Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phân tích nhân sinh quan triết học phật giáo và liên hệ với bản thân...

Tài liệu Phân tích nhân sinh quan triết học phật giáo và liên hệ với bản thân

.PDF
9
233
107

Mô tả:

Tiểu luận Phân tích nhân sinh quan Triết học phật giáo và liên hệ với bản thân Để phân tích nhân sinh quan triết học phật giáo, chúng ta cần phải biết lịch sử hình thành và phát triển của triết học Phật giáo. Trường phái Phật giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ V trư ớc Công nguyên do Xítđácta Gôtama (563-483 Trư ớc Công nguy ên) sáng lập và nhanh chóng được truyền bá ở miền Bắc Ấn Độ. Năm 29 tuổi Xítđácta Gôtama xuất gia đi tu để tìm kiếm con đư ờng cứu vớt những nỗi khổ của loài người. Nhưng qua 7 năm theo các bậc chân tu khổ hạnh của truyền thống tu luyện Ấn Độ mà ngư ời vẫn chưa t ìm ra ch ân lý. Cuối cùng người lang thang đến khu rừng thiêng Uravela miền Bắc Ấn Độ và ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề. Sau 3 ngày đêm suy ngẫm ngư ời phát hiện ra bản tính vô ngã vô thư ờng của thế giới, tiếp tục ngồi gốc cây bồ đề them 49 ngày nữa để chiêm nghiệm tâm linh và giải thích thấu đáo bản chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau. Ngư ời cho rằng m ình đã tìm đư ợc con đư ờng cứu vớt chúng sinh. Từ đó ngư ời ta gọi ông là Phật, nghĩa là ngư ời đã giác ngộ, thấu hiểu chân lý. Giáo đoàn phật giáo được ông xây dựng và đi rao giảng giáo lý của mình. Những nội dung cơ b ản của Phật giáo đư ợc thể hiện trong giáo lý. Hệ thống giáo lý của Phật giáo là m ột hệ thống rất đồ sộ nằm chủ yếu trong T am tạng kinh điển, gồm Kinh tạng (ghi lời Phật dạy), Luật tạng (các giới luật), và Luận tạng, nói vế thế giới quan và nhân sinh quan của Phật Thích Ca. Vậy nhân sinh quan là gì? Nhân sinh quan là cách nhìn nhận đời sống, công t ác, xã hội, lịch sử, dựa t heo lợi ích của giai cấp mình. Nhân sinh quan cách m ạng. Nhân s inh quan của giai cấp công nhân đấu tranh để cải tạo xã hội. Nhân sinh quan cộng sản. Nhân sinh quan của nhữ ng ngư ời cộng sản đấu tranh để thực hiện chủ nghĩa cộng sản, đầy lòng tin tưởng ở tư ơng lai tốt đẹp củ a loài ngư ời và sẵn sàng hi sinh chiến đấu cho tương lai ấy. Nhân sinh quan Phật giáo nguyên thủy mang tính nhân bản sâu sắc nhưng cũng chứa đầy tính chất duy t âm chủ quan, bi quan yếm thế, không tư ởng về đời sống Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật duy ên khởi đi đến nhận thứ c là vô thủy, vô chung, từ nhữ ng thuyết vô thư ờng, vô ngã bây giờ chúng t a sẽ tìm hiểu về những quan niệm của Đạo Phật về vấn đề nhân sinh quan. Ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi: – Con người là gì ? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu ? Vị trí của con người trong Đạo Phật. – Quan niệm của Phật về các vấn đề:bình đẳng, tự do, dân chủ.... –Có phải cuộc sống chỉ toàn là đau khổ ? và vấn đề giải thoát trong Đạo Phật là gì ? Trước khi trả lời các câu hỏi trên chúng t a sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu đế vì đây là giáo lý kinh điển củ a Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên.  Tứ diệu đế: Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuy ết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành đạo tại vư ờn Lộc giã cho năm từ khưu trư ớc kia đi theo Phật. Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừ a, đồng thời cũng là cơ sở của các thuyết khác trong giáo lý Phật. Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế. a. Khổ đế: Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao mà khổ , phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ. Nói như thế có ngư ời hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đ ời chỉ toàn là khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thự c ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách quan, không ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cự c lạc và cũng không làm cho ngư ời ta sợ hãi, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc sống. Phật chỉ cho chúng ta nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tư ớng của nó và chỉ dẫn cho chúng t a đi đến giải thoát. Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thường dịch là k hổ là chư a thật hết nghĩa nên mới dẫn đến những hiểu lầm trên. Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả thụ. Như vậy không phải chỉ có khổ thụ m à còn có lạc thụ. Đối với cảnh nghịch sinh ra khổ thụ nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các cảnh có thể làm cho người ta vui hoặc khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo phật không phủ nhận những cảm giác vui (lạc thú ) của cuộc đ ời m à còn phân tích ra nhiều hình thứ c vui. Nhưng những cái vui ấy, cũng như nhữ ng cái khổ ấy đều bao gồm trong danh từ Dukkha, vì những cái vui, cũng như những cái khổ ấy đều là vô thường hư giả. Dù người tu hành chứng đư ợc những trạng thái thiền định cao siêu thì những lạc thú siêu tho át ấy vẫn là Dukkha vì những ngư ời tu hành ấy chư a t hoát khỏi tam giới vô thường, hư giả. Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái Dukkha ấy chứ không phải là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường hiểu, thường lầm. Theo cách phân tích khác Phật chia cái khổ ra làm 8 loại: 1, Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô thường chi phối nên khổ. 2, Lão khổ: người ta mong muốn trẻ m ãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì t ai bị điếc, vào da, xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy yếu đến ấy làm cho người ta phiền não. 3, Bệnh Khổ: Trong cuộc sống, thân thể t hường ốm đau, nhất là khi già yếu, thân thể suy như ợc, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ. 4, Tử khổ : Là cái khổ khi ngư ời ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của m ình thì khi chết thì phiền não vô cùng. 5, Cầu bất đắc khổ: Ngư ời t a thường chạy theo nhữ ng điều m ình ưa thích, mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chư a cầu đư ợc thì phiền não, khi cầu được rồ i thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc. 6, Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly. 7, Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ t iến đến bên m ình. 8, Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thứ c ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lư ợng kiếp. b. Tập đế: Tập đế còn gọi là nhân đế, là nhữ ng nguyên nhân t ạo thành sự khổ. Những nguy ên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta. Nguyên nhân thì có nhiều như ng có thể tóm lại như sau: 1.Tham lam. 2.Giận dữ. 3.Si m ê. 4.Kiêu mạn. 5.Nghi ngờ. 6.Thân kiến ( tư ởng thân thể là thực có là trường tồn). 7.Biên kiến ( sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng ). 8.Tà kiến ( sự hiểu biết không đúng ). 9.Kiến thử ( chấp trí hiểu biết của riêng mình là đúng). 10.Giới cấm tu ( tu hành không chính đạo ). Ba nguyên nhân chính ( tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn gốc của mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam đ ộc là do ái dục và vô minh được thể hiện trong công thức sau: Nghiệp Ái dục + Vô minh ––––> Sự khổ. Ái dục: là tham ái, yêu thích do cảm thụ đi đến suy đắm trước những cảnh yêu thích, vừa lòng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với nhữ ng cảnh nên rong ruổi theo cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên t ham vọng và ước muốn. Vô minh: là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tư ợng trụ không nhận rõ chân tướng, thực tướng của nó là sự chuyển biến không ngừng, là vô thư ờng mà lại lầm tưởng các hiện tư ợng đó là thự c có, là thư ờng còn. Vô minh che lấp ta không nhận th ấy được chân tâm mà luôn luôn chạy theo vọng tâm, làm ta thấy có thân, có cảnh, có ta, có ngư ời của ta và thấy quý thân t a, không quan t âm đến người sống quanh ta. Nghiệp là nhữ ng hoạt động về thân thể, về lời nói ý nên Phật gọi là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Kết quả của hành động ấy gọi là nghiệp báo. Không phải hoạt động nào của ta cũng gây nghiệp báo. Những việc như : đi, đứng, nhìn, ngồi,... thì không gây nghiệp báo. Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác. Nghiệp thiện : là nhữ ng việc có lợi cho người và đem lại quả báo tốt cho mình. Nghiệp ác: là những việc làm hại cho ngư ơi và đem lại quả báo xấu cho mình. Như vậy, Phật đặt số m ệnh của con ngư ời trong chính tay họ. Tự con ngư ời đã gây nên nỗi khổ cho mình. Do đó, Phật đư a r a lý thuyết t hập nhị nhân duyên để thấy đư ợc nguồn gốc của sự vật trong thế gian. 12 nhân duyên là sợi dây liên tục nối tiếp con ngư ời trong vòng sinh tử luân hồi đó là: 1. Vô minh 5. Lục nhập 9. Th ù 2. Hành 6. Xác 10. Hữu 3. Thức 7.Thụ 11.Sinh 4. Danh sắc. 8.Ái 12. Lão tử. Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ nhân quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các n guyên nhân ấy quan hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác, như làn sóng trên mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế tiếp diễn. Nhưng cái hạn chế của tập đế là chưa đề cập đến nguyên nhân từ xã h ội. Đặc biệt là chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc lột trong xã hội. Luận điểm này thể hiện rõ từ trào hư ớng nội hư ớng nội trong nhận thức luận Phật giáo. c. Diệt đế: Diệt đế là tích quả Niết bàn do t hực hành tịnh nghiệp mà đạo đế m ang lại. Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đã hết không còn luân hồi sinh tử nữ a. Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. Ấy là khi diệt đế vọng niệm không còn khởi lên, tâm hồn luôn an trụ trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới Niết Bàn. Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thư ờng - Lạc - N gã - Tịnh. Thường là thư ờng còn, không biến đổi. Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm t âm tự tại. Ngã là chân ngã, chân t hực, thư ờng còn. Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm. Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não đư ợc thự c h iện không phải ở một nơi nào khác, một cõi nào khác m à thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự tu hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạn g thái tinh thần đặc biệt: Trạng thái an lạc, siêu thoát, t ịnh diệt. Phật dạy rằng: khi môn đệ làm cho lòng mình sạch hết tham lam, nóng giận và si mê thì môn đệ đã đến đư ợc bến giác, tức là cảnh giới Niết Bàn. Do đó, con người phải dày công tu dư ỡng, xoá bỏ được lử a dục, lửa sân, lửa si mê để chứng được cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện t ại. d. Đạo đế : Đạo đế là con đư ờng, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh đạt đư ợc đến quả giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử. Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tư rất nhiều, nhưng thư ờng đư ợc đề cao là phương pháp 37 đạo phẩm. Phương pháp này gồm có: 1. Tứ niệm xứ : 4. 2. Tứ chính cần: 4. 3. Tứ như ý túc: 4. 4. Ngũ cân: 5. 5. Ngũ lực: 5. 6. Bát chính đạo: 8. 7. Thất giác : 7. Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường giúp người ta thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại, an lạc. Bát chính đạo gồm có: 1. Chính ngữ : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái. 2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho m ọi người. 3. Chính m ệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính. 4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà. 5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, d iệt trừ những kiến ch ấp mê lầm, đoạt trừ nhữ ng tư tư ởng, hành động bất chính. 6. Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí tuệ xuất hiện, chứng quả t u đà hoàn. 7. Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con ngư ời phải có ý biến lấy tiêu biểu là các vị Phật. 8. Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con ngư ời sẽ tư duy, suy nghĩ một cách chân chính, làm chủ đư ợc dòng tư duy. Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguy ên tắc: giới, định, tuệ hay còn gọi là t am học. Các nguy ên t ắc này có sự liên hệ mật thiết bổ xung cho nhau. 1.Giới học: là cả một thiên luân lý thự c hành của Đạo Phật, mục đích để kiềm chế rồi đi đến diệt lục. Giới gồm n hững phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt hàng ngày của con ngư ời, hư ớng con ngư ời sống theo đạo, thích hợp với đạo, tức là luôn hướng về thiện . Phật chỉ định ra nhiều giới đạo cho người tu hành tại gia, tu xuất gia, cho nam giới, nữ giới, cho ngư ời mới vào đạo và ngư ời tu lâu ngày. Người tu hành phải giữ giới nghiêm túc thì mới định đư ợc. Nếu không giữ đư ợc tất con người luôn bị vọng dộng, bị cảnh chuyển, không vào cảnh định được. 2. Định học là đình chỉ mọi tư tưởng xấu ý nghĩa xấu nguyên nhân phát sinh nhữ ng hành động xấu đi đến gây nghiệp báo xấu. Định còn là tập trung tư tưởng, suy nghĩ làm nhữ ng việc lành, từ đó nảy sinh một trạng thái an lạc, tạo điều kiện cho tuệ phát ra. 3. Tuệ học : là trí tuệ s áng su ốt của ngư ời tu hành đã diệt được dục vọng, đã d iệt được tam độc là tham, s ân, si, đã thấu đư ợc lý vô thường, vô ngã do đó chỉ nghĩ đến làm điều thiện, mư u lợi cho chúng sinh. Với pháp tứ diệu đế Phật muốn cho chúng sinh th ấy 2 cảnh giới khác nhau là Niết Bàn và Thân Lụy: một con đường giác ngộ, an lạc và một con đường mê lầm tội lỗi. Và cùng phương pháp tứ diệu đế, bây giờ chúng t a có thể trả lời đư ợc các câu hỏi đã đặt ra ở trên. Hiện nay, trên thế giới, đan g nổi bật lên một sự quan tâm với xu hướng ngày càng tăng đối với Phật giáo. Từ lâu, vấn đề Phật giáo đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần không những của nhiều triệu người có đạo này mà còn thu hút cả sự chú ý của hàng chục triệu người quan tâm và n ghiên cứu nó dư ới nhiều góc độ. Để góp phần tìm hiểu Phật giáo, trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin trình bày một số vấn đề chung quanh ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đạo đức xã hội ta hiện nay. Một số người coi Phật giáo như m ột hệ thống siêu việt, là những điều không thể thực hành được đối với nhữ ng người bình thường. Họ tưởng rằng, nếu muốn đi theo con đường của Phật giáo thì phải xa lìa đời sống hiện tại để rút vào một ngôi chùa hay một nơi tịnh lặng, thâm u nào đó. Th ật ra, đó là một ý tư ởng sai lạc. Theo sự t huyết giảng của Phật, giáo lý nhà P hật không chỉ dành bậc tu sĩ sống ở nơi chùa chiền, mà còn dành cho đông đảo những ngư ời bình thư ờng đang sống ở nhà với gia đình họ. Những qui tắc sống của Phật giáo dành cho tất cả mọi ngư ời, không hề có sự phân biệt đẳng cấp, sanh hèn ….. Bởi lẽ, Phật rất tôn trọng cuộc đời của người trần tục, gia đình họ và những mố i liên hệ xã hội của họ. Cách đây hơn hai nghìn năm trăm năm, khi một người trẻ tuổi tên là Sigala hỏi Phật về con đư ờng theo Phật thì đư ợc trả lời rằng, trong môn học cao cả của Ngư ời những điều tư ởng như cao xa nhất lại chính là bắt đầu từ những điều thư ờng nhật, con ngư ời có thể làm tròn bổn phận của mình một cách hết sứ c bình thường ngay trong các quan hệ bố mẹ, thầy trò, vợ con, bạn bè, bà con, láng giềng v.v….. Những bổn phận này được Phật dẫn dụ trong bài giảng của mình cho Sigala: 1. Bố mẹ là thiêng liêng với con cái. Con sẵn sàng làm tròn những bổn phận đối với bố m ẹ. Chăm sóc bố mẹ già, làm những gì cần thiết cho bố mẹ, giữ gìn danh dự cho gia đình, theo truyền thống, bảo toàn tài s ản do bố m ẹ t ạo dựng, làm lễ tang để tưởng nhớ bố mẹ k hi bố mẹ qua đời. Về phần mình, bố mẹ cũng gánh một số trách nhiệm v ới con cái mình: Phải giữ chúng khỏi đi vào con đư ờng xấu xa, hư ớng chúng vào những hoạt động tốt và có lợi, bảo đảm cho chúng được giáo dục tốt, giao tài sản cho chúng vào những thời điểm thích hợp v.v….. 2. Quan hệ thầy và trò: Học trò phải kính trọng và tuân lời thầy, chuyên cần học tập. Về phần m ình, thầy rèn tập cho học trò đến mức cần thiết, dạy học trò thật giỏi, giới thiệu học trò cho nhữ ng bạn bè của nó, cuối cùng cố gắng tìm việc làm yên ổn cho học trò, khi họ học xong. 3. Quan hệ giữa chồng và vợ: tình yêu gắn bó họ phải được coi như thiêng liêng. Tình yêu là chỗ dựa cho mối liên kết gắn kết của vợ chồng. Chồng và vợ p hải trung thành, kính trọng và tận tâm với nhau: chồng phải luôn tôn trọng vợ, phải yêu vợ và chung thủy với vợ, phải bảo đảm v ị trí và tiện nghi của vợ, phải làm vui lòng vợ. Về phía mình, vợ p hải chăm sóc những công việc nội trợ, phải đón tiếp khách, bạn bè, phải yêu thương chồng, chung thủy với chồng, phải giữ gìn tài sản và phải khéo léo, dũng cảm trong mọi hoạt động của mình. 4. Về n hững liên hệ bạn bè, bà con láng giềng: Phải hiếu khách và nhân từ, bày tỏ thái độ đáng yêu và lịch thiệp, cùng nhau làm việc vì phúc lợi chung, phải đối xử bình đẳng với nhau, không đư ợc xung đột nhau, giúp nhau lúc thiếu t hốn và không đư ợc bỏ nhau khi khó khăn. 5. Những liên hệ giữa ngư ời trên và ngư ời dưới (chức bậc, tuổi t ác …). N gư ời trên có nghĩa vụ đối với ngư ời dưới: phải giao cho một công việc thích hợp với sự khéo léo và năng lự c của họ, phải trả tiền công, thích đáng, phải bảo đảm chăm sóc sức khỏe cho họ khi cần trao tặng phẩm và t iền thư ởng. Ngược lại, ngư ời dưới phải cần mẫn và dũng cảm, trung thự c và v âng lời, không đư ợc lấy cắp của ngư ời trên, phải thật sự nhiệt tình trong công việc của mình. Như vậy, chúng ta thấy rằng cuộc sống của người trần tục trong gia đình và trong các mối liên hệ xã hội của họ cũng nằm trong "môn học cao cả" và trong khuôn khổ cuộc sống mà Phật đã vạch ra. Chứ đâu phải như ai đó tưởng rằn g, Phật giáo chỉ quan tâm tới nhữ ng lý tưởng cực kỳ cao xa, nhữ ng tư tưởng đạo đức chỉ để chiêm ngưỡng. Phật quan tâm hết sứ c căn bản và thiết thực đến đời sống và hạnh phúc đích thực của con ngư ời. Không thể có hạnh phúc nếu đặt nó ngoài một cuộc sống thuần khiết, dựa trên nền t ảng nhữ ng nguyên tắc đạo đức và t inh thần. Nhưng Phật cũng biết rằng thật khó đạt tới cuộc sống như vậy, nếu như điều kiện vật chất và xã hội không thu ận lợi và đ ầy rẫy tai ương. Song Phật giáo lại hoàn to àn không coi sự su ng túc vật chất như một cứ u cánh tự thân, mà đó chỉ là một phương t iện để nhằm tới một mục đích là làm cho con ngư ời nhân đạo hơn, hài hoà hơn và tốt đẹp hơn với nhau và v ới thiên nhiên. Nhưng đó là phương t iện quan trọng, cần thiết để đạt tới mục đích cao hơn đối với hạnh phúc toàn vẹn của con ngư ời. Do đó, Phật giáo thừ a nhận ở một mức tối thiểu nào đó về những yêu cầu vật chất như nhữ ng điều kiện thuận lợi làm tiền đề cho sự thành đạt và viên mãn về tinh thần. Rõ ràng, Phật không tách rời cuộc sống, thoát ly nền t ảng xã hội và kinh tế, Phật coi cuộc sống như một tổng thể hàm chứa tất cả các mặt, kinh tế, chính trị, đạo đức tinh thần của đời sống xã h ội. Sự thuy ết giảng của Phật về các vấn đề đạo đứ c, tinh thần đã đư ợc Phật biện minh khá rõ. Chẳng hạn, Phật khẳng định rõ ràng, nghèo khổ là một trong nhữ ng nguyên nhân gây ra thói vô đạo đứ c và những tội ác. Phật cho rằng, muốn hạn chế tình trạng tội ác thì có thể thực hiện bằng cách cải thiện đời sống kinh tế của nhân dân. Và chẳng hạn, Phật cho rằng m ột cuộc sống gia đ ình bình thường có bốn hình thứ c hạnh phúc : a) Có sự yên ổn kinh t ế hay có một số của cải đầy đủ đư ợc làm ra bằng nhữ ng phương tiện đúng đắn và trung t hực. b) Chi tiêu một cách th oải mái số của cải ấy cho bản thân mình, cho gia đình, cho bạn bè và ngư ời thân t huộc, cũng như cho những việc đáng làm. c) T ránh được sự nợ nần. d) Sống m ột cuộc đời ngay thẳng trong sạch không phạm điều xấu trong suy nghĩ, lời nói hay hành động. Cần nhớ rằng ba hình thức trên là mang bản chất kinh tế, nhưng Phật cuối cùng cũng nhắc nhở con người rằng, hạnh phúc vật chất và kinh tế "không đáng một phần mười sáu" của hạnh phúc tinh thần, kết quả của một cuộc đời trong sạch và hảo tâm. Vậy là, Phật coi phúc lợi kinh tế như một điều kiện của hạnh phúc con ngư ời, như ng Phật không thừa nhận một sự tiến bộ nào là hiện thự c và đích thực, nếu như sự tiến bộ ấy chỉ có tính chất thuần túy m à không gắn với nó một đời sống tinh th ần và đ ạo đứ c. Khi khuyến khích tiến bộ vật chất, Phật giáo nhấn mạnh tới sự phát triển về tính cách tinh thần và đạo đức, nhằm thiết lập một xã hội hạnh phúc và thanh bình toàn vẹn.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng