Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
Trang
PHẦN I - MỞ ĐẦU
PHẦN II – MÔ TẢ VÀ BÌNH LUẬN
I - Mô tả vấn đề
1
3
1. Mục tiêu tổng quát
3
2. Nhiệm vụ chủ yếu
4
3. Các chỉ tiêu chủ yếu
5
II - Bình luận
6
A. Phần hình thức
6
B. Phần nội dung
8
1. Mục tiêu tổng quát
8
2. Các nhiệm vụ chủ yếu
10
3. Các chỉ tiêu chủ yếu
13
PHẦN III - ĐỀ XUẤT
24
I. Phần hình thức
24
1. Nhiệm vụ chủ yếu
24
2. Các chỉ tiêu chủ yếu
25
II. Phần nội dung
26
1. Nhiệm vụ chủ yếu
26
2. Các chỉ tiêu chủ yếu
26
PHẦN IV – KẾT LUẬN
27
30
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
PHẦN I : MỞ ĐẦU
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là một bộ phận không thể thiếu trong hệ
thống quản lý của các quốc gia trên thế giới. Nó tồn tại ở các tổ chức, cơ quan
mang tên gọi khác nhau nhưng cùng thực hiện một nhiệm vụ là định hướng mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội trong một khoảng thời gian nhất định. Nội dung của
kế hoạch hóa ngày càng đầy đủ hơn, nếu như trước đây chỉ là các nội dung về lĩnh
vực kinh tế thì ngày nay nó đã bao hàm cả các nội dung về xã hội và môi trường,
đặc biệt nhấn mạnh các vấn đề phân phối và công bằng xã hội.
Kinh nghiệm các nước cho thấy, sự cần thiết của kế hoạch hóa phát triển
trong quá trình phát triển kinh tế. Ngay ở các nước phát triển với nền kinh tế thị
trường thuần túy,việc sử dụng hệ thống kế hoạch hóa cũng trở thành một công cụ
đắc lực và thường xuyên. Nó giúp cho việc quyết đinh sản xuất cái gì, bao nhiêu,
ở đâu và theo phương thức nào được cụ thể và rõ ràng hơn. Nhờ đó nền kinh tế có
một tầm nhìn và phát triển đúng hướng. Bài học từ các nước đi đầu trong định
hướng chuyển đổi kế hoạch hóa tập trung sang kế hoạch hóa phát triển để phù hợp
với những quy luật của thị trường,đã ngày càng thể hiện được tầm quan trọng của
việc sử dụng công cụ kế hoạch hóa trong hệ thống quản lý nền kinh tế.Xuất phát
từ chính thất bại của nền kinh tế thị trường.Khi mà nguồn lực phân bổ không
được hiệu quả, kéo theo đó là nhu cầu xã hội không được đáp ứng tối ưu,tình
trạng mất công bằng xã hội, nền kinh tế vĩ mô xuất hiện những dấu hiệu bất ổn….
Đó là lý do cần có sự can thiệp của chính phủ,bằng hệ thống kế hoạch hóa với
những công cụ định hướng vĩ mô từ cấp chính sách cho đến cấp thực hiện sẽ điều
tiết thị trường, là cầu nối giũa ý đồ của chính phủ với nhu cầu thị trường. Khắc
phục những hạn chế và đảm bảo nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn.
Vấn đề thứ 2 cho thấy sự cần thiết của kế hoach phát triển kinh tế xuất phát
từ chính đặc điểm và vai trò của nó.
1
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
+ Khai thác được nguồn lực, định hướng giải phóng lực lượng sản xuất, sử
dụng nguồn lực đúng đối tượng với mọi thành phần kinh tế.
+ Với một cơ chế can thiệp gián tiếp vào nền kinh tế sẽ đưa nền kinh tế
chuyển dịch đúng hướng và phù hợp với tính mở của nền kinh tế thị trường.
+ Kế hoạch coi trọng tính mở của thị trường, chú trọng đến mối quan hệ
liên ngành, liên vùng, kể cả quan hệ quốc tế. Chức năng này sẽ tạo sự phát triển
toàn dện cho toàn bộ nền kinh tế.
Với những đặc trưng trên công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế là kế hoạch
hóa sẽ thể hiện rõ những cố gắng của chính phủ để đạt được tốc độ tăng trưởng
nhanh mà vẫn bền vững.
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội có thể được cụ thể hóa trong các kế
hoạch hàng năm, kế hoạch 5 năm. Ở Việt Nam hiện nay thường chọn thời gian 5
năm để lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, đó chính là thời gian của một nhiệm
kì lãnh đạo về chính trị, đó là một quãng thời gian đủ dài để đánh giá hiệu quả của
các chương trình dự án, các chính sách. Kế hoạch 5 năm là một bộ phận trung
tâm, đóng vai trò quan trọng nhất trong hệ thống kế hoạch hóa phát triển với tư
cách là công cụ điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân.
Nội dung của một bản kế hoạch 5 năm gồm 5 phần:
+ Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế xã hội của thời kỳ trước.
+ Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 5
năm.
+ Các cân đối vĩ mô trung hạn.
+ Các chương trình phát triển kinh tế xã hội trong 5 năm.
+ Các giải pháp, biện pháp thực hiện trong 5 năm.
Việc xác định được phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội là một nội dung giữ vai trò chủ chốt. Đó chính là sự khái quát và cụ thể hóa
cái đích mà một bản kế hoạch mong muốn hướng tới. Đồng thời nó là cơ sở cho
các nội dung tiếp sau của bản kế hoạch như các chương trình phát triển kinh tế xã
hội.
2
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Việc nghiên cứu nội dung này giúp cho quá trình thực hiện được thống nhất
giữa hệ thống các biện pháp. Đồng thời, với các mục tiêu, chỉ tiêu ở tầm vĩ mô và
tổng quát sẽ là cơ sở cho việc quản lý thống nhất.
PHẦN II : MÔ TẢ VÀ BÌNH LUẬN
I - MÔ TẢ VẤN ĐỀ
1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát là những tuyên bố khái quát nhất về những thay đổi
trong kinh tế và cuộc sống người dân, là cái đích tổng quát mà bản kế hoạch mong
muốn có được khi kết thúc 5 năm kế hoạch.
Mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010
là nước ta có những thay đổi về mặt kinh tế cũng như đời sống xã hội để có thể
thoát khỏi “tình trạng kém phát triển”. Sự thay đổi đó phải đi theo định hướng của
sự phát triển bền vững tức là về kinh tế thì cần “đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng”
nhưng phải đi kèm tính hiệu quả được nâng cao; về mặt xã hội cần “cải thiện rõ
rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân”.
Mục tiêu được xác định như một chiến lược theo thời gian “Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Đó
là sự khái quát các nhiệm vụ và hình thức tiến hành để hướng tới mục tiêu chiến
lược xa hơn là năm 2020. Đây là một mục tiêu mang tính định hướng và định tính
cao.
Bên cạnh mục tiêu tổng quát về kinh tế, bản kế hoạch cũng đề cập đến các
vấn đề “giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia”. Đây là những vấn đề thuộc
lĩnh vực chính trị- xã hội mà bất cứ nước nào cũng cần đề cập đến trong bản kế
koạch. Mục tiêu như vậy để tạo một môi trường tốt, ổn định cho mọi sự phát triển
của đất nước trong giai đoạn tới.
3
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Vấn đề cuối cùng trong mục tiêu tổng quát của bản kế hoạch đó là lĩnh vực
quan hệ quốc tế, đối ngoại, mục tiêu mà các nhà lãnh đạo muốn hướng tới là
“nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế” thông qua
các hoạt động “củng cố và mở rộng các quan hệ đối ngoại”.
2. Nhiệm vụ chủ yếu
Với những mục tiêu được đề cập một cách tổng quát như vậy các nhà lãnh
đạo và các nhà kế hoạch đã cụ thể hóa thành các nhiệm vụ chủ yếu để hướng tới
cái đích, cái mục tiêu cần đạt tới. Tất cả mọi lĩnh vực được tóm lược trong 8
nhiệm vụ chủ yếu và có thể chia thành 3 nhóm lĩnh vực như sau:
* Nhóm nhiệm vụ về kinh tế và đối ngoại:
- Nhiệm vụ thứ nhất “Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất,
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột phá về xây dựng két cấu hạ
tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng
tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng của một nước đang
phát triển có thu nhập thấp”.
- Nhiệm cụ thứ hai “Chuyển mạnh sang kinh tế thị trường, thực hiện các
nguyên tắc của thị trường, hình thành đồng bộ và hoàn thiện các loại thị trường và
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm
nước ta”.
- Nhiệm vụ thứ ba “Chủ động và tích cực hội nhậo kinh tế quốc tế, mở rộng
kinh tế đối ngoại gắn với nâng cao khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế”.
* Nhóm nhiệm vụ về xã hội và con người:
- Nhiệm vụ thứ tư “Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hó,
hiện đaị hóa và phát triển kinh tế tri thức”.
- Nhiệm vụ thứ năm “Tạo chuyển biến mạnh trong việc xây dựng văn hóa
đạo đức và lối sống, kiềm chế tốc độ tăng dân số, nâng cao thể chất và sức khỏe
nhân dân, bảo vệ và cải thiện môi trường”
4
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
- Nhiệm vụ thứ sáu “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bình đẳng giới
và giải quyết việc làm, khuyến khích làm giàu hợp pháp, xóa đói, giảm nghèo,
phát triển hệ thống an sinh xã hội, đẩy lùi các tệ nạn xã hội”.
* Nhóm nhiệm vụ về trật tự, an ninh quốc phòng:
- Nhiệm vụ thứ bẩy “Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy dân
chủ, nâng cao hiệu lực Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo bước chuyển
biến rõ rệt về cải cách hành chính, ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu tham nhũng,
lãng phí”.
- Nhiệm vụ thứ tám “Tăng cường quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị xã hội mở rộng quan hệ đói ngoại, giữu vững môi trường hòa bình và ổn định, tạo
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
3. Các chỉ tiêu chủ yếu
* Về kinh tế
Các chỉ tiêu về kinh tế đặt ra nhiệm vụ về tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và những cân đối nguồn lực chủ yếu.
- Chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) và tốc độ tăng trưởng GDP bình quân.
Quy mô GDP và GDP bình quân đầu người.
Giá trị tăng thêm của 3 khu vực nông-lâm-thủy sản, công nghiệp-xây
dựng, dịch vụ.
Kim ngạch xuất nhập khẩu.
- Chỉ tiêu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP.
- Chỉ tiêu về cân đối nguồn lực
Tổng đầu tư xã hội, bao gồm cả vốn đầu tư trong nước và nước ngoài.
* Về xã hội
5
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Các chỉ tiêu xã hội đưa ra các mục tiêu giải quyết các vấn đề về xóa đói
giảm nghèo, công bằng xã hội, phát triển y tế, giáo dục, lao động- việc làm và các
mục tiêu xã hội khác.
- Chỉ tiêu về giáo dục- đào tạo
- Chỉ tiêu về dân số, lao động- việc làm và xóa đói giảm nghèo:
Quy mô và tốc độ tăng dân số.
Việc làm và giải quyết việc làm.
Đào tạo nâng cao chất lượng lao động.
Tỷ lệ thất nghiệp.
Tỷ lệ hộ nghèo.
- Chỉ tiêu về y tế:
Tuổi thọ bình quân.
Sức khỏe trẻ em và phụ nữ.
- Chỉ tiêu khác
* Về môi trường
Các chỉ tiêu đưa ra mục tiêu nâng cao chất lượng môi trường sống và đảm
bảo phát triển bền vững.
II - BÌNH LUẬN
A. Về hình thức
Đây là một bản kế hoạch phát triển 5 năm truyền thống.Các chỉ tiêu kế
hoạch được tính cho cả kỳ cố định 2006-2010, các chỉ tiêu xây dựng bằng việc
tính bình quân cả kỳ hoặc đưa mục tiêu cụ thể cho năm cuối,theo đó các nhiệm vụ
đặt ra là cho cả thời kỳ. Do đó công tác quản lý, theo dõi, đánh giá cũng cho cả kỳ
kế hoạch
Điểm dễ nhận thấy trong hệ thống các mục tiêu của bản kế hoạch là số
lượng mục tiêu đã giảm đáng kể.Các các chỉ tiêu tuyệt đối cũng hạn chế tối
6
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
thiểu,hầu hết là các chỉ tiêu mang tính tương đối,định hướng được cho quá trình
phát triển những năm tiếp theo.
Điểm mới nữa trong hệ thống các mục tiêu của bản kế hoạch này là mặc dù
giảm bớt số lượng các chỉ tiêu nhưng lại mở rộng pham vi,lĩnh vực cho các chỉ
tiêu cần có đó là đưa vào các chỉ tiêu về môi trường.Mục tiêu này nhằm hướng
đến đảm bảo tính chất bền vững cho mục tiêu phát triển kinh tế trong dài hạn.
Ưu điểm:
Với phương pháp này các chỉ tiêu sẽ dễ xây dựng, quản lý và đánh giá.Lần
lượt các chỉ tiêu kinh tế-xã hội-môi trường sẽ định hướng một cách khái quát nhất
các khía cạnh của một nền kinh tế cần có trong bước phát triển của kì kế hoạch
.Từ đó hướng đến mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế và “tầm nhìn” đến
năm 2020
Nhược điểm :
Các nhiệm vụ chủ yếu đưa ra chưa thâu tóm được vấn đề mấu chôt nhất,vấn
đề thật sự là mắt xích tạo ra kết quả tối ưu cho cả kì kế hoạch.Nhiệm vụ vẫn dàn
trải,không phân tách được các lĩnh vực rõ ràng ,chưa làm nổi bật lên nhiệm vụ của
riêng kì kế hoạch để hoàn thiện nốt giai đoạn chiến lược phát triển kinh tế 20012010.
Các chỉ tiêu kinh tế đăt trước các chỉ tiêu xã hội là một hình thức chưa tạo
ra một hệ thống các mục tiêu có hiệu quả tối ưu .Như vậy sẽ khó đảm bảo được
tính thiết thực và tính khả thi của các chỉ tiêu đề ra .Các chỉ tiêu này phần lớn chỉ
dựa trên xu hướng phát triển của kì kế hoạch trước,những dự báo đã được dự kiến
ở kì kế hoạch trước để đưa ra các chỉ tiêu trong kì kế hoạch tới .Trên thực tế có
thể sẽ chỉ sát thực trong những năm đầu của kì kế hoạch mới nhưng thị trường thì
luôn biến động sẽ tạo ra những thay đổi tương ứng mà không được dự tính .Do đó
7
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
các chỉ số đặt ra không phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn là điều khó tránh khỏi.Cụ
thể trong bản kế hoạch 2006-2010 :là giai đoạn được coi là có rất nhiều những cơ
hội cho kinh tế nước ta tăng trưởng do dự tính đến năm 2006 Việt Nam sẽ chính
thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây là cơ sở cho việc đặt ra các
chỉ tiêu tăng trưởng cao trong giai đoạn này. Tuy nhiên những thách thức đặt ra
cung không nhỏ,những rủi ro không dự tính cũng không phải la ít. Đây là một hạn
chế cho việc hoạch định các chỉ tiêu ,các chính sách thay đổi theo với những biến
động của thị trường .
Chỉ tiêu về môi trường là một lĩnh vực mới trong trong hệ thống các chỉ
tiêu của bản kế hoạch 2006-2010 .Do vậy vẫn chưa thể hiện đầy đủ các khía cạnh
về môi trường .Hầu hết các chỉ tiêu mang tính định hướng theo quan điểm của các
nhà chính sách .Các chỉ tiêu khá tham vọng chưa gắn liền với thực tế .Mặt khác
khi đề cập đến các chỉ tiêu về môi trường không nên chỉ dừng lại ở việc phản ánh
các chỉ tiêu “phấn đấu” đạt đến các đầu ra cho một hệ thống cải thiện môi
trường .Mà cần có các chỉ tiêu phản ánh kết quả,hay cụ thể hơn chỉ tiêu phải phản
ánh được chất lượng môi trường, phải nêu được định hướng quản lý theo kết quả.
Tránh tình trạng chỉ đảm bảo được số lượng mà không đảm bảo được chất lượng
Các chỉ tiêu giữa các lĩnh vực về kinh tế -xã hội –môi trường bản chất có
những yếu tố liên hệ mật thiết với nhau nhưng việc đưa ra các chỉ tiêu chưa thực
sự thể hiện quan hệ đó VD :mục tiêu giảm mạnh tỷ trọng nông nghiệp trong khi
số lượng lao động trong ngành nông nghiệp vẫn ở mục tiêu 50% tổng lao động.
Nếu xét về cả quá trình phân tích thì các kết quả đạt được sẽ có sự chênh lệch
nhau nếu như hướng đến mục tiêu để hoàn thành .
B. Về nội dung
1. Mục tiêu tổng quát
Nằm trong chiến lược phát triển kinh tế 2001-2010, kế hoạch phát triển
kinh tế 5 năm 2001-2005 và kế hoạch 5 năm 2006-2010 là sự cụ thể hóa trong lộ
8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
trình phát triển dài hạn của đất nước. Tất cả các mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra trong
2 thời kì này đều phải hướng đến mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển
kinh tế 2001-2010.
Kế hoạch 5 năm 2006-2010 là kế hoạch hoàn thiện không những cho chiến
lược 2001-2010, mà còn tạo những bước căn bản cho “tầm nhìn” đến năm 2020
với những nét đại cương nhất: Xây dựng Việt Nam thành một nước công nghiệp
có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đời sống vật chất và tinh thần
được nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh. Đến năm 2020, Việt Nam sẽ đứng vào danh sách các quốc gia
công nghiệp mới với khu vực công nghiệp chiếm 50% tổng sản phẩm quốc nội, sẽ
không còn một người nghèo trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy vậy, trình độ phát triển
kinh tế nước ta còn thấp và chưa bền vững. Chất lượng phát triển và sức cạnh
tranh còn kém. Quy mô sản xuất mới ở bước đầu của quá trình mở rộng. Các cân
đối vĩ mô chưa thật vững chắc, mức thu nhập tiêu dùng còn chưa cao. Còn nhiều
các vấn đề kinh tế xã hội bức xúc chưa được giải quyết … Theo đó mục tiêu tổng
quát của kế hoạch 5 năm lần II 2006-2010 trong lộ trình chiến lược2001-2010 đăt
ra:
“Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền vững
của sự phat triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ
rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp
hóa- hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn
định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Tiếp tục củng cố và mở rộng các quan hệ đối
ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế”.
Mục tiêu trên đã định hướng được nhiệm vụ tổng quát cho giai đoạn phát
triển tiếp của kỳ kế hoạch. Đã hướng đến sự hoàn thiện cho mục tiêu tổng quát
của chiến lược. Đây là sự khác biệt khá rõ đối với kế hoạch mệnh lệnh trong nền
9
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
kinh tế kế hoạch hóa tập trung - đó là một loạt các mục tiêu hiện vật , cụ thể thể
hiện quá trình phát triển kinh tế theo mong muốn, và Chính phủ thì cố gắng thể
hiên sự can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế. Mục tiêu tổng quát trong bản kế hoạch
2006-2010 Chính phủ chỉ có vai trò định hướng cho nền kinh tế, gián tiếp hoàn
thiện mục tiêu phát triển dài hạn. Tạo ra một tầm nhìn và có khả năng dự báo cho
thời kì tiếp theo “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt
đời sống vật chất văn hóa, tinh thần của nhân dân”. Nhiệm vụ tổng quan trong
chiến lược 10 năm được cụ thể hóa hơn trong bản kế hoạch 5 năm 2001-2005 và
được hoàn thiện trong kế hoach 5 năm 2006-2010. Trong mục tiêu của bản kế
hoạch này nhắc lại một lần nữa "tầm nhìn" đến năm 2020, đó là sự định hướng
xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế xã hội cho cả thời kỳ chiến lược.
Sự cụ thể hóa mục tiêu chiến lược trong bản kế hoạch 2006-2010 không chỉ
dừng lại ở đó. Từ mục tiêu tổng quát còn được cụ thể thành các nhiệm vụ chủ
yếu:
2. Các nhiệm vụ chủ yếu
2.1. Nhóm nhiệm vụ về kinh tế- đối ngoại:
Nhóm nhiệm vụ này được xác định để thực hiện mục tiêu tổng quát "đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả của sự phát triển", "sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển". " Đẩy mạnh công nghiệp hóa,hiện đại
hóa tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020".
Thứ nhất, nhiệm vụ đặt ra là phải quan tâm, chú trọng hơn nữa tới lực
lượng sản xuất gồm người lao động, tư liệu sản xuất và khoa học công nghệ, cần
giải phóng và phát triển mạnh mẽ không để lãng phí hay để rơi vào tình trạng hoạt
động kém hiệu quả của các yếu tố thuộc lực lượng sản xuất. Đồng thời phải xem
xét, nắm bắt mọi tiềm năng của đất nước tận dụng phát huy một cách triệt để và
sử dụng các nguồn lực về vốn, lao động hay kĩ thuật có hiệu quả góp phần vào
tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. Để hướng tới một nước công
10
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
nghiệp theo hướng hiện đại cần thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhanh chóng vì vậy phải tạo ra những bước đột phá trong xây dựng kết cấu hạ
tầng và đặc biệt phải dần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi tỷ trọng của công
nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp trong nền kinh tế. Và để trở thành một nước công
nghiệp cơ bản cũng cần đưa nước ta ra khỏi tình trạng của nước đang phát triển có
thu nhập thấp- là bước tiến dần trên các nấc thang đi tới mục tiêu.
Thứ hai, để "đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế", "sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển" thì cần bắt nhịp với nền kinh tế thế giới do đó phải
"chuyển mạnh sang kinh tế thị trường" tức là một nền kinh tế với tính tự chủ cao
của các chủ thể kinh tế, với giá cả xác định ngay trên thị trường và mọi hoạt động
trong nền kinh tế phải diễn ra trong cạnh tranh. Chuyển sang nền kinh tế này cũng
phải thực hiện yêu cầu theo nguyên tắc của thị trường tức là phải tuân theo các
quy luật giá trị, cung cầu và quy luật lưu thông tiền tệ. Để có một nền kinh tế phát
triển mạnh mẽ có tốc độ tăng trưởng cao thì cần phải biết kết hợp hình thành và
hoàn thiện đồng bộ các loại thị trường theo thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Tức là tạo một thị trường phát triển mạnh mẽ "tự do trong
khuôn khổ". Sự đồng bộ của thị trường nghĩa là hệ thống thị trường với đầy đủ
các loại hình: thị trường tiền tệ, thị trường công nghệ, thị trường lao động, thị
trường đất đai, thị trường hàng hóa dịch vụ ... Các thị trường này vừa độc lập với
nhau vừa liên hệ với nhau trong hệ thống thị trường.
Thứ ba, luôn chuẩn bị sẵn tư tưởng, tinh thần, tư thế để tham gia vào nền
kinh tế quốc tế. Trong quá trình mở rộng quan hệ hợp tác về các lĩnh vực với đối
tác nước ngoài bên cạnh việc học hỏi tiếp thu phải nâng cao khả năng độc lập tự
chủ, "hòa nhập mà không hòa tan".
Các nội dung này đã thể hiện được những bước đi tiếp theo sau những bước
tăng trưởng của kế hoạch 5 năm 2001-2005. Năng lực sản xuất được cải thiện, sản
xuất đang hướng mở rộng về quy mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục tăng qua
các năm. Cơ cấu đầu tư có sự chuyển biến mạnh về chất. Do đó giải phóng và
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất là nhiệm vụ tiên quyết. Kinh tế thị trường
11
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
là điều kiện đưa nước ta tiếp cận với nền công nghiệp hiện đại. Nguyên tắc thị
trường được áp dụng triệt để trong mọi hoạt động kinh tế. Đặc biệt khi Việt Nam
đang hướng đến hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Do đó nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế
thị trường là điều kiện cần cho việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế giai
đoạn 2006-2010 và hướng đến mục tiêu đến 2010 GDP tăng gấp đôi năm 2000.
2.2. Nhóm nhiệm vụ về xã hội con người:
Điểm khác biệt với hệ thống kế hoạch hóa tập trung là không những đề cập
về kinh tế mà vấn đề xã hội và môi trường cũng là nhiệm vụ chủ yếu trong định
hướng phát triển kinh tế dài hạn, đây là các yếu tố tạo ra sự phát triển bền vững.
Một trong những tác động gián tiếp của chính phủ đến việc nâng cao chất
lượng của sự phát triển là hướng tới nhu cầu của xã hội, đảm bảo việc sử dụng
hiệu quả nguồn lực. Nhiệm vụ này không chỉ đáp ứng mục tiêu cho kỳ kế kế
hoạch mà đồng thời cũng chính là mục tiêu của toàn chiến lược. Kế hoạch 20012005 đã hoàn thiện mục tiêu này ở một mức nhất định và kế hoạch 2006-2010 là
bước kế tiếp của mục tiêu nhằm hoàn chỉnh mức chỉ tiêu của cả kỳ chiến lược.
Bên cạnh đó, công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân, bảo vệ môi
trường, nâng cao đời sống tinh thần và kiểm soát tốc độ tăng dân số luôn là nhiệm
vụ trọng tâm trong hệ thống các nhiệm vụ của kế hoạch đặt ra. Vì mục tiêu của
chúng ta là dân giàu, nước mạnh. Dân giàu không chỉ là giàu về kinh tế mà còn
phải giàu về sức khỏe, giàu về tinh thần. Đây là yêu cầu mà các các cấp chính
quyền cũng như các hộ kinh doanh đều phải hướng tới. Việc xác đinh mục tiêu
này cũng chính là định hướng cơ bản cho các tổ chức, các cá nhân khi tiến hành
các hoạt động của mình.
Việc thực hiện công bằng xã hội và bình đẳng giới, giải quyết việc làm là
một trong những yếu tố để đảm bảo và thực hiện vấn đề về con người. Việc xóa
đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo là một trong những yêu cầu đòi
hỏi sự định hướng ở tầm vĩ mô của Chính phủ, từ đó các ngành, các địa phương
triển khai thực hiện các giải pháp xóa đói giảm nghèo. Cùng với đó là vấn đề bình
12
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
đẳng giới, đó là sự công bằng giữa nam giới và nữ giới trong mọi vấn đề của xã
hội, từ kinh tế đến các hoạt động khác như chính trị, thể thao …Phụ nữ sẽ ngày
được tham gia và giữ các vị trí quan trọng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Để giải quyết được các vấn đề nêu trên, việc làm là một biện pháp hữu hiệu nhất.
2.3. Nhóm nhiệm vụ về an ninh quốc phòng:
Mục tiêu đặt ra là "Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ
và an ninh quôc gia". Mục tiêu dó đặt ra yêu cầu:
Một là: Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy dân chủ, nâng cao
hiệu lực của Nhà nước pháp quyền, tạo bước chuyển rõ rệt về cải cách hành
chính, ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng lãng phí.
Hai là: Tăng cường quốc phòng an ninh, ổn định chính trị- xã hội, mở
rộngquan hệ đối ngoại, giữ vững môi trường hòa bình và ổn định, tạo điều kiện
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Xuyên suốt trong bản chiến lược phát triển kinh tế xã hội, cũng như các bản
kế hoạch 5 năm vấn đề an ninh quốc phòng, chủ quyền lãnh thổ luôn luôn được
chú trọng củng cố. Đây là điểm tương đồng với bản kế hoạch mệnh lệnh. Chính
phủ sẽ trực tiếp đứng ra quản lý, vấn đề này là một thất bại của thị trường. Do đó
Chính phủ không thể tác động gián tiếp qua cơ chế thị trường mà cưỡng chế trực
tiếp bằng mệnh lệnh, hệ thống luật pháp.
Như vậy mục tiêu tổng quát trong bản kế hoạch 2006-2010 cùng các nhiệm
vụ chủ yếu đã cụ thể hóa được mục tiêu tổng quát trong bản chiến lược20012010. Thể hiện là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế. Định
hướng vĩ mô cho sự phát triển kỳ kế hoạch.
3. Các chỉ tiêu chủ yếu
Trong bất kỳ một bản kế hoạch nào thì hệ thống các chỉ tiêu luôn là phần
không thể thiếu và rất đáng quan tâm. Nó chính là sự cụ thể hóa các mục tiêu và
định hướng phát triển của đất nước trong cả thời kỳ kế hoạch. Thông qua hệ thống
13
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
chỉ tiêu trong 5 năm kế hoạch mà có các cân đối, chính sách phân bổ nguồn lực,
vốn cho các chương trình phát triển thích hợp. Chính vì vậy mà hệ thống chỉ tiêu
phải phù hợp và khả thi.
Các chỉ tiêu được xây dựng trên cơ sở đảm bảo sự phát triển nhanh, hiệu
quả và bền vững theo 3 trục kinh tế- xã hội- môi trường.Các chuyên gia kinh tế
ADB(Ngân hàng phát triển Á Châu) nhận định rằng:Kế hoạch phát triển kinh tếxa hội 2006-2010 của Việt Nam đã đặt ra những chỉ tiêu mà họ cho là có nhiều
tham vọng. Tuy nhiên các chỉ tiêu này “dường như có thể đạt được”,xét theo đà
tiến đã có sẵn,đặc biệt trong lãnh vực đầu tư và bành trướng của khu vực tư
nhân.Mặc dầu vậy,kinh tế VN vẫn phải đối diện với những thách đố cần phải khắc
phục,trong đó đặc biệt các vấn đề,làm thế nào để xử dụng nguồn lực có hiệu quả
hơn và giảm thiểu tệ nạn tham nhũng.
3.1. Về kinh tế
Bước vào kế hoạch 5 năm 2006– 2010, trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện hơn. Tình hình trong nước và quốc tế sẽ
có những sự tác động rất mạnh đến sự phát triển kinh tế- xã hội của nước ta. Do
vậy việc đưa ra những chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội sao cho phù hợp với hoàn
cảnh đất nước để có thể tận dụng được tối đa nguồn lực phát triển kinh tế trong
nước là rất quan trọng.
Với mục tiêu và định hướng phát triển nhằm đẩy nhanh tốc độ CNH–
HĐH, khắc phục nguy cơ tụt hậu, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát
triển, nước có thu nhập thấp.
Về tốc độ tăng GDP bình quân 5 năm 2006– 2010 đạt 7,5– 8%,phấn đấu
đạt trên 8%. Đây là một chỉ tiêu khả thi,dựa trên 3 cơ sở: là vốn nước ngoài đổ
vào,xu hướng đầu tư cơ sở hạ tầng do khối tư nhân chủ đạo và sự hình thành các
kênh tài trợ vốn ở giai đoạn trước, đặc biệt là sự tăng trưởng vượt bậc của nền
14
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
kinh tế năm 2005. Với một tỉ lệ mang tính tương đối,chỉ tiêu cho thấy rõ được
tính mở của bản kế hoạch. Không cố định ở một chỉ số,chỉ tiêu định hướng được
hướng phát triển cho nền kinh tế,cung cấp được thông tin cho khả năng tăng
trưởng cho thể vượt kế hoạch đặt ra. Định hướng được xu thế phát triển cho giai
đoạn 2 trong kỳ chiến lược. Tạo cơ sở niềm tin của khối nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên một điểm hạn chế khi khá lạc quan đưa ra một tốc độ tăng
trưởng có tham vọng . Lý giải điều này xuât phát từ chính tình hình biến động giai
đoạn 2001-2005 .Mặc dù đến 2005 nền kinh tế có sự tăng trưởng vượt trội lên
8.4% ,cao nhât trong vòng 8 năm trở lại đây .Điều này đã mở ra nhiều tham vọng
cho kế hoạch phát triển kinh tế 2006-2010. Tuy vậy đứng trên phương diện về
chất lượng của tăng trưởng kinh tế thì kinh tế Việt Nam đang xuất hiện những dấu
hiệu của sự phát triển không bền vững. Chất lượng tăng trưởng chủ yếu xét trên
góc tỷ trọng đóng góp của 3 yếu tố chính là: số lượng vốn đầu tư ,số lượng vốn
lao động và năng suất các yếu tố tổng hợp(TFP) .Tăng trưởng của Việt Nam mới
chỉ dựa trên số lượng vốn và lao động (chiếm tới ba phần tư tốc độ tăng trưởng
kinh tế). Còn yếu tố năng suất các yếu tố tổng hợp chiếm chưa được một phần tư .
Điều đó chứng tỏ nền kinh tế vẫn tăng trưởng theo chiều rộng chưa chuyển mạnh
sang phát triển theo chiều sâu ,tăng trưởng về chất. Bộc lộ rõ hơn từ năm 2001
đến 2005 hiệu quả đầu tư đã có xu hướng giảm .Nếu xét GDP/vốn đầu tư đang có
xu hướng giảm tử 2.68 (năm 2001) xuống 2.45 (năm 2005). Nếu xét vốn đầu tư/
GDP tăng thêm tuy giảm từ 4.29(năm 2001)xuống 2.77(năm 2005) nhưng vẫn
thấp hơn từ năm 1998 trở về trước. Mặc dù lượng vốn đầu tư vẫn tăng cao qua các
năm từ 35.4%(2001) trong tổng GDP lên 40.9%(2005) trong tổng GDP .Nhưng
chất lượng đầu tư vẫn chưa cao chủ yếu là do các doanh nghiệp nhà nước đầu tư
vào tài chính ngân hàng, bất động sản .Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng liên tục
từ 2.450,5USD lên 3.308,8USD năm 2005 .Tuy nhiên nguồn vốn đến từ công
nghệ nguồn chưa nhiều ,tỷ trọng vốn đưa vào thực hiện còn rất thấp .Nguồn vốn
hỗ trợ tăng nhanh nhưng giải ngân chậm ,tỷ lệ giải ngân thấp.Vốn đầu tư gián tiếp
vào lớn nhưng thống kế quản lý hấp thụ còn lúng túng .Như vậy đã thấy được một
15
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
nhược điểm trong tốc độ tăng trưởng khi chưa thực sự phản ánh sự tăng trưởng về
chất .Bên cạnh đó cần phải thấy được lạm phát và thất nghiệp ,hệ quả trực tiếp
của việc tăng trưởng theo chiều rộng .Tốc độ tăng giá đã có xu hướng đột biến từ
năm 2004 là 9.5% và 8,4% năm 2005. Nguyên nhân quan trọng là do công tác dự
báo còn yếu ,điều hành chính sách tiền tệ còn bị động ,chậm ,lúng túng và chủ
quan. Cũng là biểu hiện của tính phi hiệu quả trong sản xuất, xuất hiện các hoạt
động đầu cơ gây sức ép lớn cho nền kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp tuy giảm nhưng vẫn
còn chậm. Đó là lý do các nhà hoạch định cần đưa ra một chỉ tiêu bền vững hơn.
Mặt khác năm 2006 được dự tính là năm VN sẽ chính thức là thành viên của tổ
chức thương mại thê giới. Do vậy những rủi ro bất ngờ và có thể dự tính tất yếu sẽ
không thể tránh khỏi. Chỉ tiêu trên không cho thấy những rủi ro có thể xảy ra.Tốc
độ tăng trưởng vẫn theo xu thế của kỳ kế hoạch trước..Tính bất ổn trong kinh tế
không được đề cập. Kéo theo đó sẽ không có những dự tính về giải pháp cho tốc
độ tăng trưởng không bền vững.
Vẫn mang những đặc điểm của bản kế hoạch mệnh lệnh,với chỉ tiêu cụ thể
tuyệt đối“Quy mô GDP đến năm 2010 đạt khoảng 1.690-1.760 nghìn tỷ đồng…
GDP bình quân 1.100 USD”.Tuy nhiên lại cho ta một cái mốc cụ thể cần đạt tới
với một tầm nhìn vĩ mô đến năm 2010. Đây cũng là một chỉ tiêu định hướng có
thể đạt được cuối kỳ chiến lược. Dựa trên tốc độ tăng trưởng hiện tại2005
8.4%,quy mô vốn đầu tư huy động năm 2005 là 343.135 tỷ đồng. Tuy nhiên chỉ
tiêu vẫn chưa đề cập đến vấn đề rủi ro của quá trình hội nhập.
Về tỉ trọng các ngành: nông- lâm- ngư nghiệp, công nghiệp- xây dựng và
dịch vụ trong GDP lần lượt là: 15– 16%; 43– 44%; 40– 41%. Một hệ thống các
chỉ tiêu tương đối cung cấp thông tin một cách khái quát nhất về quá trình chuyển
dịch cớ cấu kinh tế theo hướng CNH-HDH. Đồng thời cũng định hướng tích cực
cho phát triển cơ cấu ngành. Công nghiệp dịch vụ cần phải được khuêch trương
mạnh mẽ. Tuy nhiên với cơ cấu trên lại chưa đi sát với thực tế. Khi mà nền kinh
tế VN có tơi 70% lao động trong ngành nông nghiệp.Quá trình CNH-HDH gặp
phải một hạn chế là sự đổi mới nông nghiệp nông thôn. Năm 2005 cơ cấu ngành
16
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
là 21%(nông nghiệp),41% (công nghiệp).38% (dịch vụ). Sự chuyển dịch cơ cấu
mạnh mẽ theo chỉ tiêu còn liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao động,và hiệu quả
sử dụng vốn đầu tư. Những rủi ro có thể kéo theo không được phản ánh .Đồng
thời CNH không có nghĩa là tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và giảm tối thiểu
ngành nông nghiệp. Khi mà ngành công nghiệp tăng trưởng nhanh với sự đóng
góp tỉ trọng lớn của ngành công nghiệp chế biến. Cơ sở xuât phát của ngành công
nghiệp này lại là sản phẩm của ngành nông nghiệp. Trong mục tiêu định hướng
ngành Nông-lâm_thủy sản chỉ với giá trị gia tăng trong giai đoạn 2006-2010 là 33.2% và tăng giá trị sản xuất4.5%. Trong khi mục tiêu định hướng nganh công
nghiệp tăng giá trị sản xuất 15%-15.5%. trong đó chiếm tới 88,9% giá trị của
ngành sản xuất công nghiệp chế biến. Đây là một điểm hạn chế khi không thấy sự
tương đông giữa các chỉ tiêu tăng trưởng các ngành. Bên cạnh đó chính phủ đưa
ra tốc độ tăng dịch vụ 7.7%-8.2% tương ứng với 40%-41% trong cơ cấu GDP lại
không phù hợp.Thực tế đã cho thấy tốc độ tăng ngành dịch vụ trong giai đoạn
2001-2005 là 7% mới chỉ đóng góp 38.7% GDP.Trong đó năm 2005 có tốc độ
tăng vượt bậc 8,5% nhưng cũng chỉ chiếm 38.,1% GDP.Do vậy để đẩy tỷ trọng
dịch vụ trong GDP trong giai đoạn 2006-2010 lên 40%-42% thì mục tiêu tăng giá
trị gia tăng của ngành dịch vụ cần phải cao hơn nữa. Tuy nhiên đây lại không phải
là một mục tiêu tối ưu. Khi mà ngành dịch vụ đòi hỏi một hệ thống đội ngũ lao
động quản lý có chuyên môn,trong khi mục tiêu đến năm 2010 lực lượng lao động
trong ngành nông nghiệp vẫn chiếm tới 50% lao động toàn xã hội.Cùng với đó là
quá trình công nghiệp hóa cần phải được phát triển sâu và rộng,mới thực sự tạo
nền tảng cho các ngành có giá trị gia tăng phát triển đúng tiềm năng. Do vậy chỉ
tiêu đặt ra cần phải thấy được sự chuyển dịch bền vững trong mối quan hệ móc
xích giữa các ngành.
Chỉ tiêu về tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm dự kiến năm 2010 kim
ngạch xuất khẩu đạt 770 – 780 USD/người gấp đôi năm 2005. Xuất nhập khẩu
VN có thể coi là một điểm sáng cho sự tăng trương kinh tế giai đoạn 2006-2010
khi mà VN chính thức gia nhập WTO .Sự kết hợp giữa chỉ số bình quân và chỉ số
17
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
tuyệt đối năm cuối ,cung cấp thông tin về sự tăng trưởng đều qua các năm và mốc
cần đạt tới của ki kế hoạch.Một tầm nhìn khả quan cho triển vọng kinh tế trong
hoạt động thương mai quốc tế.
“Tổng đầu tư xã hội trong GDP khoảng 2.200 nghìn tỷ đồng…với cơ cấu
65%vốn trong nước.35%vốn nước ngoài”.lại là một chỉ tiêu tuyệt đối( giống chỉ
tiêu cho bản kế hoạch mệnh lệnh).Một chỉ tiêu khá lạc quan cho khả năng thu hút
đầu tư cho nền kinh tê. Định hướng cho khả năng hội nhập thành công. Tuy nhiên
định hướng mục tiêu tăng trưởng mạnh quy mô vốn đầu tư lại có thể kéo theo rủi
ro là lạm phát giá tài sản. Nếu cơ cấu vốn đầu tư không hợp lý,lại gây lãng phí
nguồn lực,tác động trái chiểu với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Do vậy với một chỉ
tiêu chung cho toàn xã hội là sự định hướng cho một nền kế hoạch tập trung
không có sự định hướng đầu tư mở rộng.
Một loạt các chỉ tiêu tuyệt đối,hiện vật: đến 2010 đạt 35 máy/100 dân,12.6
thuê bao internet/100 dân. Đây là một nhược điểm cho một bản kế hoạch phát
triển,nhưng vẫn tạo một tầm nhìn đến năm 2010 . Tuy nhiên lại không cho thấy
được mục tiêu phát triển cho các năm và cho cả giai đoạn .
Các chỉ tiêu phát triển kinh tế đặt ra đưa lại nhiều triển vọng cho nền kinh
tế .Đều hướng tới mục tiêu phát triển và đẩy nhanh tốc độ CNH– HĐH, khắc phục
nguy cơ tụt hậu, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nước có
thu nhập thấp..Cơ sở tạo vị thế cho nước ta trên trường quốc tế.Đồng thời tạo sự
hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư.Tuy nhiên hệ thống mục tiêu lại có những điểm
hạn chế cần khắc phục.
3.2. Về xã hội
Bên cạnh các chỉ tiêu về lĩnh vực kinh tế, thì các chỉ tiêu về xã hội đều
hướng và tập trung vào vấn đề con người. Đây là các vấn đề mà bất cứ nhà hoạch
định chính sách nào cũng đều cần phải hướng tới.Đề cập đến chỉ tiêu o lĩnh vực
xã hội và môi trường là một điểm khác biệt với bản kế hoạch mệnh lệnh.Tuy
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
nhiên trong lĩnh vực xã hội và môi trường có nhiều yếu tố được coi là sự thất bại
dưới sự can thiệp của thị trường .Do vậy các chỉ tiêu trong 2 lĩnh vực- này phần
lớn mang tính chất hiện vật ,cụ thể…Chính phủ sẽ can thiệp trực tiếp nhiều hơn là
qua cơ chế thị trường
- Chỉ tiêu về lĩnh vực giáo dục
Các chỉ tiêu này tiếp tục thể hiện sự hoàn thiện của hệ thống giáo dục trong
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Cho thấy sự cân đối trong giáo dục THPT
với giáo dục nghề nghiệp và đại học. Tuy nhiên, một điều hạn chế có thể nhận
thấy đó là các chỉ tiêu này chỉ quan tâm đến quy mô đào tạo mà không thể hiện
được chất lượng của đào tạo. Ví dụ như chỉ tiêu về số lượng sinh viên/10.000 dân,
nó chỉ cho thấy được sự đánh giá về mặt số lượng, còn bản thân con số đó không
cho biết chất lượng của giáo dục đại học. Các chỉ tiêu về giáo dục mang nặng tính
pháp lệnh, đó là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thành tích trong giáo dục.
- Chỉ tiêu về lĩnh vực dân số, lao động- việc làm và xóa đói giảm nghèo
Các chỉ tiêu về dân số, lao động- việc làm đã có sự phối kết hợp giữa các
chỉ tiêu tương đối và tuyệt đối, các chỉ tiêu số lượng và chất lượng .Đa số các chỉ
tiêu mang tính chất định hướng và dự báo, tính chất mệnh lệnh trong các chỉ tiêu
đã giảm đáng kể.
Chỉ tiêu về dân số đã cho thấy sự nỗ lực trong công tác giảm tốc độ tăng
dân số.
Vấn đề lao động- việc làm luôn gắn liền với tăng trưởng kinh tế .Trên thực
tế các nhà đầu tư đến với nước ta với nhiều mục tiêu quan trọng liên quan đến lao
động ,đến con người,đó là số lượng lao động khá dồi dào,giá nhân công còn rẻ;đó
là khi lao động được thu hút vào làm việc sẽ tạo thu nhập ,làm tăng sức mua có
khả năng thanh toán,làm tăng dung lượng thị trường trong nước cả về quy mô cả
về mẫu mã chủng loại,cả về chất lượng .Chính vì lẽ đó lao động đang là vấn đề
nổi cộm nhất hiện nay .Vì vậy cần phải hoạch định các chính sách,chỉ tiêu về lao
động sao cho khai thác được nguồn lực lao động trong nước,phải thấy được đó là
lợi thế so sánh của VN .Mục tiêu giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động trong 5
19