Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Phân tích tác phẩm vợ chồng a phủ (tô hoài)...

Tài liệu Phân tích tác phẩm vợ chồng a phủ (tô hoài)

.PDF
21
1
59

Mô tả:

VỢ CHỒNG A PHỦ Tô Hoài Lời mở: Chúng ta từng biết đến người con của dòng sông Tô, phủ Hoài Ðức qua những trang văn nổi tiếng trong Dế mèn phiêu lưu kí hay những bức tranh hiền lành vùng dệt lĩnh ven đô - không gian nghệ thuật quen thuộc trong sáng tác của nhà văn Tô Hoài. Nếu như trước cách mạng, ông nổi tiếng với những tác phẩm viết cho thiếu nhi, thì sau Cách mạng tháng Tám, người ta lại biết đến Tô Hoài nhiều hơn qua những tác phẩm đặc sắc viết về vùng cao trong tập Truyện Tây Bắc mà nổi tiếng nhất có lẽ phải kể đến tác phẩm: Vợ chồng A Phủ - tác phẩm đuợc giải Nhất về văn xuôi (1954-1955). I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả 1.1. Cuộc đời Nhà văn Tô Hoài (1920 - 2014) tên thật là Nguyễn Sen, sinh tại quê nội Thanh Oai, Q. Hà Ðông, Hà Nội, và lớn lên tại quê ngoại thị trấn Nghĩa Ðô, Từ Liêm, Hà Nội. - Tô Hoài là một trong những nhà văn sáng lập ra Hội Nhà văn Việt Nam, là chủ tịch đầu tiên của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội. - Các giải thuởng tiêu biểu của ông: Giải nhất tiểu thuyết với tác phẩm Truyện Tây Bắc của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1956, giải A với tiểu thuyết Quê nhà giải thuởng Hội Văn nghệ Hà Nội năm 1967, giải thuởng Hoa Sen của Hội Nhà văn Á Phi với tiểu thuyết Miền Tây năm 1970... Ông được trao Giải thuởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật đợt 1 năm 1996. - Chỉ được học hết bậc Tiểu học, phải làm nhiều nghề để kiếm sống trước khi cầm bút (liên hệ các tác giả: Macxim Gorki (Nga), Nguyên Hồng, Kim Lân (Việt Nam) để thấy vai trò của “truờng đời” và tự học đối với sự thành công của các nghệ sĩ) • Gắn bó sâu sắc với lứa tuổi thiếu nhi - cơ sở của những tác phẩm viết cho trẻ em. • Ði nhiều, vốn sống phong phú, đặc biệt trong lĩnh vực phong tục và sinh hoạt đời thuờng – có những trang viết chân xác, đằm thắm về đất và người nhiều vùng đất, nhất là đất và người Tây Bắc. • Có cái nhìn hồn nhiên, trong trẻo mà sắc sảo, hóm hỉnh, thông minh về các sự vật, hiện tượng, con người trong cuộc sống. Ông từ trần trưa 6.7.2014 tại Hà Nội. 1.2. Sự nghiệp - Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Hơn 60 năm cầm bút, ông để lại gần hai trăm tác phẩm thuộc đủ các thể loại. 2 - Thể loại: đa dạng, - Ðề tài: hai đề tài * Ðồng thoại về thế giới loài vật * Cuộc sống, số phận và vẻ đẹp người lao động nghèo ở miền xuôi và miền nguợc. - Nội dung: * Cái nhìn trìu mến, bao dung, nhân ái, độ luợng với trẻ thơ. * Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo mới mẻ, độc đáo. • Nghệ thuật: * Khả năng miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật chân xác, sâu sắc, tinh tế. * Cách kể chuyện sống động, hóm hỉnh, có duyên. * Lời văn: giàu tính tạo hình và chất thơ. - Tác phẩm tiêu biểu: Dế mèn phiêu lưu kí (đồng thoại, 1941), O chuột (tập truyện ngắn về loài vật, 1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944), Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953), Muời năm (tiểu thuyết, 1967)… 2. Tác phẩm 2.1. Hoàn cảnh ra đời - 1952: Tô Hoài theo đơn vị bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, sống gắn bó với đồng bào tám tháng. “Năm 1952, tôi theo bộ đội chủ lực, tiến quân vào miền Tây, tham dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc… Cái kết quả lớn nhất và trước mắt của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, không thể bao giờ quên” - Chia tay, Tô Hoài viết tập truyện bằng sự am hiểu tuờng tận cuộc sống, phong tục, nhất là tâm hồn phóng khoáng, tự do phảng chút hoang dại của đồng bằng miền núi; nỗi ám ảnh về những kỉ niệm gắn bó và món nợ ân tình với người Tây Bắc. - “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm xuất sắc được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953). 2.2. Kết cấu: 2 phần • Phần 1: Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống của người dân lao động miền núi Tây Bắc trước cách mạng. Phần thể hiện bút lực Tô Hoài trong tác phẩm này là những trang viết tài hoa về hương sắc vùng cao, thể hiện giá trị hiện thực, nhân đạo mới mẻ, cảm động và khả năng miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo (Ba ý lớn) • Phần 2: Quá trình vận động từ tự phát tới tự giác của người lao động. 2.3. Thành công và hạn chế Thuvientoan.net 3 2.3.1. Thành công “Ý bao quát trong khi tôi viết Truyện Tây Bắc là: Nông dân các dân tộc ở Tây Bắc bao năm gian khổ chống đế quốc và bọn chúa đất. Cuộc đấu tranh giai cấp, riêng ở Tây Bắc, mang một sắc thái đặc biệt. Nhìn luớt qua, nơi thế lực phong kiến còn đương kéo lùi đất nước lại hàng trăm năm trước, chúng ta dễ tuởng những cảnh những người ở đấy cứ muôn thuở lặng lẽ. Không, ở nơi rừng núi mơ màng ấy, các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng. Họ đã thức tỉnh. Cán bộ của Ðảng tới đâu thì các dân tộc đứng lên tới đấy, trước nhất là những người trẻ tuổi. Họ thật đẹp và yêu đời” * Ðem vào tác phẩm không khí thời đại. * Thấy được quá trình vận động trong tư tuởng, cuộc sống người lao động: từ cam chịu, khổ nhục đến chủ động giành lấy tự do, hạnh phúc, từ hành động phản kháng tự phát đến hoạt động cách mạng tự giác. * “Một vấn đề khác nữa là chất thơ trong văn xuôi. Ở mỗi nhân vật và trùm lên tất cả miền Tây, tôi đã đưa vào một không khí vời vợi, làm cho đất nước và con người bay bổng hơn lên” 2.3.2. Hạn chế: Hình tượng nhân vật trung tâm hành động theo sự dàn xếp của tác giả nhằm chứng minh cho một luận đề: sự giác ngộ đến với cách mạng của quần chúng bị áp bức, đôi chỗ viết dễ dãi. II. Ðọc hiểu văn bản 1. Tóm tắt: Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc, bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra. Lúc đầu Mị phản kháng nhưng dần dần trở nên tê liệt, chỉ "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Ðêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói đứng vào cột nhà. A Phủ vì bất bình trước A Sử nên đã đánh nhau và bị bắt, bị phạt vạ và trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà Thống lí. Không may hổ vồ mất một con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc đến gần chết. Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, hai người chạy trốn đến Phiềng Sa. Mị và A Phủ được giác ngộ, trở thành du kích. 2. Chủ đề: Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi duới ách thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì hủy diệt được của những kiếp nô lệ, khẳng định chỉ có sự vùng dậy của chính họ, được ánh sáng cách mạng soi đường sẽ dẫn tới cuộc đời tươi sáng. 3. Hình tượng nhân vật 3.1. Nhân vật Mị 3.1.1. Sự xuất hiện của Mị Thuvientoan.net 4 “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra…”: giọng kể thoảng hương cổ tích ca dao, chuẩn bị không khí cho mẫu nhân vật cổ tích xuất hiện, tạo tâm thế cho người đọc tiếp nhận một motip quen thuộc. • Không gian: “ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, xuất hiện cùng thế giới đồ vật câm lặng. * Vị trí của nhân vật. * Hình ảnh tảng đá câm nín, u uất, bất động, không sinh khí, không sẻ chia (liên hệ với sự hóa thân của người em trong Sự tích Trầu cau) • Tu thế: “cúi mặt, mặt buồn ruời ruợi” với nhịp điệu mòn mỏi, thuờng xuyên, lặp lại vô hồn – “lúc nào cũng vậy”. • Ðối lập: hình ảnh một cô gái lẻ loi, đơn độc, u trầm, buồn khổ – cảnh tấp nập, giàu sang nhà thống lí. Nhận xét: tác giả đã phác hoạ hình ảnh người con gái câm lặng như chìm lẫn vào thế giới đồ vật vô tri, không cảm giác. Từ đó hé lộ cuộc sống tủi cực, cảnh ngộ éo le của nhân vật. Cách dẫn dắt khéo léo theo điểm nhìn từ xa, bên ngoài tiến gần hơn vào bên trong để thâm nhập nhân vật; tạo ra mâu thuẫn ở lời kể để vén bức màn bí mật về một phận người (hỏi ra mới rõ,… cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra). 3.1.2. Vẻ đẹp - Mị vốn là đóa hoa đẹp của núi rừng: + Nhan sắc rực rỡ tươi thắm tỏa ra sức cuốn hút: Ngày tết, trai làng đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị + Tâm hồn phong phú, bay bổng, tài hoa: khẽ uốn chiếc lá trên môi là cả thế giới xa xăm kì diệu sẽ mở ra, Mị thổi sáo giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. + Chăm làm + Hiếu thảo + Tràn đầy khát vọng tự do + Xứng đáng được yêu, và cũng đã từng được yêu, say mê trong những đêm tình hò hẹn, hồi hộp lặng lẽ đợi chờ… - Thế nhưng, hạnh phúc ngắn ngủi và quá đỗi mong manh, bởi Mị sinh ra đã phải đội trên đầu món nợ truyền kiếp… 3.1.3. Số phận bất hạnh: Con dâu gạt nợ. Câu chuyện Mị về làm dâu: • Lý do: bố lấy mẹ không đủ tiền cuới, phải vay nhà thống lí, tận khi già mà chưa trả hết nợ. Mẹ chết, thống lí đòi lấy Mị làm con dâu để xoá nợ, mối nợ truyền kiếp, Thuvientoan.net 5 dai dẳng, khó thoát, bóng của kiếp sống nô lệ, cùng khổ đổ lên người dân nghèo qua thế hệ này đến thế hệ khác. Câu nói từ bên trong của bố Mị “không thể nào khác được con ơi” giống như một dấu triện đóng lên thân phận nô lệ của Mị. • Phản ứng: đề nghị bố lao động trả nợ chứ quyết không muốn bị bán cho nhà giàu: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Ta chợt đau lòng nhớ đến câu nói của cái Tí ngày nào “con van thầy, con van u, thầy u đừng bán con tội nghiệp, để con ở nhà chơi với em con” (Tắt đèn- Ngô Tất Tố). Ðiều đó cho thấy Mị thà sống vất vả, nghèo khổ mà tự do còn hơn sống trong giàu sang mà chịu đoạ đày nô lệ. Ðó cũng là khát vọng tự do mãnh liệt và niềm tin trong sáng, hồn nhiên của tuổi trẻ. • Bị nhà thống lí lừa bắt đi, ban đầu “hàng mấy tháng, đêm nào cũng khóc”, nhận thức sâu sắc tình cảnh quẫn bách của bản thân: sống cũng như chết, Mị đã tìm đến lá ngón để tự tử. Ðây là phản ứng tiêu cực của lòng yêu sống và khát vọng tự do. • Dần dần, cha chết, Mị không còn nghĩ tới cái chết, Mị đã mất đi khả năng phản ứng với cuộc sống phi nhân tính, thực chất, cô chỉ còn sống đời sống vật chất, còn tinh thần và tâm hồn đã chết, nhẫn nhục, cam chịu, vô hồn. * Cùng với thời gian, “lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau”, khi được chết thì Mị lại không buồn chết nữa. Cách sử dụng phép đối, cách đếm thời gian chậm rãi, đều đặn cho ta thấy khoảng thời gian đủ để vô hồn hoá con người, nhấn con người vào câm lặng, “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Mị tuởng: mình cũng là con trâu, con ngựa. Nhưng không chỉ thế, “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”- bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn. Càng ngày, Mị càng lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Mị đã bị tê liệt khả năng phản ứng với cuộc sống vô nghĩa, phản ứng của con người không còn cảm thấy ý nghĩa cuộc đời, cam chịu sống mảnh đời khuất lấp, quên lãng, như cái cây, tảng đá, đồ vật trong không gian nhà thống lí. Từ vị trí con dâu (quyền thế, đáng trọng) đến thân thế: con nợ, người ở (rẻ rúng, coi thuờng), ta đã đủ thấy cái tàn nhẫn bất công với Mị. • Căn buồng, không gian sống của Mị là một nơi kín mít, chỉ có một chiếc cửa sổ bé, đúng hơn là chỉ có một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng, Mị đã mất hết ý niệm về thời gian. Ðó là một không gian tối tăm, bức bối, lạnh lẽo, đầy âm khí- biểu tượng ám gợi về địa ngục trần gian, nơi cầm tù tuổi thanh xuân của con người, biến Mị từ một cô gái trẻ trung phơi phới thành một con người vô cảm, cam chịu. Tóm lại: Mị là hiện thân những đau khổ của người phụ nữ nói riêng, của người dân miền núi trước Cách mạng nói chung. - Bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn, phải làm quần quật như một thứ lao động khổ sai: Tết đến thì lên núi hái thuốc phiện, giữa mùa thì giặt đay, se đay, đến mùa thì Thuvientoan.net 6 đi nương, bẻ bắp... bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế, lời văn của Tô Hoài nặng trĩu những day dứt xót xa... - Bị chà đạp về thể xác, bị đánh đập dã man, bị bắt trói bất cứ lúc nào. Muốn đi chơi: trói; muốn suởi lửa: trói; làm mất một con bò: trói... - Bị đầy đoạ về tinh thần, Mị trở thành con người vô cảm, bị đè nặng bởi ý nghĩ: ta là thân đàn bà, bị bắt về trình ma nhà nó rồi, chỉ còn đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Cuộc sống của Mị ở nhà Thống Lý Pá Tra như ngục thất (ý nghĩa căn buồng Mị ở). Bị bóng ma vô hình cột chặt cuộc đời nô lệ với nhà Thống lý, nhiều khi trở nên cam chịu, sống mà như chết. Tiểu kết: Miêu tả cuộc sống làm dâu, nhà văn khám phá một mảng hiện thực mới: cuộc sống, số phận đau khổ của người lao động miền núi – những con người bị cường quyền, thần quyền, cái nghèo, những áp chế về tinh thần đẩy vào tình trạng sống vô nghĩa, vô cảm. Phải chăng cô Mị trẻ đẹp, tràn đầy xuân sắc xuân tình của ngày xưa đã chết? Không, ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài đã cho ta thấy, dù lay lắt đói khổ, bị đọa đày cùng cực đến đâu, sức sống của người lao động chỉ tạm thời bị vùi lấp chứ không thể bị triệt tiêu, nó vẫn như đốm than hồng từ lâu âm ỉ cháy, chỉ đợi ngọn gió lành là sẽ bùng lên. Và ngọn gió ấy đã tới trong đêm tình mùa xuân, để ta thấy một cô Mị lạc quan, yêu đời đang dần dần hồi sinh trong sự sống. 3.1.4. Mị là hiện thân của sức sống tiềm tàng, sức mạnh vùng lên giải phóng Sức sống tiềm ẩn mà mãnh liệt được thể hiện qua bốn chi tiết: + Câu nói phản kháng hôn nhân + Ý định ăn lá ngón tự tử + Biểu hiện rõ nhất trong đêm hội mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ. 3.1.4.1. Sự thức tỉnh và hồi sinh khát vọng sống trong đêm tình mùa xuân - Khung cảnh: • Bức tranh mùa xuân: Mùa xuân đã về trên rẻo cao. Quyến rũ và say lòng biết bao là những đêm tình miền núi. Năm ấy, Hồng Ngài ăn tết sớm. Niềm vui đón xuân như được nhân lên cùng niềm vui thu hoạch mùa màng. Vạn vật đổi thay, đất trời như có men say, sự sống đang âm thầm cựa mình xôn xao trong cây cỏ. Gió và rét dữ dội thổi vào cỏ gianh vàng ửng, cái màu sắc tươi thắm đang có sức lan tỏa, cựa quậy tự trong linh hồn tạo vật, cái màu sắc tươi vui, đầy sức sống, ánh sáng, đối lập với không gian sống tăm tối của Mị. Trên các mỏm núi: váy hoa xoè như con buớm sặc sỡ, đầy màu sắc, phấn chấn, náo nức. Ðám trẻ nô đùa cuời ầm trước sân. Tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi. Thiên nhiên rực rỡ màu sắc, náo nức âm thanh, sự hiện diện của một thế giới căng tràn nhựa sống. • Ðêm tình mùa xuân: Thuvientoan.net 7 * Trong nhà: mọi người nhảy đồng, hát * Bên ngoài: tiếng sáo gọi bạn yêu lơ lửng ngoài đường, tiếng sáo như có hình, lơ lửng, bồng bềnh, như tình ai không tan, như lòng ai vẫn đợi. Ðó là chi tiết trở đi trở lại như một ám ảnh, mời gọi, vương vấn, khơi gợi kí ức và khát vọng yêu, sống trong Mị. * Nội dung tiếng sáo: “Mày có con trai con gái rồi/ Mày đi làm nương/ Ta không có con trai con gái/Ta đi tìm người yêu”, tiếng sáo mang khát vọng đôi lứa, khát vọng sống. * Không gian, thời gian rạo rực khát vọng, thôi thúc con người tìm đến với men say tình yêu, men say sự sống. - Diễn biến tâm trạng: • Mị lén lấy hủ rượu, uống ực từng bát…, u uất, mất cảm giác, không sống trong thực tại, mà lặn vào vô thức, như nuốt cả bao nhiêu đau khổ. • Ðột nhiên thấy lòng phơi phới trở lại, có cảm xúc (nhận ra tiếng sáo) • Nhận thấy mình còn rất trẻ. Ý thức về bản thân trở lại: Mị còn trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi, câu văn như dựng nhân vật dậy, đi lại nôn nao rạo rực trên trang sách. • Lúc sức sống trở về với niềm khao khát nhất thì Mị lại muốn chết: Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ an cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra…khi cảm xúc, ý thức trở về là lúc Mị muốn chết, phi lí mà logic: ý thức tình trạng sống không bằng chết- giải thoát. • Do tiếng sáo - quên cái chết - xắn miếng mỡ khêu lại đèn, lấy váy, quấn tóc, những động tác nhanh, mạnh, dứt khoát… * Khát vọng được sống được yêu trở lại, kéo theo hành động: muốn được thấy ánh sáng, muốn làm đẹp, ý thức về sự tồn sinh của mình (Liên hệ chi tiết: Mùi xà phòng trên áo của Ðào trong “Mùa lạc” khi kể cho Huân nghe về duyên mới, sự hồi sinh nữ tính thuờng được các nhà văn sử dụng để biểu trung cho sự trỗi dậy mạnh mẽ, sâu sắc nhất của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc) - Sự vùi dập phũ phàng: bị A Sử trói, khát vọng vừa hồi sinh đã bị vùi dập. - Nhưng sợi dây trói của A Sử chỉ trói được thân xác Mị, tâm hồn Mị vẫn bồng bềnh theo những cuộc chơi, những đám chơi. Tiếng sáo từ chỗ ở ngoài Mị nay đã thành tiếng lòng của Mị: trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo. Rập rờn là từ tượng hình, âm thanh như lá đang reo, như cánh buớm giữa vuờn xuân đang vấy, rạo rực, xôn xao trong lòng thiếu phụ…Cả đêm hôm ấy, Mị lúc mơ, lúc tỉnh. Trong bóng tối, Mị đứng yên lặng, Mị như không biết mình đang bị trói. Chân Mị vẫn vùng buớc đi, đi theo tiếng gọi của tự do. Nhưng sợi dây trói thít lại nhắc Mị nhớ cảnh ngục tù. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Tiếng gọi của sự sống, của tự do đã tắt. Chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vào vách, khô khan, tàn nhẫn như biểu tượng của thân phận. Thuvientoan.net 8 - Ðêm mùa xuân không mảy may làm thay đổi cuộc đời Mị, tuy nhiên nó đã được nhóm lên để chuẩn bị rực cháy trong hành động cứu A Phủ và cứu mình. * Tiểu kết: Qua nhân vật Mị, nhà văn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ: - Tố cáo thế lực thống trị, cường quyền, thần quyền đã liên kết để cày đạp tước đoạt quyền sống của những con người đáng ra phải được hạnh phúc nhất. - Ðồng cảm sâu sắc với số phận con người nghèo khổ miền núi trước cách mạng. - Khám phá, phát hiện vẻ đẹp, phẩm chất người lao động, đặc biệt là khát vọng sống tự do. 1.4.2. Ðêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ - Bối cảnh: những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có ngọn lửa kia Mị cũng chết héo. Sáng nào Mị cũng sưởi lửa, hơ tay, lâu lắm rồi, Mị chỉ còn biết, còn ở với ngọn lửa. Bị A Sử đánh, đêm sau Mị vẫn ra sưởi, gan lì, bướng bỉnh. Nhà văn gài một chi tiết báo hiệu sự phản kháng của Mị - Chứng kiến cảnh A Phủ bị bắt, trói: + Lúc đầu, Mị thản nhiên: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Cảnh bị trói đến chết không phải là hiếm hoi ở nhà thống lí. Mặt khác, Mị đã chịu đựng quá nhiều đau khổ về thể xác lẫn tinh thần, trơ lì cảm xúc, tê liệt khả năng cảm thông, chia sẻ với cảnh ngộ khốn cùng của người khác. Cuộc sống bao năm làm con rùa lầm lũi xó cửa khiến Mị quen cam chịu, nhẫn nhục, sức ì, quán tính quá lớn. + Hôm sau: lé mắt trông sang, thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại - chi tiết duy nhất trong đoạn trích thiên về phản ánh nội tâm A Phủ (A Phủ gần như được xây dựng đơn giản hơn Mị: nhân vật của số phận và hành động) nước mắt ở một thanh niên bản lĩnh, gan góc, yêu đời, mạnh mẽ diễn tả sâu xót nỗi đau, sự tủi cực, tình cảnh khốn cùng (có lẽ A Phủ cũng đang hình dung mình sẽ bị trói cho đến chết). Giọt nước mắt tuyệt vọng của người đàn ông khỏe mạnh đã làm thức lên sức mạnh của phái yếu, làm tan chảy cõi lòng giá băng, đánh thức hồi ức đau thương, tuyệt vọng trong quá khứ của Mị. Mị chợt nhớ lại mình, thương mình đêm năm trước, cũng bị A Sử trói như thế, nước mắt rơi xuống má, xuống cổ không lau đi được. Trời ơi, nó trói người ta đến chết! Mị lại nhớ có người đàn bà đã từng bị trói đến chết trong nhà này. Giọt nước mắt nối liền ba số phận. Lần đầu tiên, Mị ý thức tội ác của kẻ thù, nhận thấy ta là thân đàn bà, đợi ngày chết ở đây thôi, người kia việc gì phải chết thế! Nhận thấy việc A Phủ phải chết là một điều vô lí, oan ức, bất công, Mị biết thương người cùng cảnh ngộ. - Ðộc thoại nội tâm: đồng cảm với A Phủ, với những người cùng cảnh ngộ, bất bình, tình thương trỗi dậy. Thuvientoan.net 9 - Giả định: A Phủ trốn, Mị bị trói đứng, phải chết trên cái cọc ấy, không sợ: thương A Phủ quên thân, vị tha chiến thắng vị kỉ. * Tô Hoài đã cắt nghĩa logic hành động của Mị: Mị ý thức tình trạng không còn gì để mất của mình sâu sắc. - Hành động: rút dao, cắt dây trói cứu A Phủ. Ðó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Câu văn được tách riêng thành một dòng đặc biệt, khoảnh khắc ấy có tính chất quyết định đến cả một cuộc đời. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? - Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Buớc chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Ðó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Ðó chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến… - Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vuợt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. - Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tuởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Ðồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống. * Nhận xét: • Hành động tự cứu mình của Mị là hành động có tính chất tự phát, nhưng cội nguồn sâu xa của nó là khát vọng sống mãnh liệt. Thuvientoan.net 10 • Hành động làm thay đổi vị thế hai con người: nô lệ, cam chịu - tự do, nổi loạn. • Hai nhân vật gặp gỡ nhau trong đau thương, cùng đường, nhờ khát vọng tự do mà vùng lên tự thay đổi cuộc đời. 1.5. Một số đặc sắc về nghệ thuật. + Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo. Nghệ thuật miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật, ít miêu tả hành động bên ngoài, nếu miêu tả thì chú ý những hành động lặp đi lặp lại (thuờng cúi mặt, mặt buồn ruời ruợi) Muợn hình tượng thiên nhiên để miêu tả tâm trạng (mùa xuân của thiên nhiên của đất trời như gợi lên cả sức sống mùa xuân trong lòng Mị). Trực tiếp miêu tả diễn biến tâm trạng tinh tế và hợp lý (phân tích cách miêu tả diễn biến tâm trạng Mị theo hai cảnh: Ðêm mùa xuân nghe tiếng sáo gọi bạn và đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ) + Nghệ thuật kể chuyện: kể chuyện kết hợp nhiều điểm nhìn (bên ngoài, bên trong, xa, gần), dần dần khám phá thế giới nội tâm sâu thẳm và ngọn lửa sống âm ỉ đằng sau vẻ ngoài vô cảm của Mị. + Ngôn ngữ, hình ảnh: giàu chất thơ, chân xác. Chất thơ ấy, sự chân xác trong miêu tả hiện thực ấy còn được thể hiện rõ hơn nữa trong các nhân vật A Phủ và cha con thống lí Pá tra. 3.2. Hình tượng nhân vật A Phủ 3.2.1. Vị trí của nhân vật 3.2.2. Sự xuất hiện: “Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp". Một đoạn văn ngắn với hàng loạt các động từ cùng lối miêu tả các động tác nhanh, gấp: chạy vụt ra, ném, lăng, xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp... cho thấy sức mạnh và tính cách con người A Phủ qua hành động. Cách giới thiệu nhân vật gây ấn tượng, hé mở tính cách quật cường. - Khung cảnh: đêm tình mùa xuân. - Sự kiện: A Phủ đánh A Sử - Văn cảnh (xét trong hệ thống cốt truyện): khi xung đột trong Mị đang dâng lên, tạo yếu tố kịch tính giữa khát vọng hạnh phúc và hiện thực phũ phàng. 3.2.3. Số phận: bất hạnh - Lai lịch: tuổi thơ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, không còn người thân thích trên đời vì cả làng không mấy ai qua được trận dịch. A Phủ phải đi làm thuê cuốc muớn từ năm 10 tuổi, motip nhân vật mồ côi bất hạnh trong cổ tích. Thuvientoan.net 11 - Khó có được hạnh phúc giản dị của một người con trai truởng thành: không thể lấy nổi vợ. - Chỉ vì đánh A Sử, bị bắt, bị đánh đập dã man (mặt sưng, đuôi mắt giập chảy máu, hai đầu gối sưng bạnh như mặt hổ phù), cúng ma, bị cho vay nợ để nộp phạt, khao làng, không có tiền trả, phải ở nợ, cuộc đời từ đây bị cột chặt trong vòng riết xoắn của kiếp trừ nợ. A Phủ trở thành người ở trừ nợ. • Bị bóc lột sức lao động tàn tệ: Ðốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, câu văn liệt kê, con người làm việc cơ học, như một cỗ máy, triền miên, ngày qua ngày, tháng nối tháng, năm tiếp năm, mòn mỏi. • Bị trừng phạt vì làm mất bò của chủ, tự mình lấy dây mây cột mình theo lệnh của thống lí, hiện thực oái oăm, diễn tả sâu sắc, thấm thía tình cảnh tủi cực, ngang trái của kiếp đời nô lệ, cuộc gặp gỡ tự nhiên giữa Mị và A Phủ. * Cuộc gặp gỡ với số phận con dâu gạt nợ của Mị, bổ sung cho hình tượng những người lao động: vì nghèo mà chịu đời nô lệ. 3.2.4. Phẩm chất: - Gan góc, bộc trực, thẳng thắn. Từ nhỏ, khi có người bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới muời tuổi, nhưng A Phủ gan buớng, không thích ở duới cánh đồng thấp, trốn thoát lên núi, lưu lạc tới Hồng Ngài. - Cá tính ấy lại được chính cuộc sống hoang dã của núi rừng cùng hoàn cảnh ở đợ làm thuê nhiều cực nhọc, vất vả hun đúc để A Phủ trở thành một chàng trai có tính cách mạnh mẽ, táo bạo, có thể chất dồi dào: khỏe, chạy nhanh như ngựa. Biết làm mọi việc: đúc luỡi cày, đục cuốc, đi săn bò tót rất bạo, là thanh niên chăm chỉ, chịu khó, tháo vát. - A Phủ trở thành chàng trai Mông dũng cảm, niềm tự hào của trai làng, niềm uớc ao của gái bản. Con gái trong làng nhiều người mê, nhiều người nói: "Ðứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu". Người ta ao uớc đùa thế thôi, chứ A Phủ vẫn rất nghèo. A Phủ không có cha, không có mẹ, không có ruộng, không có bạc, suốt đời làm thuê, làm muớn, phép làng và tục lệ cuới xin ngặt nghèo sẽ không cho A Phủ có cơ hội để lấy vợ. Dù thế nhưng ngày Tết, cũng như bao trai làng khác, A Phủ vẫn cùng trai làng chơi xuân. - Ở vùng núi cao, bọn chúa đất như thống lí Pá Tra là một thứ trời con, con trai thống lí là con trời, không ai dám đụng tới. Nhưng A Phủ không sợ. Với A Phủ, A Sử chỉ là đứa phá đám cuộc chơi, cần phải đánh. Dám đánh lại A Sử – con trai thống lí chứng tỏ A Phủ không sợ cường quyền. Dù phải trả một cái giá rất đắt cho hành động táo tợn ấy, nhưng là người đơn giản, A Phủ không quan tâm. Thuvientoan.net 12 - Dám làm, dám chịu, khi bị đánh, A Phủ chỉ quỳ chịu đòn, im như tượng đá, gan góc, sức chịu đựng phi thuờng. - Khi đã phải sống thân phận của kẻ làm công trừ nợ, A Phủ vẫn là một chàng trai của tự do, dù phải quanh năm một thân một mình "đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa..." nhưng cũng là quanh năm A Phủ "bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng" làm phăng phăng mọi thứ, không khác với những năm tháng trước kia. Khi rừng đói, vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất bò, A Phủ điềm nhiên vác nửa con bò hổ ăn đó về. A Phủ nói chuyện đi "lấy con hổ về" một cách thản nhiên và coi đó là một chuyện rất dễ dàng. A Phủ cãi lại thống lí cũng rất điềm nhiên: A Phủ không biết sợ cái uy của bất cứ ai. Con hổ hay thống lí Pá Tra cũng thế thôi. Kể cả khi lẳng lặng đi lấy cọc và dây mây, rồi đóng cọc để người ta trói đứng mình chết thế mạng cho con vật bị mất, A Phủ cũng làm các việc ấy một cách thản nhiên, không nói. Là người mạnh mẽ và gan góc, A Phủ không sợ cả cái chết... * Nhân vật mang vẻ đẹp khoẻ khoắn, cá tính, bản linh, gan góc, tiềm ẩn sức sống, sức mạnh phản kháng, chống bạo tàn của thanh niên lao động miền núi. + Nhân vật A Phủ là một đóng góp mới của tác giả về phương diện xây dựng nhân vật. Sở truờng quan sát nhạy bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố đã giúp nhà văn, chỉ với mấy nét đơn sơ mà tạo dựng được một hình tượng đặc sắc. 3.3. Cha con thống lí Pá Tra, A Sử Tuy là hai nhân vật thuộc tuyến phản diện, thực chất thống lí Pá Tra và A Sử chỉ là một, kẻ này là hậu thân của kẻ kia, chúng đều là hiện thân của CÁI ÁC. Người đọc dễ dàng liên tưởng đến những điển hình phản diện ở miền xuôi của văn học hiện thực phê phán như Nghị Lại (của Nguyễn Công Hoan), Nghị Quế (của Ngô Tất Tố), Nghị Hách (của Vũ Trọng Phụng), Bá Kiến (của Nam Cao),… để thấy rằng, Tô Hoài đã góp thêm một điển hình của miền núi để hoàn thiện bộ sưu tập phản diện ấy. 3.3.1. Lai lịch nhân vật Ðời bố Pá Tra đã làm thống lý, đến Pá Tra bây giờ cũng làm thống lý – người cai quản một vùng bản làng miền núi của người Mèo (như chức chánh tổng ở miền xuôi), quyền uy nhất vùng: “Nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” 3.3.2. Bản chất của Pá Tra - Tàn ác tham lam đến lạnh lùng vô cảm + Mục đích bóc lột khống chế người dân để làm giàu và làm tăng thế lực. Thuvientoan.net 13 + Thủ đoạn: Cho vay nặng lãi để bóc lột người dân một cách tàn ác, trói buộc người dân vào thân phận nô lệ. Thủ đoạn này truyền từ đời bố thống lí Pá Tra đến đời của Pá Tra: “Ngày xưa bố Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Ðến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Người vợ chết cũng chưa trả hết nợ” Ðến đời Pá Tra cũng cho vay nặng lãi (cho A Phủ vay tiền) + Cách thu nợ tàn ác: Cuớp đoạt tuổi thanh xuân của con người “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho”. Hoặc bắt đi ở để trừ nợ “Mày không có bạc trăm thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu con ngựa cho nhà tao. Ðời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. + Cấu kết với thực dân để bóc lột người dân “Ðồn Tây cho muối về bán”; “ăn của dân nhiều” + Dùng thế lực cường quyền và bóng ma thần quyền để cai trị người dân. Cường quyền là quyền lực của thống lí còn thần quyền là gọi con ma về nhận mặt con dâu gạt nợ, nô lệ trừ nợ. Cảnh xử kiện bất công quái gở: Pá Tra đi kiện, Pá Tra xử kiện, Pá Tra thắng kiện. Bọn chức việc “Ðục nước béo cò”. + Ðối xử độc ác phi nhân tính với người ở. Trói người đánh người bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào (Ðàn bà bị trói bằng dây đay, đàn ông bị trói bằng dây mây…Có người còn trói vợ ba ngày đi chơi khi về vợ đã chết. Công việc của họ, phải làm luôn chân luôn tay, thân phận không bằng con trâu con bò… + Ghê rợn nhất là cung cách làm việc ác đến mức thản nhiên lạnh lùng của cha con tên chúa đất. Ta đã chứng kiến hàng loạt hành vi ghê rợn: chúng có thể vừa hút thuốc phiện vừa tra tấn người, vừa ăn uống vừa tiêu khiển bằng cách thuởng thức cảnh hành hạ con người, có thể co chân đạp thẳng vào mặt vợ, có thể trói và bỏ đói một người lực luỡng ngoài trời sương muối cho đến tiều tụy, đến chết rũ xương... Cách A Sử trói Mị: như đang bó một bó củi, hay đang trói, đang xích một con chó, vậy thôi. Trói vợ xong, nó thản nhiên trang điểm (sửa cái vòng bạc trên cổ có những tua chỉ xanh đỏ, thắt lại cái thắt lưng có cái khoá bằng bạc...), tắt đèn, khép cửa, đi chơi hội. Ðó là một chuỗi việc làm của A Sử. Bình tĩnh, thản nhiên, lạnh tanh, cái ác đã ngấm vào máu. 3.3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Pá Tra - Qua lời kể của các nhân vật khác: “Người ta thuờng nói nhà Pá Tra làm thống lí…”, “Người nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn kể lại…”, “Câu chuyện người ta vẫn kể…”. Qua lời nói và hành động của nhân vật Pá Tra. Qua nghệ thuật tả cảnh: Cảnh xử kiện, cúng ma… Tô Hoài là nhà văn rất có sở truờng về tả cảnh (Thiên nhiên và con người miền núi). Thuvientoan.net 14 - Dùng môtip đã quen thuộc và có phần công thức của truyện cổ dân gian, nhưng nhờ hết sức chân thực trong chi tiết và hết sức hợp lí trong mạch vận động mà Tô Hoài đã tạo được ấn tượng sâu đậm khi mô tả chân tuớng CÁI ÁC. Hình tượng, vì thế, có một sức sống thật độc đáo. 4. Phân tích giá trị của tác phẩm 4.1. Giá trị hiện thực - Phản ánh bộ mặt giai cấp thống trị miền núi với tội ác về cường quyền và tội ác về thần quyền. - Phản ánh đời sống của người dân lao động nghèo khổ bị áp bức (đời sống tăm tối đau khổ). - Sự bùng lên đấu tranh tự phát bột phát - tự giác. - Những nội dung hiện thực nói trên được thể hiện qua các hiện tượng Thống Lý Pá Tra, A Sử điển hình cho giai cấp thống trị, Mị và A Phủ điển hình cho người nông dân lao động bị áp bức. 4.2. Giá trị nhân đạo mới mẻ độc đáo. - Tố cáo thế lực thống trị, cường quyền, thần quyền đã liên kết để tước đoạt quyền sống, không chỉ tước đoạt quyền sống mà con cướp đi cả sức sống của con người, những con người đáng ra phải được hạnh phúc nhất. Mị từ cô gái nết na xinh đẹp giàu sức sống trở thành một công cụ lao động biết nói mà không dám nói, A Phủ từ một chàng trai khoẻ mạnh trở thành một nông nô có lúc cũng trở lên cam chịu mất cả sức sống. - Ðồng cảm sâu sắc với số phận con người nghèo khổ miền núi trước cách mạng. Niềm thương cảm trước những số phận đau khổ, bị chà đạp cả về thể xác và tinh thần (với niềm thương cảm sâu sắc, tác giả như đã hoá thân vào nhân vật Mị để nói lên những đau khổ, khát vọng của người phụ nữ này). - Khám phá, phát hiện vẻ đẹp, phẩm chất người lao động, đặc biệt là khát vọng sống tự do. Khẳng định, ca ngợi sức sống tiềm tàng, sức mạnh vùng lên giải phóng của người lao động bị áp bức (nội dung trọng tâm thể hiện qua cả hai nhân vật: Mị và A Phủ, đặc biệt là nhân vật Mị). (Ở mỗi luận điểm: phân tích ở cả hai nhân vật, có sự đối chiếu, liên hệ khéo léo với các nhân vật đồng dạng khác trong văn học) - Giải pháp đấu tranh xuất hiện mang ý nghĩa nhân đạo: con người có khả năng thực hiện những khát vọng của mình bằng con đường vùng lên đấu tranh (so sánh hình tượng nhân vật Mị với hình tượng nhân vật chị Dậu để thấy được tác phẩm văn học Cách mạng không chỉ phản ánh lý giải hiện thực mà còn góp phần cải tạo hiện thực) 4.3. Giá trị nghệ thuật Thuvientoan.net 15 - Khắc hoạ sinh động nhân vật và có cá tính rõ nét. Hai nhân vật Mị và A Phủ có số phận giống nhau nhưng tính cách khác nhau được tác giả thể hiện bằng những bút pháp thích hợp. + Mị được miêu tả bằng rất ít hành động, mà chủ yếu là sự lặp đi lặp lại những công việc lao động của người phụ nữ trong cuộc sống tù hãm, một số nét phác hoạ chân dung cũng được nhắc đi nhắc lại gây ấn tượng đậm, thể hiện chủ yếu qua dòng ý nghĩ tâm tư, nhiều khi là tiềm thức chập chờn. Giọng trần thuật của tác giả nhiều chỗ nhập vào dòng tâm sự của nhân vật => Diễn tả những ý nghĩ, tâm trạng và cả những trạng thái mơ hồ của tiềm thức nhân vật. + A Phủ với tính cách gan góc, bộc trực, táo bạo thì lại được thể hiện bằng nhiều hành động, công việc và vài lời đối thoại rất ngắn ngủi, giản đơn. - Ngòi bút sâu sắc và tinh tế khi soi vào tâm lí nhân vật => Diễn tả những xung động diễn biến của nội tâm nhân vật. - Ngòi bút tả cảnh đặc sắc, am tuờng những nét sinh hoạt, phong tục riêng. - Nghệ thuật kể chuyện cũng rất thành công, cách giới thiệu gây sự chú ý, tạo ấn tượng. - Ngôn ngữ sinh động và chọn lọc, có sáng tạo. Lối văn giàu tính tạo hình, giọng kể, nhịp kể chậm, trầm lắng phù hợp với sự cảm thông, yêu mến hai nhân vật chính. “Ở Vợ chồng A Phủ, nhà văn đã có sự dụng công và thành công trong miêu tả, trong dựng cảnh. Ông đã dựng lên cho bạn đọc thấy diễn biến tâm lí cùng đời sống nội tâm của nhân vật qua hàng loạt chi tiết bên ngoài như một dáng ngồi, một cách ăn mặc, một vài câu hỏi, một cái nhìn, một buớc đi… đến một tảng đá hay một ô cửa sổ… khi miêu tả như thế, do đã được nhập vào với số phận của nhân vật, thuộc được hoàn cảnh sống đầy biến động và đổi thay của nhân vật, nhà văn đã định ra được một cách tự nhiên một mạch lời kể chuyện vừa phù hợp với tâm lý riêng của họ, vừa mang sự gãy gọn của ngôn ngữ văn xuôi hiện đại” (Nguyễn Quốc Luân) III. Tổng kết - Vợ chồng A Phủ là thành công có tính khai phá của Tô Hoài về đề tài miền núi trong nền văn học mới. Ðời sống và con người miền núi đi vào tác phẩm với những nét bản chất, bằng tình cảm yêu mến và cái nhìn nhân đạo tích cực, quan điểm giai cấp rõ ràng. - Tư tưởng nhân đạo cách mạng thấm nhuần ý thức giai cấp, phát hiện khát vọng sống, khả năng giác ngộ và con đường đi tới Cách mạng của người dân miền núi, đề cao tình hữu ái giai cấp, sự đồng cảm của những con người nghèo khổ cùng cảnh ngộ, đó là những điểm đáng chú ý trong thành công của tác phẩm này. - Khi những dòng cuối cùng của tác phẩm khép lại, trong ta như vẫn còn văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng, tiếng trẻ con nô đùa cuời ầm trước sân, cảnh uống rượu Thuvientoan.net 16 trong nhà thống lí Pá Tra, cảnh trai gái hẹn hò ngày Tết, cảnh cô dâu lúc nào mặt cũng cúi... Thế giới Tây Bắc xa xăm với những cảnh, những việc, những người vẫn không nguôi đọng lại trong tâm trí mỗi người. Nếu không gắn bó sâu sắc với hiện thực, không sẵn lòng cảm thông, chia sẻ, không có một bút lực dồi dào, khó có thể nào viết được những trang văn đặc sắc như vậy. Dạng đề 1: Phân tích một chi tiết, hình ảnh… Dạng đề 2: Phân tích nhân vật Dạng đề 3: Phân tích một khía cạnh giá trị tác phẩm (giá trị nhân đạo mới mẻ độc đáo của tác phẩm, giá trị hiện thực sâu sắc, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật) Dạng đề 4: Phân tích một trích đoạn (đêm tình mùa xuân, đêm mùa đông cắt dây trói cho A Phủ) Dạng đề 5: Dạng đề liên kết (So sánh hình tượng người phụ nữ trong hai tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt”; so sánh hai đoạn trích; so sánh nhân vật Pá Tra, Bá Kiến…) GỢI Ý CÁCH LÀM CÁC DẠNG BÀI Dạng 1: Cách làm bài: các ý cơ bản cần đảm bảo Ý 1: tái hiện chi tiết, tình tiết, hình ảnh, vị trí và tình huống mà chi tiết xuất hiện Ý 2: Phân tích ý nghĩa biểu đạt về nội dung và nghệ thuật của chi tiết, hình ảnh Ý 3: Ðánh giá sự đặc sắc của chi tiết hình ảnh trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm, trong thành công của nghệ thuật tác phẩm. Ví dụ: 1. Chi tiết tiếng sáo được nhắc đến nhiều lần + Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi + Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng + Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đường + Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi,… - Ý nghĩa + Tiếng sáo biểu hiện cho vẻ đẹp của phong tục, nét đẹp văn hóa người dân miền núi. Tiếng sáo là biểu tượng đẹp đẽ nhất của tình duyên, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống của Mị. + Là biểu tượng cho tiếng gọi cuộc sống, tình yêu; nó đã lay gọi, khơi gợi lòng yêu đời, yêu cuộc sống tự do trong Mị. Trong đêm tình xuân, tiếng sáo ấy làm Mị “thiết tha, bổi hổi”, là tác nhân quan trọng làm thức dậy trong Mị khát vọng tình yêu và hạnh phúc - dấu hiệu đầu tiên của sự hồi tỉnh là Mị sống lại với những kỉ niệm ngày trước. Nếu như trước đây, Mị tồn tại trong trạng thái vô hồn, vô cảm, Thuvientoan.net 17 với cảm thức phi thời gian, thì bây giờ Mị đã có ý thức về thời gian, trái tim đã đập những nhịp bồi hồi, xao xuyến, thôi thúc Mị bất chấp cảnh ngộ, muốn đi chơi. + Có quan hệ mật thiết với quá trình diễn biến tâm lí của Mị, là động lực thúc đẩy Mị đi đến hành động chuẩn bị đi chơi xuân + Thể hiện tư tưởng của tác phẩm: sức sống con người cho dù bị giẫm đạp, trói buộc nhưng vẫn luôn âm ỉ chờ cơ hội bùng lên -> giá trị nhân đạo 2. Chi tiết căn buồng Mị - Ðó là căn buồng “kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” - Ý nghĩa tả thực: là nơi Mị sống hằng ngày, chật chội và tù túng. - Ý nghĩa biểu tượng: Như một nhà tù đã giam hãm cuộc đời và tuổi xuân của Mị, làm tê liệt ý thức sống, ý thức phản kháng của Mị. Sống ở đó Mị đã mất hết ý thức về thời gian, không còn nghĩ đến quá khứ, hiện tại, tương lai mà xem “mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, ngày càng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” -> Phản ánh cuộc sống đen tối, mờ mịt của người lao động miền núi duới ách thống trị của cường quyền và thần quyền. Giá trị hiện thực, tố cáo. 3- Chi tiết lá ngón Mị nghĩ đến lá ngón 3 lần: - Lần 1: “Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong rừng, Mị vẫn giấu trong áo”- định ăn lá ngón để tự tử -> ý thức về cuộc sống tủi nhục của mình -> không chấp nhận kiếp sống “người - vật”. - Ý nghĩa: + “Lá ngón” xuất hiện lần đầu tiên như một lối thoát. Ðây là lối thoát ngắn và hữu hiệu nhất, sự phản kháng quyết liệt nhưng vô vọng – một hình thức phản kháng bị động. + Sự xuất hiện của “lá ngón” lúc này mang tầm ý nghĩa tố cáo xã hội ép buộc con người lương thiện đi tìm cái chết. + Lá ngón cũng là hiện thân cho nỗi thống khổ của nhân dân, cho những tích tụ đắng cay, đầy đau đớn và uất hận. + Tự mình tìm đến lá ngón – độc dược của rừng xanh là sự can đảm của người con gái. Nhưng ném đi độc dược để tiếp tục sống khổ lại càng can đảm hơn. Ðối với Mị, thà chết đi hơn sống nhục, nhưng rồi lại thà sống nhục còn hơn bất hiếu. Chính chữ hiếu là bản lĩnh cao đẹp nơi người con gái trẻ. + “Lá ngón” như vậy, đã mang một tầng ý nghĩa nhân sinh tuy bản thân tượng trưng cho cái chết. Tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát chính là hành động để khẳng định lòng ham sống, khát vọng tự do. Ðiều đó cho thấy, phải tha thiết sống lắm thì khi mất nó người ta mới muốn chết ngay đi. Còn khi niềm khao Thuvientoan.net 18 khát sống, khao khát hạnh phúc đã băng giá lại thì cũng chẳng còn gì thúc đẩy người ta nghĩ về cái chết. Ðó là lí do cắt nghĩa vì sao khi người cha đã mất rồi mà ý nghĩ về nắm lá ngón không trở lại với Mị, chừng nào cô còn là một cái bóng vật vờ trôi theo guồng công việc và không còn nhớ đến cả sự xót thương mình. - Lần 2: “Lần lần, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tuởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” Người thân duy nhất qua đời nhưng cái thôi thúc giải thoát trong Mị nay đã tắt. Mị không còn nghĩ đến đấu tranh bởi lẽ sống hay chết đối với cô lúc này không quan trọng nữa và đương nhiên “lá ngón” cũng chẳng còn trong tâm trí đã ngủ quên. Ðó chính là sự xuất hiện lần thứ hai của “lá ngón” vì ở lần này, “lá ngón” xuất hiện bằng cách ra đi. Lá ngón phai mờ tượng trưng cho sự ham sống đã nguội lạnh. - Lần 3: Trong đêm tình xuân: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. + Tiếng sáo gọi bạn làm Mị nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp trong quá khứ + Mị lấy rượu ra uống “ực từng bát” - Mị đang uống khát khao, mơ ước, căm hận vào lòng, nhưng càng uống càng tỉnh, nhớ lại mình ngày xưa, so với mình hiện tại, giật mình cho những gì bấy lâu phải chịu đựng, ý thức cá nhân dâng lên mạnh mẽ, không thể chấp nhận nhục nhã đớn đau trong cái cảnh “sống không ra người”, không thể tự do thể xác, lá ngón một lần nữa xuất hiện. Khi muốn giải thoát, Mị tìm tới lá ngón; khi Mị muốn chết, lá ngón lại hiện về “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Lá ngón lại lần nữa xuất hiện với tầng ý nghĩa giải thoát, nhưng được lên một nấc của “sự tự ý thức”, đánh dấu sự trở lại của ý thức sống, đánh dấu sự thức tỉnh của một tâm hồn tuởng chừng như đã “chết đi trong cõi sống”. + Lần xuất hiện này của lá ngón là quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất. Mị nghĩ đến lá ngón với sự cương quyết tột cùng, trạng thái phẫn nộ và ý thức rõ nhất vì giờ đây, cô không còn gì để hối tiếc. Tuổi xuân đầu đời – thời gian đẹp nhất – nay đã hết, cha già – nguồn yêu thương vô tận cũng không còn. Lòng Mị nay là cõi chết. Lá ngón đối với nàng không là liều thuốc độc, mà trở thành thứ phương tiện, hình thức, con đường để đi đến một bến bờ khác không còn đớn đau, Mị tìm đến lá ngón là tìm đến cái chết như một sự tự cứu và phản kháng. - Khái quát: chấm màu xanh lá ngón vào bức tranh xô bồ của thời cuộc, Tô Hoài đã đưa “lá ngón” từ chỗ độc dược ngàn đời của núi rừng, là cái chết từ thiên nhiên, nay bỗng nhiên lại là sự giải thoát. Lá ngón xuất hiện ba lần với ba tầng ý nghĩa ngày càng sâu sắc hơn, dữ dội hơn. Cái độc của lá ngón còn thua cái độc của xã hội. Lá càng độc là đớn đau đồng bào chịu càng nhiều. Lá ngón trở thành dấu hiệu báo động cho sự khẩn thiết, cầu cứu của đồng bào miền cao. Dạng 2 Thuvientoan.net 19 Phân tích nhân vật Mị + Tổng quát: Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm. Vị trí, ý nghĩa hình tượng nhân vật Mị trong việc biểu hiện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. + Phân tích: Số phận bất hạnh. Sự hồi sinh khát vọng sống và khát vọng tự do. + Ðánh giá: Vai trò, ý nghĩa hình tượng với giá trị tác phẩm: giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mới mẻ, độc đáo. Ðặc sắc nghệ thuật xây dựng hình tượng. So sánh với hình tượng phụ nữ khác. Phân tích nhân vật A Phủ + Tổng quát: Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm. Vị trí, ý nghĩa hình tượng nhân vật A Phủ trong việc biểu hiện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. + Phân tích: Số phận bất hạnh. Phẩm chất. + Ðánh giá: Vai trò, ý nghĩa hình tượng với giá trị tác phẩm: giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mới mẻ, độc đáo. Ðặc sắc nghệ thuật xây dựng hình tượng Dạng 3: Giá trị nhân đạo mới mẻ độc đáo. - Phân tích dựa vào ba luận điểm: + Tố cáo thế lực thống trị, cường quyền, thần quyền đã liên kết để tước đoạt quyền sống của những con người đáng ra phải được hạnh phúc nhất. + Ðồng cảm sâu sắc với số phận con người nghèo khổ miền núi trước cách mạng. + Khám phá, phát hiện vẻ đẹp, phẩm chất người lao động, đặc biệt là khát vọng sống tự do. - Ở mỗi luận điểm: phân tích ở cả hai nhân vật, có sự đối chiếu, liên hệ khéo léo với các nhân vật đồng dạng khác trong văn học. Dạng 4: Phân tích đêm tình mùa xuân Dựa vào phần kiến thức cơ bản, phân tích diễn biến tâm trạng của Mị, qua đó thấy được: + Khát vọng sống và khát vọng tự do mãnh liệt. + Nghệ thuật miêu tả nội tâm tinh tế. Dạng 5: So sánh 1. So sánh hình tượng người phụ nữ trong hai tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt”. + So sánh dựa trên các đặc điểm chủ yếu: Số phận và Phẩm chất. + Qua so sánh thấy được đặc trưng thi pháp văn học kháng chiến, đồng thời làm rõ nét riêng trong giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của hai tác phẩm 2. So sánh nhân vật Pá Tra và Bá Kiến Nội dung chính Thuvientoan.net 20 Phân tích nhân vật Bá Kiến Lai lịch nhân vật: Nhà Bá Kiến bốn đời làm tổng lí. Con trai hắn làm lí truởng. Bản thân Bá Kiến làm lí truởng rồi làm chánh tổng. Hắn leo lên đỉnh cao của danh vọng “Bá hộ tiên chỉ làng Vũ Ðại”, “Chánh hội đồng kì hào, huyện hào, Bắc kì nhân dân đại biểu”. Hắn có phe cánh mạnh luôn đối địch với bọn cường hào trong làng. Bản chất Bá Kiến - Gian hùng, nham hiểm - Thủ đoạn dùng người - Ném đá giấu tay - Ðểu cáng tàn bạo, dâm ô đồi bại Nghệ thuật xây dựng nhân vật. Bá Kiến là nhân vật điển hình. + Bá Kiến có nét chung của giai cấp thống trị tham lam tàn bạo không từ một thủ đoạn nào để bóc lột người nghèo (giống Nghị Quế, Nghị Lại…) + Bá Kiến có nét riêng của tên ác bá gian hùng, nham hiểm, thủ đoạn (cái cuời để thử dây thần kinh người, lối nói giả dối…) + Nghệ thuật độc đáo, sắc sảo của Nam Cao: Các nhà văn hiện thực khác chỉ chú ý miêu tả ngoại hình giai cấp thống trị, còn Nam Cao ít chú ý ngoại hình khi xây dựng nhân vật Bá Kiến. Ông chủ yếu khắc họa tâm địa “Cụ cuời nhạt nhưng giòn giã lắm”, “Bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh người”, “tiếng cuời Tào Tháo”… Tóm lại: Bá Kiến là nhân vật tiêu biểu cho giai cấp thống trị đương thời. Bá Kiến là sự hội tụ những nét tàn bạo, xảo quyệt, đểu cáng của bọn người bóc lột. Nhân vật Pá Tra Lai lịch nhân vật: Ðời bố Pá Tra đã làm thống lý, đến Pá Tra bây giờ cũng làm thống lý – người cai quản một vùng bản làng miền núi của người Mèo (như chức chánh tổng ở miền xuôi), quyền uy nhất vùng: “Nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” Bản chất của Pá Tra: Tàn ác tham lam đến lạnh lùng vô cảm + Mục đích bóc lột khống chế người dân để làm giàu và làm tăng thế lực. + Thủ đoạn: Cho vay nặng lãi để bóc lột người dân một cách tàn ác, trói buộc người dân vào thân phận nô lệ. Cách thu nợ tàn ác. Dùng thế lực cường quyền và bóng ma thần quyền để cai trị người dân. Ðối xử độc ác phi nhân tính với người ở Nghệ thuật xây dựng nhân vật Pá Tra Thuvientoan.net
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan