Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Phân tích tác phẩm người lái đò sông đà (nguyễn tuân)...

Tài liệu Phân tích tác phẩm người lái đò sông đà (nguyễn tuân)

.PDF
10
1
55

Mô tả:

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ Nguyễn Tuân Lời mở: Tuỳ bút là một thể loại văn xuôi có đóng góp đáng kể vào nền văn học hiện đại nước nhà. Có thể kể ra nhiều tác giả, tác phẩm thành công ở thể loại này: Thạch Lam với Hà Nội băm sáu phố phường, Nguyễn Trung Thành với Đường chúng ta đi, Vũ Bằng với Thương nhớ mười hai, Hoàng Phủ Ngọc Tường với Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu, Rất nhiều ánh lửa, Ai đã đặt tên cho dòng sông? Và không thể không kể đến ông vua của thể tùy bút Nguyễn Tuân với Người lái đò Sông Đà. I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả: Nguyễn Tuân (1910 – 1987) Xuất hiện trên đàn văn vào cuối thập niên 30 và đầu 40, Nguyễn Tuân đã khẳng định ngay lập tức tên tuổi của mình ở một văn phẩm gần như đạt đến sự hoàn thiện và hoàn mỹ của một phong cách viết: Vang bóng một thời. Ông được coi là cây đại thụ của rừng đầu nguồn Việt Nam thế kỉ 20 với một phong cách nghệ thuật tài hoa, độc đáo. Là cây bút tài năng ở cả truyện ngắn, nghiên cứu phê bình văn học, ký… Tuy nhiên, vương quốc để Nguyễn Tuân xây nên lâu đài nghệ thuật nguy nga tráng lệ là ở Tùy bút. Người lái đò Sông Đà là minh chứng cho sở trường nghệ thuật ở thể tài tùy bút. Qua đây, người đọc có thể thấy chân dung của một cái tôi tài hoa, uyên bác mà mỗi con chữ không chỉ là lâu đài chữ nghĩa mà còn là bể thắm tâm hồn, chở nặng tấm lòng của nhà văn đối với đất nước, con người. Chính tấm lòng yêu con người, yêu đất nước góp phần làm nên những trang văn thật tài hoa của Nguyễn Tuân: “Nói chuyện với người lái đò sông Đà như càng lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước” (Lời tác giả). 2. Tác phẩm 2.1. Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời, đề tài, nguồn cảm hứng Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” rút từ tập “Sông Đà” gồm 15 tùy bút và một bài thơ phác thảo, ra đời năm 1960 trong khí thế phấn khởi hào hùng của những năm tháng miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khắp đất nước dậy vang Tiếng hát con tàu, sục sôi tiếng gọi vọng về từ Đoàn thuyền đánh cá. Chính những âm thanh ấy đã thổi bùng lên nhiệt tình cách mạng, giục giã bước chân phiêu lãng của Nguyễn Tuân tìm về với mảnh đất miền Tây của Tổ quốc, khám phá chất vàng của thiên nhiên và tâm hồn dân tộc để đúc lại trong thiên tùy bút… Viết về dòng sông địa đầu tổ quốc, dồn nét trong tâm khảm Nguyễn Tuân là cảm hứng ngợi ca, khẳng định sự thay đổi của thiên nhiên đất nước trong thời kì đổi mới. 2.2. Thể loại 2 Tùy bút là một dạng có tính chất trung gian giữa tự sự với trữ tình, giữa thơ với văn xuôi, giữa yếu tố chủ quan và khách quan,… vừa có tính chất ghi chép (kí), vừa có chất thơ (trữ tình) vừa mang màu sắc triết học trong tư duy. Trong tuỳ bút cũng có kể chuyện, thuật sự. Nhưng cái mạch chính, ưu trội lên, luôn là trữ tình. Đó là thể văn tự do, tương đối phóng túng, nhưng vẫn có nguyên tắc của nó. Một trong những nguyên tắc mà người ta hay nói đến là nguyên tắc kết cấu: vừa tán, vừa tụ. Bề mặt có vẻ tản mạn, nhưng bề sâu lại nhất quán về ý nghĩa, tư tưởng, chủ đề, tạo trục xuyên suốt như khối vuông ru bích. Tùy bút Nguyễn Tuân là đỉnh cao tùy bút Việt Nam mà qua đó, ta thấy một cái tôi tài hoa, uyên bác. Nếu như trước cách mạng tháng Tám, ông viết về những con người đặc chủng, đặc tuyển thì giờ đây, những con người bé nhỏ, bình thường mà vĩ đại lại là nhân vật chính trong sáng tác Nguyễn Tuân. 2.3. Giá trị của tác phẩm - Giá trị thông tin, tư liệu: công trình khảo cứu về Sông Đà, cung cấp những hiểu biết chân xác, lí thú về Sông Đà, về lịch sử, địa thế, phong cách vượt thác của người lái đò, sự chuẩn bị của nhà nước để chinh phục Sông Đà. - Giá trị văn chương. II. Đọc hiểu văn bản Giá trị đích thực của tác phẩm văn chương không phải chỉ qua việc phản ánh, khắc họa hiện thực mà còn ở tầm tư tưởng, cảm xúc và những suy nghiệm sâu sắc về con người, về cuộc sống. Cái đẹp của văn tuỳ bút Nguyễn Tuân thể hiện tập trung ở Người lái đò Sông Đà, nhưng lòng yêu mến thiết tha, thái độ trân trọng chế độ mới, cuộc sống mới và sự thay đổi căn bản trong quan niệm thẩm mĩ chính là cái mạch ngầm tư tưởng, cảm xúc có ý nghĩa quyết định đối với công việc sáng tạo của người nghệ sĩ. Khi phân tích, không chỉ chú ý làm nổi bật cái tôi tài hoa, uyên bác, cần hết sức lưu tâm đến cái tôi dào dạt, tinh tế trong cảm xúc, chân thành gắn bó với đất nước và dân tộc của một nhà văn từng có thời kì dài thoát li cuộc sống, chỉ ham mải miết trong xê dịch,… 1. Hình tượng Sông Đà 1.1. Tính cách hung bạo - vẻ đẹp dữ dội, hùng vĩ *Vị trí của nhân vật trong tác phẩm: Hình tượng trung tâm của tùy bút là người lái đò, nhưng những trang đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân lại dành cho con sông mà ở đó, hình như cái ngông của ngòi bút Nguyễn Tuân đã gặp gỡ với cá tính đặc biệt của sông như một cuộc hẹn hò từ lâu với đứa con bướng bỉnh của bà mẹ Tây Bắc. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã trân trọng viết hoa cả hai chữ Sông Đà. Sông nước xứ mình đã chảy bao nhiêu trên trang viết của Nguyễn Tuân, nhưng chưa ở đâu, hình ảnh dòng sông lại hiện lên sống động như một sinh thể, có tâm trạng, có linh hồn, có tên riêng trong khai sinh, có lai lịch và tính cách phức tạp, phong phú như sông Đà trên trang văn của Nguyễn Tuân. Sự phức tạp ấy tập trung thể hiện ở hai phương diện mà Nguyễn Tuân gọi là hung bạo và trữ tình. Thuvientoan.net 3 * Biểu hiện của tính cách hung bạo, vẻ đẹp dữ dội, hùng vĩ của Sông Đà - Hiện lên qua lời đề từ: Thơ Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”. Nét riêng của Sông Đà: thế chảy độc đáo, nghịch ngược, không giống ai của Sông Đà. Nguyễn Tuân tìm thấy sự đồng cảm với cái “ngông” của thiên nhiên. - Biểu hiện chủ yếu ở khúc thượng nguồn: lắm thác, nhiều ghềnh, độ dốc lớn, nước chảy xiết. + Bờ sông có những đoạn rất hiểm trở: Vách đá: “dựng vách thành”, hai bờ sừng sững như áp sát nhau. Đó là vách đá hẹp, sâu, dốc thẳng đứng được đặc tả bằng một loạt các liên tưởng, so sánh cụ thể, độc đáo: Mặt sông chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Nó chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này nhẹ tay ném hòn đá qua vách… Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh…ta có cảm giác thất thần như ngước nhìn lên một tòa cao tầng nào đó vừa tắt phụt đèn điện. Chưa hết bàng hoàng, ta bị cuốn theo những âm thanh man dại của âm thanh tiếng nước mặt ghềnh Hát Loóng. + Âm thanh tiếng nước: Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt... Chúng ta vẫn hát Em có nghe thấy gió nói gì không? Và hình dung tiếng gió dịu dàng trong lời thì thầm tình tự. Nhưng hẳn đó không phải là cái gió cuồn cuộn như thành hình, gùn ghè (biến âm của hai tiếng gầm gừ và hầm hè chăng?) như thành tiếng. Một thứ tiếng quỷ quái và ghê rợn: Thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Chưa thỏa, nhà văn còn tiếp tục tả tiếng thác với muôn vàn giọng điệu: Nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… Thế rồi, nó bất thần Rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa như nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng - Những câu văn trùng điệp gợi không khí quay cuồng, bỏng rát của một trận cuồng lửa, hủy diệt. Dùng lửa để tả nước, lấy rừng tả sông, đem những yếu tố vốn tương khắc, giờ lại hòa hợp để tương sinh một so sánh độc đáo, gợi cảm là nhà văn muốn nhấn mạnh đặc tính hủy diệt ghê gớm của Sông Đà. Câu văn có kết cấu trùng điệp, liên hoàn, nhịp ngắn tạo giọng văn dồn dập, gấp gáp, căng thẳng, từ ngữ cực tả trạng thái dữ dội gợi ấn tượng hãi hùng, rùng rợn và sức tàn phá khủng khiếp. Dữ dội nhất phải kể đến những hút nước. Trông xa nó giống như cái lúm đồng tiền trên má một cô nàng xinh xinh, nhưng kì thực nó là mồ chôn bao số phận. Nguyễn Tuân đã đặc tả hút nước Sông Đà: sâu, sáng, xanh trong thăm thẳm bằng những so sánh đặc biệt. + Hút nước: Giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Mặt giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh. Cốc pha lê nước khổng lồ. Từ đáy hút nước nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Kết hợp thủ pháp của văn học Thuvientoan.net 4 và thủ pháp của điện ảnh, Nguyễn Tuân đã truyền đến độc giả cảm giác chân thực, sống động như tận mắt chứng kiến vẻ hung bạo một cách hùng vĩ của Sông Đà. + Đá: Sông Đà đã dàn bày thạch trận trên sông như một trận đồ bát quái bắt dìm bằng hết, bắt chết bằng được bất cứ con thuyền nào qua đó. Thạch trận không chỉ có vẻ hung hãn, dữ dằn của vách đá, hút nước mà còn bộc lộ bản chất nham hiểm, xảo quyệt. Mặt sông Đà “cả một chân trời đá nó bày thạch trận trên sông đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngay trên sông đòi ăn chết cái thuyền”. Có những đoạn mặt ghềnh “nước xô đá đá xô sóng sóng xô gió cuồn cuộn những luồng ghùn ghè suốt năm...”. Mặt hòn đá nào cũng ngỗ ngược, “nhăn nhúm”, méo mó. Nó đứng, ngồi, nằm, nghiêng với những nhiệm vụ riêng, bày sẵn thạch trận thành ba tuyến. Bày ba trùng vi nhằm tước đoạt và hủy diệt đến cùng sự sống của con người: giở mọi thủ đoạn, mưu ma chước quỷ để dẫn dụ, phục kích, đó là “binh pháp” sâu hiểm của “thần sông thần đá”. Chúng đã chọn khúc ngoặt – khi tầm nhìn bị hạn chế để đánh phục kích, dụ người vào sâu thế trận, đánh quật vu hồi, cô lập hóa, chặn mọi đường sinh. Khi giáp lá cà: giở mọi ngón đòn hiểm ác: nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, uy hiếp tinh thần đối phương. Với cách miêu tả mang cảm giác mạnh, nhà văn Nguyễn Tuân đã dựng nên một nét tính trội của sông Đà đó là rất dữ dội hung bạo nhưng đồng thời nó cũng rất sống động như một sinh thể sống. Vì thế tác giả thường gọi con sông Đà chứ ít gọi là dòng sông. - Tuy nhiên, để thấy hết cái dữ dội của Sông Đà, phải cùng ông bước vào trận thủy chiến với cả một đội quân hùng hậu, đông đảo, dữ dằn, hung hãn của sông gồm có lực lượng: đá hậu, đá tướng, đá tiền vệ với nhiều thủ đoạn nham hiểm. Chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba trùng vi, tập đoàn cửa sinh cửa từ, hệ thống boongke, pháo đài đá chìm nổi, lộ diện hay giấu mặt... Trùng vây thứ nhất có bốn cửa tử, một cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng vào mình, mặt nước hò la vang dậy (…), ùa vào mà bẻ gẫy cán chèo võ khí trên cánh tay ông lái, chúng dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến, sóng nước như quân liều mạng đội thuyền lên với vẻ hùng hổ, nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, hung hăng như một đấu sĩ bất bại. Chúng đã dùng đến miếng đòn hiểm độc nhất: luồng nước (…) bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò. Chúng muốn giở ngón đòn hiểm hóc quyết định nhằm nốc ao đối phương. + Trùng vây thứ hai, chúng tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Chúng bộc lộ bộ mặt nham hiểm, xảo quyệt. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá - thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đòn cửa tử - dai dẳng, quyết liệt. Chúng không ngừng khiêu khích. Trùng vây ba ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác… Dường như có bao nhiêu liên tưởng độc đáo, bao nhiêu sáng tạo từ ngữ dồn chứa đã tụ hội về đây, tạo nên bức tranh sơn dầu hoành tráng với những mảng màu va đập tới tấp làm náo động cả không gian. Bằng cách đó, Nguyễn Tuân đã Thuvientoan.net 5 bắt sự hung bạo phải hiện lên thành hình khối, đường nét, âm thanh và muôn vàn chuyển động sống động. * Dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Tuân - Về nội dung: Qua vẻ đẹp hung bạo của Sông Đà, Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước say đắm thiết tha của một người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp kì vĩ hào hùng của thiên nhiên Tây Bắc. Đồng thời, cũng tạo nên bối cảnh không gian chuẩn bị cho sự xuất hiện của con người, nhấn mạnh môi trường lao động đầy gian lao thử thách để ca ngợi con người. Khắc họa bản chất Sông Đà: vừa “khắc nghiệt như dì ghẻ, chúa đất”, vừa hùng vĩ dữ dội để tạo ấn tượng về con sông mang diện mạo một kẻ thù số một, thách thức đối với con người, gợi ham muốn chinh phục, khám phá, chế ngự. - Về nghệ thuật: Ngôn từ phong phú, sử dụng thuật ngữ, hệ từ vựng của nhiều ngành khoa học, nghệ thuật khác nhau (quân sự, võ thuật, thể thao…) để diễn tả tính chất cuộc đấu tranh giữa con người – tự nhiên: quyết liệt, căng thẳng, một mất một còn. Cảm xúc dạt dào, tinh tế. *Tiểu kết: Mặc dù hình tượng nổi bật trong tác phẩm là người lái đò nhưng xuyên suốt tác phẩm là hình tượng rất riêng của con sông Đà. Nếu như thần thoại “Sơn Tinh, Thủy Tinh” lý giải cái hung bạo, khắc nghiệt của Sông Đà bằng tư duy cổ sơ “năm năm báo oán đời đời đánh ghen”, Nguyễn Tuân lại dựng lên vẻ đẹp dữ dội, hung bạo, hùng vĩ của Sông Đà bằng những trang văn cụ thể, chân xác, giàu liên tưởng. Qua đó, có thể thấy niềm say mê của Nguyễn Tuân muốn dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hóa và những kì tích lao động của con người, tình yêu thiên nhiên đắm say và tinh thần dân tộc. Một tấm lòng dào dạt với cuộc sống mà Nguyễn Tuân đã hòa nhịp bằng trái tim chân thành của một nghệ sĩ tài hoa. Ngòi bút Nguyễn Tuân không chỉ vẫy gió tuôn mưa khi nói về vẻ đẹp hùng vĩ của dòng sông mà tâm hồn còn dào dạt mênh mông khi viết về dòng sông trữ tình. Có thể nói, tất cả những đối cực khác nhau của cái đẹp đều được nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân phô khoe hết vẻ đa dạng phong phú trong ngòi bút... 1.2. Vẻ đẹp nên thơ và trữ tình - Vẻ đẹp trữ tình thể hiện trong lời đề từ thứ hai, thơ của nhà thơ Ba Lan: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”: cảm thán về vẻ đẹp nên thơ, thi vị của các dòng sông hé mở vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà và vẻ đẹp tâm hồn con người gửi vào tiếng hát. - Tính trữ tình thể hiện tập trung ở khúc hạ lưu với dòng chảy và màu nước. Dòng chảy êm, phẳng, rộng, tạo nét tính cách tương phản với sự hung bạo được miêu tả cụ thể, chân thực bằng rất nhiều hình ảnh gợi cảm và màu nước biến ảo theo mỗi mùa. - Tính trữ tình thể hiện trong điểm nhìn động: theo thời gian (mùa); theo không gian (trên cao - xa); từ tư thế (ngồi thuyền - đi). + Từ trên cao, xa nhìn xuống, Sông Đà như một cái dây thừng ngoằn nghèo. Tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc Thuvientoan.net 6 bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Đó là vẻ đẹp duyên dáng, thơ mộng, e ấp như mang cả hương thơm quyến rũ của núi rừng (áng tóc thơm hương hoa ban hoa gạo). Nguyễn Tuân khi phản ánh sự vật sự việc bao giờ cũng tìm cách đẩy sự vật sự việc đến độ tột cùng tột đỉnh. Vì thế sông Đà trong con mắt của Nguyễn Tuân hung bạo bao nhiêu thì cũng rất trữ tình bấy nhiêu. Sông Đà không chỉ đẹp ở hình dáng mà còn đẹp ở sự thay đổi sắc màu ấn tượng. + Từ điểm nhìn theo thời gian, ta còn được tác giả cho thấy sự kì ảo của màu nước: Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về Những dòng văn ngậm đầy chất họa, chất nhạc, chất thơ cho thấy khả năng quan sát tinh tế, ngôn ngữ cá thể hóa cao độ nhờ những so sánh độc đáo, chân xác. + Cảm nhận trên tư cách một “cố nhân”: Màu nắng tháng ba Đường thi là liên tưởng độc đáo khiến nắng sông Đà như ngậm thơ, ngậm họa. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Lời văn quá đỗi ngọt ngào tha thiết, khiến ta không còn phân biệt được đâu là chất thơ của cảnh, đâu là hoài ức và kỉ niệm, đâu là những cảm giác, những ấn tượng trong trẻo của một tâm hồn… + Ngồi trên thuyền, chiêm ngưỡng sông Đà “như một tình nhân chưa quen biết”. Với những câu văn sử dụng hầu hết là thanh B, với nhịp điệu hết sức chậm rãi, êm ả, thư thái lạ lùng, tác giả đã nhẹ đưa nét bút trên tấm lụa ngôn từ có độ loang mờ kì ảo để truyền cho người đọc những dư vị ngọt ngào và nỗi xúc động thầm kín. Nào là biện pháp dùng động để tả tĩnh (hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt, thuyền trôi, tiếng còi sương…), đặc tả cái thanh tịnh tuyệt cùng của bờ bãi sông Đà. Nào là những hình ảnh đẹp, trong trẻo, thanh khiết, liên tưởng giàu chất thơ: Lá ngô non đầu mùa, cỏ gianh đồi núi ra những nõn búp, con nai thơ ngộ, áng cỏ sương, tất cả đều gợi vẻ tinh khôi, đọng hương sữa ngào ngạt, non tơ. Tiếng còi sương là âm thanh trong tâm tưởng, dội về từ quá khứ, một chi tiết độc đáo, diễn tả sâu sắc cái yên lặng khôn cùng của bờ sông, tĩnh đến mức người và vật giao cảm để lặng tìm âm thanh tự tâm hồn, tự thời gian thăm thẳm. + Bờ sông: Bờ sông đâu phải lúc nào cũng dựng vách thành mà nhiều quãng sông “bờ sông hoang dại như thời tiền sử, bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích”, “cảnh ven sông ở đây lặng lẽ như tờ, hình như đời Lí đời Trần đời Lê quãng sông này cũng lặng tờ thế thôi”. Thời gian không xác định, không cụ thể nhưng giàu sức gợi, gợi về quá khứ, gợi trăm năm cổ tích, khơi lại những trầm tích tâm hồn người Việt trong những trang viết cổ sơ. Lấy những giá trị văn hóa truyền thống để so sánh là một cách để Nguyễn Tuân vĩnh viễn hóa cái đẹp của bờ bãi sông Đà. - Trên bãi sông sự sống dâng tràn “cỏ gianh đầu núi đang ra nõn búp”, “nương ngô nhú mấy lá ngô non đầu mùa”, “một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương” Thuvientoan.net 7 - Sông Đà không chỉ có vẻ đẹp trữ tình của hình dáng, màu sắc mà còn có vẻ đẹp trữ tình của sức sống êm đềm sinh sôi. Đối với Nguyễn Tuân sông Đà là một cố nhân và sẽ càng đẹp hơn trong khúc hát xây dựng tương lai. 1.3. Tiểu kết - Để xây dựng hình tượng con sông Đà như một sinh thể có số phận, nhà văn đã huy động tổng hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật: nghệ thuật tả thực và lãng mạn, sự phối hợp nhiều thủ pháp của hội họa, của điện ảnh, nghệ thuật sử dụng ngôn từ một cách đa dạng sáng tạo, nhờ thế vẻ đẹp và đặc tính của dòng sông được hiện lên rất đa diện. Xây dựng hình tượng con sông Đà nhà văn vừa để chứng minh tài nghệ của người lái đò sông Đà vừa để người đọc thấy răng, sông Đà là một con sông đặc biệt đầy triển vọng trong khúc hát xây dựng tương lai. - Ngòi bút tài hoa và biến hóa của Nguyễn Tuân đã thổi linh hồn cho Sông Đà, để vật thể vô tri hiện lên với những tính cách đối nghịch mà thống nhất. Từ đó, nét tài hoa, uyên bác trong nhìn nhận, khám phá, miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Tuân được thể hiện một cách đầy thuyết phục. 2. Hình tượng người lái đò 2.1. Khái quát - Khắc họa trong tương quan với hình ảnh Sông Đà hung bạo, hùng vĩ. - Ông lái đò không tên, dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Tuân là khắc sâu phẩm chất dũng cảm, gan dạ, kiên cường (bộc lộ rõ nhất khi nhân vật đương đầu với khó khăn, thử thách) của những con người bình thường, vô danh. Giả sử có một cái tên hoặc đặt ông lái trong khung cảnh thi vị trữ tình của Sông Đà thì nhân vật sẽ trở thành một nghệ sĩ đa tình, giống như thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân trước cách mạng. Ông lái đò chỉ trở thành người anh hùng - nghệ sĩ trong thiên sử thi leo ghềnh vượt thác. 2.2. Phẩm chất tài năng, trí dũng - Nắm chắc qui luật của thần sông thần đá. Thuộc qui luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở. Hé mở vấn đề mang ý vị triết học sâu xa: trong cuộc chiến đấu một mất một còn với kẻ thù bốn chân, con người am hiểu và làm chủ quy luật là con người tự do, dẫu đó là quy luật đầy khắc nghiệt, chỉ cần một chút lơi tay, do dự và mất bình tĩnh là có thể trả giá bằng cái chết. - Trong cuộc giao tranh với thạch trận: Bút pháp tương phản dựng lên cuộc tranh chấp quyết liệt, gay gắt, căng thẳng trên thạch trận Sông Đà giữa một bên là thạch trận Sông Đà (thiên nhiên), một bên là Ông đò (con người). Lực lượng kẻ thù gồm tất cả bọn đá hậu, đá tướng, đá tiền vệ với nhiều thủ đoạn nham hiểm. Cả một đội quân hùng hậu, đông đảo, dữ dằn, hung hãn. Chúng còn giăng sẵn trận đồ bát quái: ba trùng vi, tập đoàn cửa sinh cửa từ, hệ thống boong ke, pháo đài đá chìm nổi, lộ diện hay giấu mặt... + Trùng vây thứ nhất • Bốn cửa tử, một cửa sinh. Thuvientoan.net 8 • Sóng trận địa phóng thẳng... • Mặt nước hò la vang dậy (…), ùa vào mà bẻ gẫy cán chèo võ khí trên cánh tay ông lái, chúng dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến. • Sóng nước như quân liều mạng đội thuyền lên với vẻ hùng hổ. • Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, hung hăng như một đấu sĩ bất bại. • Miếng đòn hiểm độc nhất: luồng nước (…) bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò. Chúng muốn giở ngón đòn hiểm hóc quyết nhằm nốc ao đối phương. + Trùng vây thứ hai • Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Chúng bộc lộ bộ mặt nham hiểm, xảo quyệt. • Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá - thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ. • Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đòn cửa tử - dai dẳng, quyết liệt. Không ngừng khiêu khích. + Trùng vây ba: • Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. • Luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. - Một ông đò và sáu tay chèo, lực lượng ít ỏi, cạn kiệt sức lực. Như một đại tướng lão luyện, dày dạn kinh nghiệm trận mạc, ông đò bình tĩnh tiến vào trận địa, lần lượt vượt qua từng trùng vây + Vượt trùng vây thứ nhất: Hai tay giữ mái chèo, ông cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch. Trên con thuyền vẫn nghe tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. + Vượt trùng vây thứ hai: Không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, ông nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo về phía cửa đá. Những động tác thành thạo, chính xác, dũng mãnh... + Vượt trùng vây thứ ba: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Hành động dũng cảm, động tác nhanh gọn, dứt khoát. Với nhịp văn gấp gáp, hơi văn căng thẳng, câu văn dồn dập gợi không khí cuộc giao tranh quyết liệt, một sống một chết giữa ông Đò và thủy thần. Với sự tương phản hai lực lượng: một bên là thiên nhiên – thác đá Sông Đà bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song, một bên là con người – ông lái đò bé nhỏ, cạn kiệt sức, tác giả đã tạo nên một khúc tráng ca ca ngợi bản lĩnh, sự dũng cảm và khả năng chinh phục tự nhiên của con người. Kết hợp kiến thức uyên bác của nhiều lĩnh vực: võ thuật, thể thao, quân sự… và trí tưởng tượng phong phú cùng kho chữ nghĩa phong phú, tài hoa, biến câu chuyện Thuvientoan.net 9 bình thường của người lao động trên sông thành bản trường ca về người anh hùng – nghệ sĩ lái đò trong nghệ thuật vượt thác. 2.3. Ông đò vừa là một dũng sĩ vừa là một nghệ sĩ - Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do. - Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò không chỉ thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này mà còn phải nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. - Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Lời ghi chú của nhà văn thật đáng để suy ngẫm! 2.4. Kết Nổi bật trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là nhân vật chính diện luôn được nhà văn chú ý mô tả ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu như trước cách mạng tháng Tám 1945, theo Nguyễn Tuân, cái tài hoa chỉ có ở lớp nhà nho trong quá khứ thì nay, trong Người lái đò Sông Đà và nhiều tác phẩm khác, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay trong cuộc sống hàng ngày của người dân lao động, trong hiện tại của đất nước. Cuộc đời của người lái đò vô danh, không tên tuổi, nơi có những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, một pho nghệ thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một” Thuvientoan.net 10 của con người, thì cũng chính thiên nhiên, qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người vào lao động. Thuvientoan.net
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan