công thức tính và ý nghĩa tương tự đối với tổng tài sản. Số vòng quay TSNH, TSDH Số vòng quay TSNH = Số vòng quay TSDH = Tổng doanh thu thuần TSNH Tổng doanh thu thuần TSDH Tương tự như đối với Tổng tài sản, hai hệ số trên đại điện cho số vòng quay của loại tài sản tương ứng trong vòng một năm. Tức là nếu xét trên tổng số doanh thu thuần thu được, số tài sản này đã được sử dụng lặp lại bao nhiêu lần. Càng được sử dụng nhiều, các tài sản càng tạo ra nhiều giá trị gia tăng, doanh nghiệp càng thu về nhiều lợi nhuận. Nhưng với tính chất hoàn toàn khác nhau, hai chỉ tiêu này chịu ảnh hưởng bởi cơ cấu tài sản, bổ sung tốt khi xem xét hiệu quả sử dụng Tổng tài sản. 20 Thang Long University Library
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng