Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phân tích doanh thu, lợi nhuận của nhà máy xi măng an giang...

Tài liệu Phân tích doanh thu, lợi nhuận của nhà máy xi măng an giang

.PDF
61
85
67

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP: PHÂN TÍCH DOANH THU, LỢI NHUẬN CỦA NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN SINH VIÊN THỰC HIỆN Th.S BÙI THANH QUANG BÙI THỊ TÂM YÊN LỚP DH1TC3 AN GIANG 04- 2004 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, dựa trên sự cố gắng rất nhiều của bản thân em, nhưng không thể thiếu sự hỗ trợ của các thầy cô, các cô chú tại đơn vị thực tập. Em xin bày tỏ lòng biết ơn: - Các thầy cô Trường Đại Học An Giang, đặc biệt là thầy cô khoa Kinh Tế -Quản Trị Kinh Doanh đã trang bị cho em nền tảng kiến thức vững chắc về kinh tế và nhiều lĩnh vực liên quan khác. - Các thầy cô Khoa Kinh Tế - Quản Trị Kinh Doanh Trường Đại Học An Giang, các thầy cô Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh đã truyền dạy cho em những kiến thức chuyên sâu về ngành học Tài chính doanh nghiệp, trong đó nổi bật lĩnh vực phân tích doanh thu, lợi nhuận thực sự hữu ích cho bản thân. - Thầy Bùi Thanh Quang đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em thực hiện và hoàn thành tốt bài luận văn tốt nghiệp. - Ban Giám Hiệu Trường đại học An Giang giới thiệu em đến cơ quan thực tập và Ban Giám Đốc Nhà máy xi măng An Giang đã đồng ý cho em thực tập tại nhà máy. Các cô chú, anh chị tại nhà máy, đặc biệt là cô Xuân Hoàng -Trưởng phòng Kế toán-tài vụ, anh Bằng - Phòng Kế hoạch kinh doanh đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo em trong việc thu thập và phân tích số liệu. Em xin chân thành cảm ơn và gửi đến thầy cô, các cô chú, anh chị ở nhà máy những lời chúc tốt đẹp cả trong cuộc sống và trong công tác! LỜI MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Thực hiện đường lối đổi mới, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể thể hiện ở tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm, từ đó tạo điều kiện để nước ta bước vào thời kỳ mới công nghiệp hóa - hiện đại hóa, từng bước hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đặt ra cho các doanh nghiệp nước ta nhiều cơ hội và thách thức. Đó là cơ hội thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, tiếp thu cách làm việc, kinh doanh, quản lý khoa học của nước ngoài, có cơ hội đưa sản phẩm của mình đến nhiều nước trên thế giới…Mặt khác, các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Trong nền kinh tế thị trường, một khi không còn sự bảo hộ của Nhà nước, các doanh nghiệp nước ta phải tự điều hành, quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả để đứng vững trên thị trường và ngày càng phát triển. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải tạo được doanh thu và có lợi nhuận, đồng thời phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá mọi diễn biến và kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Bởi vì thách thức lớn nhất hiện nay không chỉ là tăng đầu tư hay tăng sản lượng mà là tăng cường hiệu quả kinh doanh. Như vậy, thường xuyên quan tâm phân tích hiệu quả kinh doanh nói chung, doanh thu, lợi nhuận nói riêng trở thành một nhu cầu thực tế cần thiết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Trong thời gian học tập ở trường đại học, em được trang bị một nền tảng lý thuyết về kinh tế, phương pháp phân tích kinh tế. Thời gian thực tập tại Nhà máy xi măng An Giang, em được tiếp cận với thực tiễn sinh động ở một đơn vị sản xuất kinh doanh ngành xi măng. Bản thân em có cố gắng nghiên cứu, tìm tòi và nhận thấy việc phân tích doanh thu, lợi nhuận là một việc làm hết sức quan trọng cần thiết. Bởi vì, doanh thu, lợi nhuận không chỉ phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh mà còn là cơ sở để tính ra các chỉ tiêu chất lượng khác nhằm đánh giá đầy đủ hơn hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ hoạt động. Thông qua việc phân tích này, các nhà quản lý sẽ nắm được thực trạng của doanh nghiệp, phát hiện những nguyên nhân và sự ảnh hưởng của các nhân tố lên doanh thu, lợi nhuận. Từ đó, chủ động đề ra những giải pháp thích hợp khắc phục những mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của các nhân tố ảnh hưởng và huy động tối đa các nguồn lực nhằm làm tăng doanh thu, lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Xuất phát từ những vấn đề trên đây, em chọn đề tài: “PHÂN TÍCH DOANH THU VÀ LỢI NHUẬN CỦA NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG” 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: - Đánh giá tình hình doanh thu và lợi nhuận đạt được của nhà máy qua 3 năm 2001, 2002, 2003. - Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình biến động của doanh thu và lợi nhuận. - Đề ra một số giải pháp nhằm tăng doanh thu, lợi nhuận để nâng cao hiệu quả kinh doanh của nhà máy. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Để phân tích doanh thu và lợi nhuận, em sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp thu thập - thống kê - tổng hợp số liệu: Trong đề tài này đòi hỏi cần phải có những số liệu trong những năm gần đây, các số liệu được tập hợp, thu thập từ các báo cáo, tài liệu của cơ quan thực tập, các thông tin trên báo, đài, internet…Sau đó tiến hành thống kê, tổng hợp lại cho có hệ thống để phân tích. - Phương pháp so sánh: Là phương pháp xem xét một chỉ tiêu dựa trên việc so sánh với một chỉ tiêu cơ sở, qua đó xác định xu hướng biến động của chỉ tiêu cần phân tích. Tùy theo mục đích phân tích, tính chất và nội dung của các chỉ tiêu kinh tế mà ta có thể sử dụng các kỹ thuật so sánh thích hợp như so sánh tuyệt đối, so sánh tương đối. - Phương pháp thay thế liên hoàn: Là phương pháp thay thế các nhân tố theo một trình tự nhất định để xác định mức độ ảnh hưởng của chúng đến chỉ tiêu phân tích. Các nhân tố này phải có quan hệ với chỉ tiêu phân tích dưới dạng tích số hoặc thương số. - Phương pháp liên hệ: Để lượng hóa các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu kinh tế. Có nhiều cách liên hệ như liên hệ cân đối, liên hệ tuyến tính, liên hệ phi tuyến…Bài viết này sử dụng phương pháp liên hệ tuyến tính là liên hệ theo một hướng xác định giữa các chỉ tiêu. Chẳng hạn lợi nhuận có quan hệ cùng chiều với doanh thu, giá bán… có quan hệ ngược chiều với chi phí. - Phương pháp chi tiết: Là phương pháp phân tích các chỉ tiêu kinh tế một cách chi tiết theo các hướng: + Chi tiết theo các bộ phận, hay yếu tố cấu thành của chỉ tiêu. + Chi tiết theo thời gian. + Chi tiết theo địa điểm. Trong phạm vi bài viết này sử dụng phương pháp chi tiết theo bộ phận hay yếu tố cấu thành. 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Đề tài này xin được giới hạn trong phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua các số liệu về kết quả doanh thu tiêu thụ, lợi nhuận đạt được…của Nhà máy xi măng An Giang. Do thời gian thực tập ngắn ngủi và sự hạn chế của người viết, bài viết không đi sâu vào chi tiết, chỉ đánh giá tình hình doanh thu và lợi nhuận qua số liệu thu thập được từ các báo cáo tài chính của nhà máy. Không phân tích tất cả các nhân tố mà chỉ phân tích một số nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình biến động doanh thu, lợi nhuận của nhà máy. Từ đó, đưa ra một số giải pháp nhằm tăng doanh thu, lợi nhuận và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Số liệu phân tích được giới hạn trong 3 năm 2001, 2002, 2003. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH THU: 1.1.1. Khái niệm, nội dung và vai trò của doanh thu: 1.1.1.1 Khái niệm: Mục đích cuối cùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tiêu thụ được sản phẩm do mình sản xuất ra và có lãi. Tiêu thụ sản phẩm là quá trình doanh nghiệp xuất giao hàng cho bên mua và nhận được tiền bán hàng theo hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên mua bán. Kết thúc quá trình tiêu thụ doanh nghiệp có doanh thu bán hàng. Doanh thu hay còn gọi là thu nhập của doanh nghiệp, đó là toàn bộ số tiền sẽ thu được do tiêu thụ sản phẩm, cung cấp lao vụ và dịch vụ của doanh nghiệp. 1.1.1.2. Nội dung của doanh thu: Nội dung của doanh thu bao gồm hai bộ phận sau: - Doanh thu về bán hàng: Là doanh thu về bán sản phẩm hàng hoá thuộc những hoạt động sản xuất kinh doanh chính và doanh thu về cung cấp lao vụ, dịch vụ cho khách hàng theo chức năng hoạt động và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Doanh thụ từ tiêu thụ khác, bao gồm: + Doanh thu do liên doanh liên kết mang lại. + Thu nhập từ các hoạt động thuộc các nghiệp vụ tài chính như: thu về tiền lãi gửi ngân hàng, lãi về tiền vay các đơn vị và các tổ chức khác, thu nhập từ đầu tư cổ phiếu, trái phiếu. + Thu nhập bất thường như: thu từ tiền phạt, tiền bồi thường, nợ khó đòi đã chuyển vào thiệt hại. + Thu nhập từ các hoạt động khác như: thu về nhượng bán, thanh lý tài sản cố định; giá trị các vật tư, tài sản thừa trong sản xuất; thu từ bản quyền phát minh, sáng chế; tiêu thụ những sản phẩm chế biến từ phế liệu, phế phẩm. Để tìm hiểu rõ hơn về doanh thu, chúng ta tiếp cận một số khái niệm có liên quan: - Doanh thu thuần về bán hàng, cung cấp dịch vụ: Là doanh thu về bán hàng và cung cấp dịch vụ trừ đi các khoản giảm trừ, các khoản thuế. Các khoản giảm trừ gồm giảm giá hàng bán, hàng bán bị gửi trả lại, chiết khấu thương mại. - Doanh thu thuần: Là doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ cộng cho các khoản hoàn nhập như dự phòng giảm giá hàng tồn kho, phải thu nợ khó đòi không phát sinh trong kỳ báo cáo 1.1.1.3 Vai trò của doanh thu: Doanh thu là một chỉ tiêu quan trọng của doanh nghiệp, chỉ tiêu này không những có ý nghĩa với bản thân doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Doanh thu bán hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn bộ doanh thu của doanh nghiệp. Nó phản ánh quy mô của quá trình tái sản xuất, phản ánh trình độ tổ chức chỉ đạo sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi lẽ có được doanh thu bán hàng chứng tỏ doanh nghiệp sản xuất sản phẩm được người tiêu dùng chấp nhận: rằng sản phẩm đó về mặt khối lượng, giá trị sử dụng, chất lượng và giá cả đã phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Doanh thu bán hàng còn là nguồn vốn quan trọng để doanh nghiệp trang trải các khoản chi phí về tư liệu lao động, đối tượng lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất kinh doanh, để trả lương, thưởng cho người lao động, trích Bảo hiểm xã hội, nộp thuế theo luật định… Thực hiện doanh thu bán hàng là kết thúc giai đoạn cuối cùng của quá trình chu chuyển vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất sau. Vì vậy việc thực hiện doanh thu bán hàng có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tài chính và quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Nếu vì lý do nào đó mà doanh nghiệp sản xuất không thực hiện được chỉ tiêu doanh thu bán hàng hoặc thực hiện chậm đều làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp gặp khó khăn và ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.1.1.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu: Doanh thu bán hàng hằng năm nhiều hay ít do nhiều nhân tố quyết định. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến doanh thu bán hàng là: - Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ: Khối lượng sản phẩm sản xuất hoặc lao vụ, dịch vụ cung ứng càng nhiều thì mức doanh thu bán hàng càng lớn. Tuy nhiên, khối lượng sản phẩm tiêu thụ không chỉ phụ thuộc vào khối lượng sản phẩm sản xuất mà còn phụ thuộc vào tình hình tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm như: việc ký kết hợp đồng tiêu thụ với các khách hàng, việc quảng cáo, tiếp thị, việc xuất giao hàng, vận chuyển và thanh toán tiền hàng, giữ vững kỷ luật thanh toán…Tất cả các việc trên nếu làm tốt đều có tác động nâng cao doanh thu bán hàng. Việc hoàn thành kế hoạch tiêu thụ là nhân tố quan trọng quyết định doanh thu bán hàng. - Kết cấu mặt hàng: Khi sản xuất, có thể có những mặt hàng sản xuất tương đối giản đơn, chi phí tương đối thấp nhưng giá bán lại tương đối cao nhưng cũng có những mặt hàng tuy sản xuất phức tạp, chi phí sản xuất cao, giá bán lại thấp. Do đó, việc thay đổi kết cấu mặt hàng sản xuất cũng ảnh hưởng đến doanh thu bán hàng. Mỗi loại sản phẩm, dịch vụ cung ứng đều có tác dụng nhất định nhằm thoả mãn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng xã hội. Vì vậy khi phấn đấu tăng doanh thu, các doanh nghiệp phải đảm bảo thực hiện đầy đủ các hợp đồng đã ký với khách hàng nếu không sẽ mất khách hàng, khó đứng vững trong cạnh tranh. - Chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm và chất lượng dịch vụ được nâng cao không những có ảnh hưởng tới giá bán mà còn ảnh hưởng tới khối lượng tiêu thụ. Sản phẩm có chất lượng cao, giá bán sẽ cao. Nâng cao chất lượng sản phẩm và chất lượng cung ứng dịch vụ sẽ tăng thêm giá trị sản phẩm và giá trị dịch vụ, tạo điều kiện tiêu thụ dễ dàng, nhanh chóng thu được tiền bán hàng và tăng doanh thu bán hàng. - Giá bán sản phẩm: Trong trường hợp các nhân tố khác không đổi, việc thay đổi giá bán có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng hay giảm doanh thu bán hàng. Thông thường chỉ những sản phẩm, những công trình có tính chất chiến lược đối với nền kinh tế quốc dân thì Nhà nước mới định giá, còn lại do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định. Doanh nghiệp khi định giá bán sản phẩm hoặc giá dịch vụ phải cân nhắc sao cho giá bán phải bù được phần tư liệu vật chất tiêu hao, đủ trả lương cho người lao động và có lợi nhuận để thực hiện tái đầu tư. 1.1.2. Phương pháp lập kế hoạch doanh thu bán hàng: Để lập doanh thu bán hàng có hai phương pháp: 1.1.2.1. Phương pháp lập doanh thu bán hàng theo đơn đặt hàng của khách hàng: Phương pháp này căn cứ vào các hợp đồng đặt hàng của khách hàng để lập kế hoạch doanh thu bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp. Lợi thế của phương pháp này là đảm bảo sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra sẽ tiêu thụ được hết. Phương pháp này sẽ khó thực hiện nếu như không có đơn đặt hàng trước của khách hàng. 1.1.2.2. Lập kế hoạch doanh thu bán hàng căn cứ vào kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp: Theo phương pháp này, doanh thu bán hàng phụ thuộc vào số lượng sản phẩm tiêu thụ hoặc dịch vụ cung ứng và giá bán của đơn vị sản phẩm hoặc cước phí của đơn vị. Công thức tính doanh thu bán hàng như sau: DT = Trong đó: n ∑ (S i =1 ti * Gi ) - DT: là doanh thu bán hàng kỳ kế hoạch. - S ti : Số lượng sản phẩm tiêu thụ của từng loại hoặc dịch vụ cung ứng của từng loại trong kỳ kế hoạch. - Gi : Giá bán đơn vị sản phẩm hoặc cước phí đơn vị. -i : Loại sản phẩm tiêu thụ hoặc dịch vụ cung ứng tiêu thụ. 1.1.3. Ý nghĩa của việc phân tích doanh thu: Doanh thu phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau, do đó để có thể khai thác các tiềm năng nhằm tăng doanh thu, cần tiến hành phân tích thường xuyên đều đặn. Việc đánh giá đúng đắn tình hình doanh thu tiêu thụ về mặt số lượng, chất lượng và mặt hàng, đánh giá tính kịp thời của tiêu thụ giúp cho các nhà quản lý thấy được những ưu, khuyết điểm trong quá trình thực hiện doanh thu để có thể đề ra những nhân tố làm tăng và những nhân tố làm giảm doanh thu. Từ đó, hạn chế, loại bỏ những nhân tố tiêu cực, đẩy nhanh hơn nữa những nhân tố tích cực, phát huy thế mạnh của doanh nghiệp nhằm tăng doanh thu, nâng cao lợi nhuận, vì doanh thu là nhân tố quyết định tạo ra lợi nhuận. Doanh thu đóng vai trò quan trọng trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh thu càng lớn lợi nhuận càng cao, bởi vậy chỉ tiêu này là cơ sở để xác định lãi, lỗ sau một quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó, đơn vị muốn tăng lợi nhuận thì vấn đề trước tiên cần phải quan tâm đến là doanh thu. 1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỢI NHUẬN. 1.2.1. Khái niệm, nội dung và vai trò của lợi nhuận: 1.2.1.1. Khái niệm: Sau một thời gian hoạt động nhất định doanh nghiệp sẽ có thu nhập bằng tiền. Lợi nhuận của doanh nghiệp là số chênh lệch giữa doanh thu thuần với trị giá vốn của hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Do đó, lợi nhuận phụ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh và trình độ quản lý của doanh nghiệp. Lãi gộp là phần còn lại của doanh thu sau khi trừ chi phí khả biến, là phần đóng góp dùng đảm bảo trang trải cho chi phí bất biến. Lợi nhuận trước thuế: là lợi nhuận đạt được trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận sau thuế: là phần còn lại sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho ngân sách Nhà nước, lợi nhuận sau thuế dùng để trích lập các quỹ đối với các doanh nghiệp. 1.2.1.2. Nội dung của lợi nhuận: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tuỳ theo các lĩnh vực đầu tư khác nhau, lợi nhuận cũng được tạo ra từ nhiều hoạt động khác nhau: - Lợi nhuận về nghiệp vụ sản xuất kinh doanh: Là lợi nhuận có được từ hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng chức năng của doanh nghiệp. - Lợi nhuận từ hoạt động liên doanh liên kết. - Lợi nhuận về hoạt động tài chính: Là các khoản thu về lãi tiền gửi, thu lãi bán ngoại tệ, thu từ cho thuê tài sản cố định, thu nhập từ đầu tư trái phiếu, cổ phiếu. - Lợi nhuận khác: Là lợi nhuận thu được từ những hoạt động bất thường hay còn gọi là các khoản thu từ các hoạt động riêng biệt với hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của đơn vị. Những khoản này thường phát sinh không đều đặn như: Thu tiền phạt, tiền bồi thường do khách hàng vi phạm hợp đồng, thu được các khoản nợ khó đòi mà trước đây đã chuyển vào thiệt hại, thu các khoản nợ không xác định được chủ, các khoản lợi nhuận bị sót những năm trước nay mới phát hiện. 1.2.1.3. Vai trò của lợi nhuận: Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh đầy đủ các mặt số lượng, chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, phản ánh kết quả việc sử dụng các yếu tố cơ bản sản xuất như lao động, vật tư, tài sản cố định… Lợi nhuận là một nguồn thu điều tiết quan trọng của Ngân sách Nhà nước, giúp Nhà nước thực hiện các chương trình kinh tế xã hội, phát triển đất nước. Lợi nhuận là nguồn vốn quan trọng để tái sản xuất và mở rộng toàn bộ nền kinh tế quốc dân và doanh nghiệp. Lợi nhuận được để lại doanh nghiệp thành lập các quỹ tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên. Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế quan trọng có tác dụng khuyến khích người lao động và các đơn vị ra sức phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở của chính sách phân phối đúng đắn. Mục đích cuối cùng của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là sản xuất kinh doanh thật nhiều sản phẩm, đảm bảo chất lượng tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước với giá thành thấp nhất và mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho doanh nghiệp, tăng tích luỹ mở rộng sản xuất, là điều kiện cải thiện đời sống vật chất của người lao động trong doanh nghiệp, góp phần làm giàu mạnh đất nước. Ngược lại, doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ sẽ dẫn đến tình hình tài chính của doanh nghiệp khó khăn, thiếu khả năng thanh toán, tình hình này kéo dài doanh nghiệp sẽ bị phá sản. 1.2.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận: Trong quá trình hoạt động có rất nhiều nhân tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Các nhân tố chủ yếu là: - Khối lượng sản phẩm tiêu thụ: Sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp có tiêu thụ được mới xác định được lãi hay lỗ và lãi, lỗ ở mức độ nào. Sản phẩm, hàng hoá phải được tiêu thụ ở một số lượng nào đó sẽ có lợi nhuận, khối lượng tiêu thụ càng nhiều thì lợi nhuận đạt được càng lớn - Giá thành sản xuất của sản phẩm: Giá thành sản xuất có vai trò to lớn trong chiến lược cạnh tranh về giá. Giá thành sản xuất thấp cho phép doanh nghiệp áp dụng giá bán thấp hơn đối thủ nhưng thu được lợi nhuận cao hơn. Giá thành sản xuất có tác động ngược chiều với lợi nhuận, nếu giá thành thấp lợi nhuận sẽ cao hơn và ngược lại. Đối với những ngành có số lao động nhiều, chi phí nhân công có ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Hiện nay, giá nhân công rẻ là một yếu tố thuận lợi của nước ta trong việc tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, vì có thể tiêu thụ sản phẩm với giá rẻ nhưng lợi nhuận không giảm. - Giá bán sản phẩm: Trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì giá bán phải tương ứng với giá trị, nghĩa là giá cả sản phẩm phải đảm bảo bù đắp được chi phí sản xuất và phải có lợi nhuận thoả đáng để tái đầu tư. Trong chính sách giá của doanh nghiệp, giữa giá bán và khối lượng bán có mối quan hệ chặt chẽ, khi khối lượng hàng hoá bán tăng thì giá bán có thể giảm và ngược lại. - Kết cấu mặt hàng tiêu thụ: Mỗi loại sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp có một chi phí sản xuất riêng, do đó có mức lợi nhuận riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ cạnh tranh trên thị trường, giá bán, giá vốn, thuế,…rất khác nhau. Bởi vậy, khi doanh nghiệp có cơ cấu hàng hoá kinh doanh thay đổi sẽ làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. - Thuế suất: Thuế suất do Nhà nước quy định, những thay đổi trong chính sách thuế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận, các doanh nghiệp cần nắm bắt kịp thời các sự thay đổi này để có những biện pháp can thiệp kịp thời đảm bảo được lợi nhuận, hạn chế tổn thất. 1.2.2. Phương pháp tính lợi nhuận: Có hai phương pháp tính lợi nhuận: 1.2.2.1. Phương pháp trực tiếp Xác định lợi nhuận dựa vào công thức sau: P = DTT – (Zsxtt + CPBH + CPQL) Trong đó: -P : Tổng lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp. - DTT : Doanh thu thuần về bán hàng và cung ứng dịch vụ. - Zsxtt : Giá thành sản phẩm tiêu thụ. - CPBH : Chi phí bán hàng. - CPQL : Chi phí quản lý. Xác định lợi nhuận theo phương pháp này dễ tính toán, đơn giản. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiều mặt hàng thì công việc tính toán trở nên phức tạp hơn. Mặt khác, dùng phương pháp này không thấy được những nhân tố làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. 1.2.2.2. Phương pháp phân tích: Để khắc phục nhược điểm của phương pháp trực tiếp, người ta dùng phương pháp phân tích để xác định lợi nhuận. Công thức tính lợi nhuận theo phương pháp này như sau: P = Pss ± Pz ± Pkc ± Pcl ± Pg ± Pđk ± Poss Trong đó: - Pss : Lợi nhuận sản phẩm so sánh được tính theo tỷ suất lợi nhuận kỳ báo cáo. - Pz : Lợi nhuận thay đổi do ảnh hưởng của nhân tố giá thành. - Pkc : Lợi nhuận thay đổi do ảnh hưởng của nhân tố kết cấu mặt hàng. - Pcl : Lợi nhuận thay đổi do ảnh hưởng của nhân tố chất lượng. - Pđk : Lợi nhuận của sản phẩm kết dư đầu kỳ. - Poss: Lợi nhuận của sản phẩm không so sánh được. Như vậy, theo phương pháp này ta có thể biết rõ nhân tố ảnh hưởng làm thay đổi lợi nhuận kỳ kế hoạch so với kỳ báo cáo, từ đó có các biện pháp khai thác hoặc khắc phục nhằm tăng lợi nhuận. Việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận là cơ sở ra quyết định nhanh, dứt khoát về mua bán hàng hoá thích ứng với sự biến dạng của thị trường. Dù cho dùng phương pháp nào để phân tích lợi nhuận thì mục đích chung đều là tìm kiếm các xu hướng tăng lợi nhuận và đầu tư có lợi, khai thác các nhân tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp để đảm bảo kinh doanh có lợi nhuận và mức độ lợi nhuận ngày càng cao. 1.2.3. Tác động của đòn cân nợ, đòn cân định phí, và đòn cân tổng hợp đến doanh lợi của doanh nghiệp: Doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh luôn phải đối phó nhiều rủi ro. Thường có hai loại rủi ro có thể gặp là: Rủi ro trong kinh doanh và rủi ro tài chính. Rủi ro trong kinh doanh: Là loại rủi ro tiềm tàng trong hoạt động của doanh nghiệp sẽ không có gì chắc chắc xung quanh doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Chính điều này sẽ tạo ra rủi ro, thể hiện ở chổ doanh nghiệp không tạo ra đủ số doanh thu hàng năm từ việc bán sản phẩm đạt đến mức đủ thanh toán các định phí trong sản xuất kinh doanh. Rủi ro tài chính: Là hậu quả của phương thức huy động nợ và nó sẽ dẫn đến các khoản phải trả cố định. Doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau, phải đối diện với mức độ đòn bẩy hoạt động khác nhau, họ có thể thay đổi phương thức sử dụng đòn bẩy tài chính một cách thích hợp. Một cách tổng quát, những doanh nghiệp mà bản thân phải chịu nhiều rủi ro trong kinh doanh có khuynh hướng sử dụng nợ ít hơn doanh nghiệp mà rủi ro kinh doanh có giới hạn. Mặt khác những doanh nghiệp có rủi ro trong kinh doanh ít hơn có thể gặp rủi ro tài chính cao hơn. 1.2.3.1. Đòn cân nợ: Quá trình tài trợ bằng nợ vay tạo ra đòn cân nợ và việc trả lãi tiền vay cố định làm thay đổi tỷ suất doanh lợi đầu tư. Đòn cân nợ có tác động đến thu nhập và tiền lời mà chủ sở hữu nhận được. Đòn cân nợ được tạo ra do cách thức huy động nợ, và chính cách thức huy động nợ sẽ dẫn đến chi phí tài chính cố định. Tỷ lệ nợ hoặc độ nghiêng đòn cân nợ càng cao thì tác động của đòn cân nợ càng lớn. Các doanh nghiệp ít gặp rủi ro trong kinh doanh thì sẽ có khuynh hướng sử dụng đòn cân nợ. Và ngược lại, doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh họ sẽ ít sử dụng đòn cân nợ. Để xác định độ nghiêng của đòn cân nợ, ta áp dụng công thức: DFL = Q( P − V ) − F Q( P − V ) − F − R - DFL : Độ nghiêng đòn cân nợ - Q : Sản lượng tiêu thụ - F : Định phí - V : Biến phí một đơn vị sản phẩm - P : Giá bán một đơn vị sản phẩm - R : Lãi vay *Nếu DFL cao thì rủi ro tài chính sẽ rất lớn 1.2.3.2. Đòn cân định phí Độ nghiêng đòn cân định phí ( DOL) được xác định như sau: DOL = Q( P − V ) Q( P − V ) − F *Nếu DOL cao thì rủi ro kinh doanh cũng sẽ cao. Ngưyên nhân là do họ đã đầu tư nhiều vào tài sản cố định và có bộ máy quản lý cồng kềnh, kết quả là định phí cao. Tốt nhất là doanh nghiệp nên chọn DOL vừa phải. 1.2.3.3. Đòn cân tổng hợp: Độ nghiêng đòn cân tổng hợp ký hiệu là DCL. Tác động tổng hợp cả đòn cân định phí và đòn cân nợ chính là độ nghiêng đòn cân tổng hợp: DCL =DOL x DFL Từ DCL có thể xác định sự thay đổi sản lượng hay doanh thu trên doanh lợi vốn tự có, đồng thời cho thấy tương quan giữa đòn cân nợ và đòn cân định phí, nếu doanh nghiệp quyết định vay nợ để đầu tư vào tài sản cố định sẽ đem đến tình trạng rủi ro kinh doanh rất cao. Thể hiện: sự giảm sút chút ít doanh thu sẽ gây ra sự giảm sút rất lớn về doanh lợi vốn tự có Qua đó, doanh nghiệp có quyết định tỷ lệ sử dụng nợ ở mức độ sản xuất nào là phù hợp nhất. 1.2.4. Phân tích điểm hoà vốn - Khái niệm điểm hoà vốn: Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó khối lượng sản phẩm tiêu thụ ở thị trường đạt được doanh thu đủ bù đắp toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh với giá cả thị trường đã xác định trước. Tại điểm hoà vốn, doanh nghiệp không có lãi và cũng không bị lỗ. Khi đó lãi gộp bằng với chi phí bất biến. Phương pháp xác định điểm hoà vốn: DTHV = CPBB 1- CPKB DTTH - DTHV: Doanh thu hoà vốn. - CPBB : Chi phí bất biến. - CPKB : Chi phí khả biến. - DTTH : Doanh thu thực hiện. Phân tích khối lượng sản phẩm tại điểm hoà vốn là tính toán khối lượng sản phẩm tiêu thụ và doanh thu tại điểm mà ở đó doanh nghiệp có khả năng bù đắp được những chi phí vật chất trong quá trình sản xuất và tiêu thụ. Trên cơ sở đó, xác định khối lượng tiêu thụ tung vào thị trường nhằm đạt hiệu quả cao nhất. - Thời gian hoà vốn: Là thời gian cần thiết để đạt được doanh thu hoà vốn trong một kỳ kinh doanh DTHV TGHV = X 12 DTTH - TGHV: Thời gian hoà vốn (tháng) - DTTH: Doanh thu thực hiện *Thời gian hoà vốn càng ngắn càng tốt - Doanh thu an toàn: Là phần doanh thu vượt qua điểm hoà vốn, là phần doanh thu bắt đầu tạo lợi nhuận cho doanh nghiệp. Doanh thu an toàn càng lớn, điểm hoà vốn càng gần hơn, độ rủi ro giảm đi. DT an toàn = DTTH – DTHV ( DT : Doanh thu) 1.2.5. Phân tích tỷ suất lợi nhuận: Tổng mức lợi nhuận của doanh nghiệp ảnh hưởng bởi hai loại nhân tố: - Chịu ảnh hưởng bởi quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quy mô sản xuất kinh doanh càng lớn thì sẽ tạo ra tổng mức lợi nhuận càng nhiều, quy mô sản xuất kinh doanh càng nhỏ thì tạo ra tổng mức lợi nhuận càng thấp. - Chịu ảnh hưởng bởi chất lượng công tác tổ chức quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có tổ chức quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp đó sẽ tạo ra lợi nhuận cao hơn. Bởi vậy, để đánh giá đúng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần tính và phân tích các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số của hai chỉ tiêu tuỳ theo mối liên hệ giữa tổng mức lợi nhuận với một chỉ tiêu có liên quan. Do đó, có rất nhiều chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận, tuỳ theo mục đích phân tích cụ thể, tính các tỷ suất lợi nhuận thích hợp. 1.2.5.1 Tỷ suất lợi nhuận – doanh thu (LN/DT): Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức: LN LN/DT = DT Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng về lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng cao. Bởi vậy, doanh nghiệp phải nâng cao tổng mức lợi nhuận lên. 1.2.5.2. Tỷ suất lợi nhuận – giá vốn hàng bán (LN/GVHB): Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức: LN LN/GVHB = GVHB (GVHB: Giá vốn hàng bán) Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng giá vốn của sản phẩm thì sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ hiệu quả sản suất kinh doanh của doanh nghiệp càng lớn. 1.2.5.3 Tỷ suất lợi nhuận – tổng tài sản (LN/TTS): Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức: LN/TTS = LN TTS (TTS: Tổng tài sản của doanh nghiệp) Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng tài sản dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ, thì tạo ra được bao nhiêu đồng về lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh càng lớn. 1.2.5.4 Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận - chi phí bán hàng (LN/CPBH) Chỉ tiêu này được tính bằng công thức: LN/CPBH = LN CPBH Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng chi ra cho khâu bán hàng thì sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, qua đó cho ta thấy phần đóng góp của chi phí bán hàng vào doanh thu. Việc phân tích các tỷ suất lợi nhuận phải đồng thời với việc phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến các tỷ suất lợi nhuận đó. 1.2.6. Chính sách phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp: Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế quan trọng cho nên phân phối lợi nhuận hợp lý sẽ có tác dụng khuyến khích doanh nghiệp ngày càng phát huy tinh thần trách nhiệm và ý thức làm chủ của doanh nghiệp, góp phần động viên mọi người lao động trong doanh nghiệp vì lợi ích bản thân mình, của doanh nghiệp và của xã hội mà phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động để không ngừng phát triển sản xuất kinh doanh. Chính sách phân phối lợi nhuận có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có những chính sách riêng nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mình. Tuy nhiên phải theo quy định của Bộ tài chính. Lợi nhuận đạt được của doanh nghiệp sẽ được phân phối như sau: - Nộp thuế cho Ngân sách Nhà nước - Nộp tiền thu về sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước - Khấu trừ chi phí bất hợp lệ và các khoản tiền phạt. - Trừ vào các khoản lỗ không được khấu trừ vào lợi tức trước thuế. - Phần còn lại để trích lập các quỹ như: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng và phúc lợi…. Các quỹ này được trích lập theo quy định Thông tư 70/TCDN của Bộ Tài Chính năm 1996. Cụ thể: - Quỹ đầu tư phát triển: trích từ 50% trở lên, không hạn chế mức tối đa. - Quỹ dự phòng tài chính: trích từ 10% trở lên, số dư của quỹ không vượt quá 25% vốn điều lệ - Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm: trích từ 5% trở lên, số dư không vượt quá 6 tháng lương thực hiện của doanh nghiệp. - Số lợi tức còn lại sau khi trích các quỹ trên, doanh nghiệp được trích lập quỹ khen thưởng phúc lợi theo quy định: + Doanh nghiệp được trích tối đa bằng 3 tháng lương thực hiện với điều kiện tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước (vốn Nhà nước bao gồm vốn ngân sách do Nhà nước cấp, vốn có nguồn gốc ngân sách cấp, vốn do doanh nghiệp tự bổ sung) dùng trong hoạt động kinh doanh năm nay không thấp hơn tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước năm trước. + Doanh nghiệp được trích tối đa bằng 2 tháng lương thực hiện nếu tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước năm nay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước năm trước. Tỷ lệ trích vào mỗi quỹ do Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc (nếu doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị) quyết định khi đã tham khảo ý kiến của Công đoàn doanh nghiệp. Trường hợp số dư các quỹ đã đạt mức tối đa, thì chuyển số lợi nhuận còn lại vào quỹ đầu tư phát triển. 1.2.7. Ý nghĩa của việc phân tích lợi nhuận: Quá trình hoạt động của doanh nghiệp là quá trình đan xen giữa thu nhập và chi phí. Để thấy được thực chất của kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là cao hay thấp, đòi hỏi sau một kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tiến hành phân tích mối quan hệ giữa tổng thu nhập với tổng chi phí và mức lợi nhuận đạt được của doanh nghiệp. Lợi nhuận là cơ sở để tính ra các chỉ tiêu chất lượng khác, nhằm đánh giá hiệu quả của các quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đánh giá hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Qua việc phân tích lợi nhuận có thể tìm ra những nguyên nhân ảnh hưởng chủ yếu đến doanh lợi của doanh nghiệp, từ đó có biện pháp khai thác được khả năng tiềm tàng của doanh nghiệp trong việc phấn đấu nâng cao lợi nhuận, tăng tích lũy cho Nhà nước và cho nhân viên của doanh nghiệp. Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường, phân tích các nhân tố ảnh hưởng, mức độ ảnh hưởng và xu hướng tác động của từng nhân tố đến lợi nhuận giúp doanh nghiệp đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế, trên cơ sở đó đề ra các quyết định đầu tư, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh doanh. CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG 2.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG: Nhà máy xi măng An Giang là một trong những nhà máy được thành lập sau ngày miền Nam giải phóng, được khởi công xây dựng từ tháng 11 năm 1978 đưa vào sản xuất cuối năm 1979. Nhà máy xi măng An Giang được đặt tại khu vực ấp Đông Thạnh, xã Mỹ Thạnh, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, với diện tích mặt bằng chiếm 9 ha cạnh quốc lộ 91, cách trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 6 km. Hàng năm nhà máy đã góp phần rất lớn trong nền kinh tế quốc dân, cung cấp xi măng cho các công trình dân dụng và công nghiệp, xây dựng cơ bản trong tỉnh và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Sự ra đời của nhà máy xi măng là cần thiết để cung cấp nguyên vật liệu cho công trình xây dựng, khắc phục hậu quả chiến tranh gây ra, đồng thời phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Từ khi thành lập nhà máy xi măng An Giang hoạt động sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh. Từ nguồn tích lũy qua nhiều năm đến tháng 4 năm 1995, nhà máy có 4 máy nghiền (loại có công suất : 2 tấn/giờ), ba dãy nhà kho chứa nguyên liệu và thành phẩm, một kho chứa phế liệu và sân phơi. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là loại máy móc cũ kỹ, hầu hết dây chuyền sản xuất thủ công là chính, chất lượng sản phẩm không đồng đều, hiệu quả kinh tế không cao. Hằng năm, nhà máy nhận chỉ tiêu sản xuất xi măng trên giao, nguyên liệu tự lo và chỉ sản xuất trên dưới 5.000 tấn xi măng loại mác thấp P 300 (tương đương PC 20) tiêu thụ rất khó khăn. Sản lượng tiêu thụ trong giai đoạn này chiếm 15% nhu cầu xây dựng cơ bản của tỉnh An Giang. Năm 1986, nhà máy hoạt động khá vất vả, khó khăn lớn nhất trong giai đoạn này là nhà máy nằm trong bối cảnh cả nước tiến tới xóa bao cấp, sản xuất theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sản xuất mang tính độc lập, tự chủ nên hoạt động của nhà máy rất bấp bênh. Năm 1995, nền công nghiệp xi măng của tỉnh An Giang nằm trong tình trạng lạc hậu về công nghệ. Tháng 4 năm 1995, nhà máy xi măng được sáp nhập vào Công ty Xây Lắp An Giang. Trước yêu cầu của sự công nghiệp hóa - hiện đại hóa cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, thay đổi cách nhìn và cung cách làm ăn mới, lãnh đạo Công ty Xây Lắp xin ý kiến Tỉnh ủy - thường trực Ủy Ban Nhân Dân tỉnh và được sự đồng ý, chỉ đạo cho Nhà máy tiến hành lập dự án đầu tư xây dựng - lắp đặt dây chuyền nghiền hiện đại đầu tiên, hoàn thành vào tháng 5 năm 1997 có công suất 100.000 tấn/năm, nhập thiết bị Trung Quốc, tổng vốn đầu tư 7.300 triệu đồng. Với công nghệ kỹ thuật cao, tự động hoá và định lượng hoàn toàn điều khiển bằng máy vi tính. Cùng với sự nhiệt tình năng nổ của tập thể cán bộ công nhân viên, nghiên cứu cải tiến kỹ thuật, áp dụng nhiều sáng kiến, thay đổi mẫu mã mới, tiết kiệm trong xây dựng, giảm chi phí đầu tư, hạ giá thành sản phẩm, quảng cáo thương hiệu,…Sau hơn ba năm hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, Nhà máy đã hoàn vốn đầu tư, đồng thời đã được Trung Tâm 3 cấp dấu chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn quốc gia vào cuối năm 1998. Nhà máy đã hoạt động hết công suất thiét kế nhưng cũng không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ của xã hội, nên đầu năm 2000 lãnh đạo Công ty Xây Lắp đồng ý cho nhà máy tiếp tục đầu tư thêm dây chuyền thứ hai (công suất 100.000 tấn/năm), về thiết bị chỉ mua máy nghiền bi, máy phân ly của Trung Quốc, một số thiết bị còn lại như gầu nâng, sàn quay, máy đóng bao vít tải, cân băng điện tử…nhà máy tự chế tạo và lắp đặt. Rút kinh nghiệm từ dây chuyền trước có cải tiến máy phân ly, silô xi măng, bố trí dây chuyền hợp lý, nên giảm chi phí đầu tư công trình gần 2.000 triệu đồng, hoàn thành đưa vào sử dụng trước thời hạn một tháng (ngày 15/11/2000). Phát huy hiệu quả sản xuất kinh doanh của hai dây chuyền, tháng 3 năm 2001 được sự chỉ đạo của Công ty Xây Lắp, nhà máy xi măng tiếp tục đầu tư thêm dây chuyền thứ ba và thứ tư với công nghệ thiết bị như hai dây chuyền nêu trên, cũng chỉ mua ống nghiền và máy phân ly còn các thiết bị khác do cán bộ công nhân viên nhà máy chế tạo. Nhờ có kinh nghiệm trong chế tạo và lắp đặt nên tiến
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan