Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phân tích diễn ngôn xã luận trên báo nhân dân năm 1975...

Tài liệu Phân tích diễn ngôn xã luận trên báo nhân dân năm 1975

.PDF
113
2173
90

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THU HƢỜNG PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN XÃ LUẬN TRÊN BÁO NHÂN DÂN NĂM 1975 LUẬN VĂN THẠC SĨ Hà Nội - 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THU HƢỜNG PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN XÃ LUẬN TRÊN BÁO NHÂN DÂN NĂM 1975 Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60.22.01 Luận văn Thạc sĩ Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thị Việt Thanh Hà Nội - 2013 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 6 NỘI DUNG....................................................................................................... 9 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG................................................7 1.1. Đặt vấn đề ............................................................................................... 9 1.2. Lược sử vấn đề ...................................................................................... 10 1.3. Một số khái niệm liên quan ................................................................... 13 1.3.1. Khái niệm “diễn ngôn” ................................................................... 13 1.3.2. Khái niệm “phân tích diễn ngôn” ................................................... 16 1.3.3. Diễn ngôn thuộc phong cách chính luận trong mối quan hệ với các thể loại diễn ngôn khác ....................................................................... 19 1.3.4. Khái niệm “diễn ngôn xã luận” ...................................................... 22 1.4. Vài nét về báo Nhân Dân và đặc điểm của diễn ngôn xã luận trên báo Nhân Dân năm 1975 ............................................................................. 25 1.4.1. Vài nét về báo Nhân Dân ................................................................ 25 1.4.2. Vài nét về đặc điểm của diễn ngôn xã luận trên báo Nhân Dân năm 1975 ................................................................................................... 26 1.4.3. Mô hình giao tiếp của diễn ngôn xã luận (báo Nhân Dân, 1975) ........ 27 * Tiểu kết...................................................................................................... 30 CHƢƠNG 2: CÁC PHƢƠNG THỨC NGÔN NGỮ ĐẶC THÙ ĐẢM NHIỆM CHỨC NĂNG THÔNG TIN CỦA DIỄN NGÔN XÃ LUẬN TRÊN BÁO NHÂN DÂN NĂM 1975 .......................................................... 32 2.1. Mô tả cấu trúc tổng thể của diễn ngôn xã luận trên báo Nhân Dân năm 1975 ...................................................................................................... 32 2.1.1. Một vài đặc điểm chung của cấu trúc văn bản báo chí ................... 32 2.1.2. Mô tả cấu trúc tổng thể của diễn ngôn xã luận trên báo Nhân Dân 1975 ................................................................................................... 34 2.2. Miêu tả đặc điểm cấu trúc từng phần .................................................... 35 2.2.1. Đặc điểm cấu trúc phần tiêu đề....................................................... 35 3 2.2.1.1. Phân loại tiêu đề theo chủ đề ....................................................... 35 2.2.1.2. Về cấu trúc cú pháp của tiêu đề ................................................... 38 2.2.1.3. Các yếu tố từ vựng biểu thị sự đánh giá hoặc thái độ biểu cảm của tiêu đề.......................................................................................... 41 2.2.2. Đặc điểm cấu trúc phần nội dung chính ......................................... 43 2.2.2.1. Đặc điểm cấu trúc phần nêu vấn đề ............................................. 50 2.2.2.2. Đặc điểm cấu trúc phần giải quyết vấn đề (chính văn) ............... 53 2.2.2.3. Đặc điểm cấu trúc phần kết luận.................................................. 65 2.3. Liên kết trong diễn ngôn xã luận .......................................................... 70 2.3.1. Phép nối .......................................................................................... 71 2.3.2. Phép liên kết từ vựng ...................................................................... 74 2.3.2.1. Phép lặp từ vựng .......................................................................... 75 2.3.2.2. Phép phối hợp từ ngữ ................................................................... 76 2.4. Những yếu tố ngôn ngữ thể hiện đặc thù của ngữ cảnh ....................... 81 2.4.1. Những yếu tố ngôn ngữ chỉ thời gian đặc thù ................................ 81 2.4.2. Những yếu tố ngôn ngữ chỉ không gian đặc thù ............................. 82 * Tiểu kết...................................................................................................... 84 CHƢƠNG 3: CÁC YẾU TỐ NGÔN NGỮ TẠO HIỆU QUẢ TÁC ĐỘNG (CHỨC NĂNG LIÊN NHÂN) TRONG DIỄN NGÔN XÃ LUẬN TRÊN BÁO NHÂN DÂN NĂM 1975 .............................................. 86 3.1. Cách sử dụng từ xưng hô mang tính điển hình ..................................... 87 3.2. Các phương thức biểu thị tình thái........................................................ 92 3.2.1. Sử dụng câu cầu khiến .................................................................... 92 3.2.2. Sử dụng câu mang tính chất khẩu hiệu ........................................... 99 3.2.3. Sử dụng câu cảm thán ................................................................... 101 * Tiểu kết.................................................................................................... 106 KẾT LUẬN .................................................................................................. 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH............................................................ 111 4 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Bảng số lượng và tỉ lệ các loại chủ đề của tiêu đề ......................... 37 Bảng 2.2: Bảng số lượng và tỉ lệ các kiểu cấu trúc cú pháp của tiêu đề......... 39 Bảng 2.3: Bảng số lượng và tỉ lệ các cách nêu vấn đề .................................... 51 Bảng 2.4: Bảng tỉ lệ các dạng kết cấu thông tin.............................................. 64 Bảng 2.5: Bảng số lượng và tỉ lệ các cách kết luận ........................................ 70 Bảng 3.1: Bảng tỉ lệ xuất hiện của các phó từ biểu thị ý nghĩa cầu khiến trực tiếp ........................................................................................... 95 5 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Phân tích diễn ngôn (Discourse Analysis) là đường hướng tiếp cận tài liệu ngôn ngữ nói và viết bậc trên câu (diễn ngôn/ văn bản) từ tính đa diện hiện thực của nó, bao gồm các mặt ngôn từ và ngữ cảnh tình huống, với các mặt hữu quan thể hiện trong khái niệm ngôn vực mà nội dung hết sức phong phú và đa dạng (gồm các hiện tượng thuộc thể loại và phong cách chức năng, phong cách cá nhân, cho đến các hiện tượng xã hội, văn hóa, dân tộc). [2, tr.158] Trong thời gian gần đây, nhiều nhà nghiên cứu cố gắng nghiên cứu sự khác biệt giữa văn bản và diễn ngôn, giữa phân tích văn bản và phân tích diễn ngôn. Theo Diệp Quang Ban, điểm khác biệt lớn nhất của phân tích diễn ngôn với phân tích văn bản truyền thống là ở chỗ: Nếu như phân tích văn bản chỉ tập trung làm rõ những đặc điểm về cấu trúc, ngữ nghĩa nội tại của văn bản và chỉ trong văn bản ấy mà thôi, thì phân tích diễn ngôn lại hướng tới tìm hiểu diễn ngôn (bao gồm cả dạng thức tồn tại dưới dạng văn tự và âm thanh) trong mối quan hệ rộng hơn, không chỉ là các yếu tố trong văn bản mà cả các yếu tố ngoài văn bản chi phối sự tồn tại của nó như bối cảnh, người tạo lập, người tiếp nhận, mục đích, hiệu quả tác động… Như vậy diễn ngôn được nhìn nhận, đánh giá trong quá trình hành chức và hành chức tạo ra giá trị ý nghĩa. Đó mới là ý nghĩa tồn tại đích thực của diễn ngôn. Phân tích diễn ngôn chỉ mới xuất hiện và phát triển trong mấy thập niên gần đây. Trên thế giới, có thể kể tới những tên tuổi lớn như Z. Harris, David Nunan, Brown và Yule, Crytal… Ở Việt Nam, sau khi lí thuyết phân tích diễn ngôn được giới thiệu, đã có không ít công trình áp dụng lí thuyết này vào nghiên cứu một số kiểu loại diễn ngôn cụ thể như diễn ngôn bản tin, diễn ngôn phóng sự, diễn ngôn lời kêu gọi, diễn ngôn ký,… Tuy vậy, có thể nói, phân tích diễn ngôn xã luận với tư cách là một loại hình mang tính điển hình 6 của diễn ngôn chính luận chưa được chú ý một cách thích đáng. Đó chính là lí do chúng tôi quyết định chọn “phân tích diễn ngôn xã luận trên báo Nhân Dân” làm đề tài cho luận văn của mình. Hy vọng, kết quả nghiên cứu sẽ góp thêm một tiếng nói có ý nghĩa cho ngành khoa học còn tương đối mới mẻ này ở Việt Nam. 2. Mục đích, ý nghĩa của luận văn Mục đích chính của luận văn là sẽ áp dụng lý thuyết và thao tác của phân tích diễn ngôn vào phân tích thể loại diễn ngôn xã luận, một loại diễn ngôn rất điển hình của phong cách chính luận nhằm tìm hiểu những đặc điểm cơ bản về cấu trúc và tổ chức ý nghĩa của kiểu loại diễn ngôn này trên cơ sở hai chức năng cơ bản nhất là chức năng giao tiếp (liên giao) và chức năng liên nhân của chúng. Luận văn hướng tới giá trị về phương diện lý luận khi muốn áp dụng lý thuyết và các phương pháp phân tích diễn ngôn vào một dạng văn bản điển hình thuộc phong cách báo chí - chính luận, góp phần vào những kết quả của lĩnh vực phân tích diễn ngôn hiện nay. Về phương diện thực tiễn, những kết quả của luận văn sẽ góp phần vào công tác giảng dạy, học tập môn ngữ văn ở nhà trường đối với thể loại báo chí chính luận, đồng thời vào công tác biên tập tại các tòa báo. 3. Phạm vi tƣ liệu Để đạt được mục đích trên, chúng tôi lựa chọn ngẫu nhiên mẫu phân tích là 120 diễn ngôn trên tổng số 362 diễn ngôn xã luận trên báo Nhân Dân năm 1975, một năm mà số lượng bài xã luận đạt đến con số kỉ lục do yêu cầu thực tế của đời sống chính trị, xã hội đất nước. 4. Phƣơng pháp xử lí đề tài Trong quá trình nghiên cứu đề tài, bên cạnh phương pháp phân tích diễn ngôn, phương pháp cơ bản nhất được sử dụng một cách triệt để, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp và thủ pháp như sau: 7 - Phương pháp miêu tả - Phương pháp so sánh - Thủ pháp thống kê - Thủ pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được cấu tạo thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận Chương 2: Các phương thức ngôn ngữ đặc thù đảm nhiệm chức năng thông tin của diễn ngôn xã luận trên báo Nhân Dân (năm 1975) Chương 3: Các yếu tố ngôn ngữ tạo hiệu quả tác động (chức năng liên nhân) của diễn ngôn xã luận báo Nhân Dân (năm 1975) 8 NỘI DUNG Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Đặt vấn đề Báo chí Cách mạng Việt Nam là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, là diễn đàn tin cậy của nhân dân. Trong suốt những năm kháng chiến của dân tộc, đặc biệt là từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, báo chí cách mạng được Đảng trao cho sứ mệnh là người tiên phong trong việc tuyên truyền, giáo dục về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; phản ánh thực tiễn xây dựng và bảo vệ tổ quốc với quan điểm xuyên suốt: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là vũ khí sắc bén chống lại mọi biểu hiện phản động, tiêu cực đi ngược lại với quyền lợi của nhân dân, của đất nước; báo chí là công cụ đấu tranh xã hội, đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp. Đây là mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ, đồng thời là môi trường phát triển của báo chí nước nhà. Với những tờ báo lớn của báo chí cách mạng Việt Nam, các thể loại chính luận như bài phản ánh, bài bình luận, xã luận, tiểu luận, phê bình và giới thiệu tác phẩm, điểm báo… chiếm số lượng nhiều nhất và giữ vị trí quan trọng nhất tạo nên linh hồn của tờ báo. Trong đó, xã luận là thể loại điển hình. Xã luận là một loại hình thuộc phong cách chính luận, đặc biệt phổ biến trong các tờ báo chí có tính chính trị cao. Trong luận văn này, chúng tôi chọn các bài xã luận trong một tờ báo có tính chính trị cao nhất của Việt Nam hiện nay là báo Nhân Dân với thời điểm phát hành hạn chế ở năm 1975. Trong suốt những năm chiến tranh, đặc biệt là năm 1975, xã luận đã phát huy một cách tối đa tác dụng của mình trong việc truyển tải thông tin thời sự, những chủ trương đường lối của Đảng, đồng thời cổ vũ động viên, lôi cuốn nhân dân thực hiện những phương hướng ấy để hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, khắc phục hậu quả chiến tranh và xây dựng đất nước. Dường như mỗi một bài xã luận đã trở thành kim chỉ nam, định hướng tư 9 tưởng, suy nghĩ, hành động, tình cảm của cả dân tộc lúc bấy giờ với một mục đích cao nhất là độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Để có thể tạo ra những hiệu ứng mạnh mẽ, to lớn như vậy đòi hỏi mỗi bài xã luận phải là một tác phẩm chính luận mẫu mực, nội dung rõ ràng, lập luận sắc bén, ngôn từ trong sáng, giản dị nhưng vẫn đầy tính nghệ thuật… Nói cách khác, xã luận phải tác động được tới người tiếp nhận cả về mặt lí trí lẫn tình cảm thì mới có thể thuyết phục được họ nghe và làm theo những gì mà Đảng đã đặt ra. Chỉ khi ấy, một bài xã luận mới làm tròn sứ mệnh của mình, đồng nghĩa tiếng nói của Đảng đã đến được với nhân dân và tạo nên sự đồng thuận giữa nhân dân với Đảng. Với mục đích nhìn rõ những đặc điểm cơ bản, trong đó tập trung chủ yếu vào hai chức năng chính là liên giao và liên nhân của diễn ngôn xã luận, chúng tôi sẽ áp dụng lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của phân tích diễn ngôn. Có thể xem đây là một phương thức để đánh giá một cách khách quan, toàn diện nhất về nhiệm vụ, chức năng, vai trò, hiệu quả tác động của thể loại này. 1.2. Lƣợc sử vấn đề Phân tích diễn ngôn trên thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay vẫn còn là một ngành khoa học rất mới mẻ và đang trong quá trình phấn đấu để được thừa nhận là một ngành khoa học độc lập. Ra đời từ khoảng những năm 60 của thế kỷ trước, theo Diệp Quang Ban, cho đến nay Phân tích diễn ngôn đã phát triển qua 3 giai đoạn với những tên gọi khác nhau phản ánh những nhận thức, xu hướng nghiên cứu khác nhau ở mỗi thời kỳ. - Giai đoạn 1, phân tích diễn ngôn có tên gọi là “Ngôn ngữ học văn bản” (Text Linguistics), bắt đầu hình thành từ những năm 60 và kéo dài tới giữa những năm 70 thế kỷ XX, lấy văn bản mà cụ thể là văn bản viết làm đối tượng nghiên cứu. Ở giai đoạn này, phân tích diễn ngôn hay ngôn ngữ học văn bản tập trung chú ý tới cấu tạo ngôn ngữ lớn hơn câu, nên xuất hiện những tên gọi 10 khác như: “cú pháp văn bản” (Dressler,1972), “ngữ pháp liên câu” (Enkvist, 1973), “chỉnh thể cú pháp trên câu” (một số nhà nghiên cứu Nga, vào những năm 80). Khi nghiên cứu văn bản, các nhà nghiên cứu chủ yếu thao tác với “liên kết”. Người ta đã thấy ở Liên Xô cũ, Anh hay Việt Nam đã có một loạt các công trình nghiên cứu theo xu hướng này như: “Liên kết – Cohension” (Halliday và Hasan, 1976), “Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt” của Trần Ngọc Thêm (1985)... Tên gọi “văn bản” và “diễn ngôn” thời kỳ này cũng chưa được đặt thành vấn đề nên tên gọi “ngữ pháp văn bản” được sử dụng rộng rãi. Người đầu tiên đề cập và đưa ra cái tên gọi Phân tích diễn ngôn là Z. Harris vào năm 1952. Người thứ hai được biết đến nhiều hơn trong lĩnh vực này là T.F.Michell. Còn người có công truyền bá phân tích diễn ngôn trên bình diện thế giới là Van Dijk [2, tr.148-156]. Tuy nhiên, giai đoạn này, các nhà ngôn ngữ học vẫn chưa xác định được chính xác, rõ ràng đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của phân tích diễn ngôn. Điều này thể hiện ở chỗ: bậc ngôn ngữ và bậc diễn ngôn vẫn chưa được phân biệt một cách rạch ròi, những gì được sử dụng làm lí luận, phương pháp nghiên cứu cho phân tích diễn ngôn vẫn là lí luận, phương pháp của nghiên cứu câu... Như vậy, thực chất giai đoạn này vẫn là giai đoạn tìm đường để tiếp cận phân tích diễn ngôn. - Giai đoạn 2 của phân tích diễn ngôn là vào những năm 80-90 thế kỷ XX. Sau khi việc áp dụng các phương pháp và phương tiện nghiên cứu câu vào nghiên cứu văn bản không thành công, nghiên cứu diễn ngôn đã chính thức thoát ra khỏi “ngữ pháp văn bản”. Một vấn đề đặt ra lúc này là cần có một cái tên mới cho nghiên cứu diễn ngôn trong giai đoạn tiếp theo. Có hai cái tên được đề xuất là “xuyên ngôn ngữ học - translinguistque” theo cách dùng của Barthes (1970) và “ngôn ngữ học văn bản tính – textuallity linguistic” theo cách dùng của De Beaugrande (1990). Tuy nhiên, tên gọi “phân tích diễn ngôn” vẫn được nhiều người dùng làm nhan đề cho các công 11 trình nghiên cứu của họ, không kể tên các bài viết, chỉ kể tên sách với tên gọi trực tiếp có thể kể ra một vài ví dụ như: “Towards an Analysis of Discourse: The English Used by Teachers and Pupils” của Sinclair, J. McH. And Coulthard, R.M. (1975); “An Introduction to Discourse Analysis” của Coulthard, M; “Discourse Analysis: The Sociolinguistic Analysis of Natural Language” của Stubb, M (1983) và “Discourse Analysis” của Brown. G and Yule. G (1983). Trong số các công trình đã công bố giai đoạn này, có thể nói công trình nghiên cứu của của Brown and Yule là đáng chú ý nhất với phạm vi bao quát, phương pháp nghiên cứu cụ thể. Và cũng từ đây, tên gọi “phân tích diễn ngôn” được thừa nhận một cách rộng rãi như tên gọi chính thức cho giai đoạn tiếp theo của giai đoạn “ngữ pháp văn bản”. Phân tích diễn ngôn thời kỳ này có rất nhiều đường hướng tiếp cận khác nhau như: đường hướng dụng học với hai nhánh chính là dựa trên lí thuyết hành động nói (Austin, Sir) và dựa trên tư tưởng triết học của Grice về phân biệt các loại ý nghĩa khác nhau; đường hướng ngôn ngữ học xã hội tương tác; đường hướng dân tộc học giao tiếp... Tất cả các đường hướng trên đều có mục tiêu là phân tích diễn ngôn để làm rõ những mối quan hệ của nội dung câu nói và hoàn cảnh sử dụng ngôn ngữ để tạo ra những cách diễn đạt đúng và đạt hiệu quả giao tiếp cao, hoặc làm bộc lộ các ý sâu chứa đựng trong văn bản khép kín. Điều này có nghĩa là ngôn ngữ học văn bản giai đoạn này nghiên cứu cả văn bản viết và văn bản nói (diễn ngôn). - Giai đoạn 3, chính là giai đoạn hiện nay, phân tích diễn ngôn phát triển hết sức mạnh mẽ và đang cố gắng để được công nhận là một ngành khoa học thực sự. Đối tượng nghiện cứu chính của phân tích diễn ngôn là diễn ngôn, tức là hướng nhiều hơn tới ngôn ngữ tồn tại ở dạng nói. Nhưng thực tế hiện nay người ta sử dụng khái niệm diễn ngôn để chỉ sản phẩm ngôn ngữ tồn tại dưới cả 2 dạng âm thanh (văn bản nói) và chữ viết (văn bản viết). Như vậy, phân tích diễn ngôn thực chất là giai đoạn phát triển thứ 3 của ngôn ngữ học văn bản. Và đối tượng nghiên cứu của nó thiên về văn bản nói 12 – ngôn ngữ trong sử dụng, trong hành chức hơn là văn bản viết – ngôn ngữ tồn tại ở dạng tĩnh. Ở Việt Nam, từ thập niên 80 của thế kỉ XX cho đến nay cũng có rất nhiều tác giả quan tâm tới phân tích diễn ngôn như: Đỗ Hữu Châu (1985), Trần Ngọc Thêm (1985), Diệp Quang Ban (2002), Nguyễn Hòa (2003). Các tác giả trên đã đề cập đến những vấn đề như chiếu vật, chỉ xuất, lý thuyết hành động ngôn từ, lý thuyết hội thoại, ý nghĩa tường minh và ý nghĩa hàm ngôn... 1.3. Một số khái niệm liên quan 1.3.1. Khái niệm “diễn ngôn” Diễn ngôn là đối tượng của phân tích diễn ngôn thế nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa nào được coi là hoàn chỉnh nhất cho khái niệm này. Với mỗi giai đoạn phát triển của phân tích diễn ngôn, với mỗi nhà nghiên cứu khác nhau tùy thuộc vào việc xác định đối tượng, mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, góc độ tiếp cận... mà xây dựng hay lựa chọn cho mình một định nghĩa có tính chất để làm việc. Xét từ góc độ lịch sử vấn đề, người đầu tiên đề xuất khái niệm “diễn ngôn” là Z. Harris. Trong công trình “Discourse analisio – Phân tích diễn ngôn” xuất bản năm 1952, ông đã đưa ra khái niệm diễn ngôn với cách hiểu là văn bản liên kết ở cấp độ cao hơn câu [17, tr.15]. Mặc dù phân tích diễn ngôn của Z. Harris thời đó rất khác với phân tích diễn ngôn giai đoạn hiện nay về quan điểm và phương pháp nghiên cứu nhưng dẫu sao ông cũng là một trong những người đầu tiên đặt những viên gạch tạo nền móng cho sự phát triển của ngành ngôn ngữ học non trẻ này về sau. Liên quan mật thiết với khái niệm diễn ngôn (discourse) là khái niệm văn bản (text). Thực tế trong quá trình nghiên cứu các nhà ngôn ngữ học đã tốn không ít thời gian, công sức để hiểu về hai khái niệm cơ bản này tuy nhiên kết quả đưa ra vẫn có nhiều điểm không giống nhau. Có khi chúng được hiểu là hai khái niệm có thể được dùng để thay thế cho nhau; có khi 13 chúng là hai thực thể có cấu trúc xác định thuộc hai quá trình khác nhau; hay cũng có khi, đơn giản chỉ là phân biệt nhau ở phạm vi sử dụng diễn ngôn là tên gọi mang tính khoa học còn văn bản là tên gọi mang tính chất đời thường... Chúng tôi có thể điểm qua một số ý kiến nổi bật về sự phân biệt hai khái niệm trên và từ đó cũng giúp cho chúng ta có cái nhìn rõ hơn về diễn ngôn. Ở thời kỳ đầu, các tác giả như Barthes (1970), Ballert (1971), Halliday và Hassan đều có chung quan niệm diễn ngôn trùng với văn bản. Chúng tôi xin dẫn ra đây ý kiến của Halliday và Hassan làm minh chứng: “văn bản có thể là bất kỳ một đơn vị nào, nói hay viết, dù dài hay ngắn tạo nên một chỉnh thể thống nhất hoàn chỉnh”. Bên cạnh những nhà nghiên cứu có quan niệm trên là những người cố gắng để phân biệt diễn ngôn với văn bản. Ví dụ như: Brown.G và Yule.G (1983) coi: “Văn bản là sự thể hiện ngôn từ của một hành động giao tiếp” hay “văn bản là sự thể hiện của diễn ngôn”. Khi xử lí, diễn ngôn như là “sản phẩm” hay “tiến trình”, thì các tác giả khẳng định “diễn ngôn – như – một tiến trình”; Cook (1989) định nghĩa: “Văn bản là một chuỗi ngôn ngữ lí giải được ở mặt hình thức, bên ngoài ngữ cảnh” và “Diễn ngôn là những chuỗi ngôn ngữ được nhận biết là trọn nghĩa, được hợp nhất lại và có mục đích”. Tác giả đã xác định sự khác nhau giữa diễn ngôn và văn bản dựa trên sự đối lập giữa nội dung và hình thức. Diễn ngôn thể hiện tính chức năng của ngôn ngữ trong khi văn bản thể hiện mặt hình thức của ngôn ngữ hành chức; David Nunan (1993) cho rằng “Diễn ngôn chỉ việc hiểu một sự kiện giao tiếp trong ngữ cảnh” còn văn bản để chỉ “sự ghi lại (thể hiện) bằng ngôn ngữ viết một sự kiện giao tiếp”. [2, tr.203-211] Ở Việt Nam, các tác giả nghiên cứu về phân tích diễn ngôn cũng đã rất tích cực đưa ra quan điểm của mình về diễn ngôn và văn bản. Và một kết quả tất yếu là cũng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. 14 Năm 2008, trong công trình “Giáo trình ngôn ngữ học”, tác giả Nguyễn Thiện Giáp viết: “Diễn ngôn (discourse) là bất cứ một ngôn phẩm nói hoặc viết nào. Và theo ông hai khái niệm này coi như đồng nhất, có thể thay thế cho nhau. Ngược lại với quan điểm trên là quan điểm của Nguyễn Hòa, một tác giả đã dành khá nhiều sự quan tâm cho phân tích diễn ngôn trong thời gian gần đây. Tác giả thể hiện rõ quan điểm cần phải phân biệt rạch ròi hai khái niệm “diễn ngôn” và “văn bản”: “Văn bản như là sản phẩm ngôn ngữ ghi nhận lại quá trình giao tiếp hay sự kiện giao tiếp nói và viết trong một hoàn cảnh giao tiếp xã hội cụ thể”, còn “Diễn ngôn như là sự kiện hay quá trình giao tiếp hoàn chỉnh thống nhất có mục đích, không giới hạn được sử dụng trong các hoàn cảnh giao tiếp xã hội cụ thể”. Trong cách định nghĩa trên, Nguyễn Hòa đã cho thấy, diễn ngôn và văn bản được phân biệt nhau ở góc độ sản phẩm/ quá trình nhưng tác giả cũng thừa nhận chúng không phải là hai thực thể độc lập, hoàn toàn tách biệt nhau mà chỉ là những biểu hiện khác nhau của ngôn ngữ hành chức trong những điều kiện ngữ cảnh giao tiếp cụ thể. Trên thực tế để phân biệt một cách rạch ròi hai khái niệm này là vô cùng khó khăn. Bởi trong diễn ngôn tồn tại những đặc trưng, thuộc tính của văn bản và ngược lại. Chính vì vậy, việc sử dụng khái niệm nào là phụ thuộc vào góc độ, mục đích tiếp cận của nhà nghiên cứu. Dung hòa hai quan niệm trên là tác giả Diệp Quang Ban. Trong các công trình nghiên cứu của mình, ông đã chỉ ra các giai đoạn trong nhận thức về mối quan hệ của hai khái niệm này: Một là, văn bản được dùng để chỉ chung các sản phẩm của ngôn ngữ (product) viết và nói có mạch lạc và liên kết; Hai là, có sự đối lập giữa diễn ngôn và văn bản: sử dụng văn bản để chỉ sản phẩm ngôn ngữ viết và diễn ngôn để chỉ sản phẩm của ngôn ngữ nói; Ba là, diễn ngôn được dùng như văn bản ở ý nghĩa trong giai đoạn một. Bên cạnh đó, tác giả đã nhận thấy sự khó khăn trong việc phân biệt rạch ròi hai khái 15 niệm này nên việc thể hiện ra cũng rất khiêm tốn. Ông đã dựa vào một định nghĩa văn bản có sẵn và đưa ra cách hiểu về văn bản như sau: “Văn bản là một loại đơn vị được hình thành từ một khúc đoạn lời nói hay lời viết, hoặc lớn hoặc nhỏ, có cấu trúc, có đề tài..., như một truyện kể, một bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đường...”, đồng thời cũng nói rõ định nghĩa này có thể dùng chung cho cả diễn ngôn khi chưa cần có sự phân biệt. Như vậy là theo cách hiểu này, văn bản và diễn ngôn là những chỉnh thể có cấu trúc xác định, nội dung hoàn chỉnh tồn tại dưới cả hai dạng nói hoặc viết. Trên đây, chúng tôi đã điểm lại những quan niệm nổi bật về diễn ngôn nói riêng cũng như diễn ngôn trong mối quan hệ với văn bản nói chung. Một điều dễ nhận thấy là trong mỗi quan điểm đều có những nhân tố hợp lí dù ở góc độ này hay góc độ khác. Dù vậy, trong luận văn này, để tiện cho quá trình nghiên cứu, chúng tôi lựa chọn cho mình định nghĩa diễn ngôn của tác giả Diệp Quang Ban. Lựa chọn này mang tính chất để làm việc chứ không nhằm mục đích bác bỏ những định nghĩa khác. 1.3.2. Khái niệm “phân tích diễn ngôn” Ở phần này, chúng tôi sẽ tiếp tục đề cập đến khái niệm “phân tích diễn ngôn” trên cơ sở khái niệm “diễn ngôn” như đã trình bày mục trên. Harris (1952) là người đầu tiên nói về phương pháp phân tích diễn ngôn áp dụng cho các chuỗi câu liên kết, coi phân tích diễn ngôn như là một hệ phương pháp hình thức phân tích văn bản thành các đơn vị nhỏ hơn.[17, tr.26]. Đồng thời ông cũng rất chú ý tới việc đối lập giữa các tập hợp câu là diễn ngôn với cái gọi là một tập hợp ngẫu nhiên không có tính mạch lạc. Theo sau Harris - một đại biểu của đường hướng cấu trúc luận trong phân tích diễn ngôn, các nhà nghiên cứu theo đường hướng chức năng luận cũng thể hiện quan điểm của mình về phân tích diễn ngôn. Fasold (1990) nói “nghiên cứu diễn ngôn là nghiên cứu mọi khía cạnh sử dụng của ngôn ngữ”; Brown.G và Yule.G, hai tác giả tiêu biểu coi “diễn ngôn như là một quá 16 trình” cho rằng: Phân tích diễn ngôn nhất thiết là sự phân tích ngôn ngữ hành chức. Nhà phân tích diễn ngôn, vì thế, quan tâm đến chức năng hay mục đích của một mẫu dữ liệu ngôn ngữ và cách thức dữ liệu đó được người phát cũng như người nhận xử lí [5, tr.49]. Nói một cách cụ thể hơn, nhà nghiên cứu cần tìm hiểu xem, nội dung thông điệp được thể hiện bằng chất liệu ngôn ngữ đã được người nói/viết tạo ra theo cách thức nào để đạt được mục đích, ý đồ tác động của mình tới người tiếp nhận trong bối cảnh giao tiếp thực tế, xác định… và đồng thời, nội dung thông điệp đó được người nghe/đọc tiếp nhận theo cách nào, với tâm lí ra sao… Từ việc mô tả đó mới khái quát lên thành những quy tắc trong ngôn ngữ mà người giao tiếp đã sử dụng để đạt được mục đích, ý đồ giao tiếp. Đồng quan điểm với hai tác giả trên, David Nunan (1998) cũng đã phân biệt phân tích văn bản và phân tích diễn ngôn. Phân tích văn bản là xem xét các đặc điểm nội dung và hình thức của văn bản tách rời ngữ cảnh ngoài ngôn ngữ, còn phân tích diễn ngôn sẽ quan tâm tới mặt chức năng tức là liên quan đến việc nghiên cứu ngôn ngữ trong quá trình sử dụng (ngôn ngữ hành chức). Ông chỉ rõ giống như các nhà ngữ âm học, ngữ pháp học, nhà phân tích diễn ngôn cũng cần quan tâm đến việc nhận diện những cái đều đặn và những cái khuôn mẫu trong ngôn ngữ. Tuy nhiên, không chỉ có vậy, nhà phân tích diễn ngôn còn phải thực hiện một nhiệm vụ quan trọng hơn cả là đạt đến mục đích cuối cùng của công việc phân tích: vừa chỉ ra, vừa giải thuyết mối quan hệ giữa những cái đều đặn đó với những ý nghĩa và những mục đích được diễn đạt qua diễn ngôn. Ở Việt Nam, Đỗ Hữu Châu là một trong những người đầu tiên và nghiên cứu khá nhiều về dụng học. Tác giả này cũng đã thể hiện quan niệm của mình như sau: Phân tích diễn ngôn là phân tích cả những yếu tố hình thức của diễn ngôn, bao gồm các yếu tố ngôn ngữ, các đơn vị từ vựng, các quy tắc kết học, các hành vi ngôn ngữ tạo nên diễn ngôn. Các yếu tố kèm lời, phi lời 17 cũng được xem là các yếu tố thuộc về hình thức của diễn ngôn. Về nội dung, nhà nghiên cứu cho rằng diễn ngôn bao gồm nội dung thông tin và nội dung miêu tả. Hai thành tố nội dung này có thể hiện tường minh qua các yếu tố ngôn ngữ hình thức của diễn ngôn, hoặc cũng có thể tồn tại một cách khiếm diện trong đích giao tiếp của đối phương. Như vậy, theo Đỗ Hữu Châu, phân tích diễn ngôn đầy đủ là phải phân tích cả hai mặt nội dung và hình thức của diễn ngôn. Bên cạnh đó, Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn “Giáo trình ngôn ngữ học” cũng đã dành một số trang viết để nói về phân tích diễn ngôn. Theo ông, phân tích diễn ngôn (discourse analysis) là một cách tiếp cận việc nghiên cứu diễn ngôn dựa trên những khái niệm và thuật ngữ của ngữ pháp truyền thống. Phân tích diễn ngôn có nhiệm vụ phân tích bằng một bộ phức hợp khái niệm và thuật ngữ ngữ pháp quen thuộc với bất kỳ nhà nghiên cứu ngữ pháp nào và cố gắng nhận ra xem những khái niệm đó cần thiết trong sự cấu trúc diễn ngôn như thế nào. Phân tích diễn ngôn cố gắng mở rộng sự phân tích cấu trúc câu đến đơn vị lớn hơn câu, nó thường bắt đầu bằng sự cố gắng nhận diện những đơn vị tối thiểu của ngôn ngữ, sau đó, tìm kiếm những quy luật chi phối những đơn vị tối thiểu đó cùng nhau kết hợp thành chuỗi để tạo nên diễn ngôn như thế nào. [12, tr.441-442] Trong cuốn “Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo của văn bản” của Diệp Quang Ban có trình bày: “Phân tích diễn ngôn là đường hướng tiếp cận tài liệu ngôn ngữ nói và viết bậc trên câu (diễn ngôn/ văn bản) từ tính đa diện hiện thực của nó, bao gồm các mặt ngôn từ và ngữ cảnh tình huống, với các mặt hữu quan thể hiện trong khái niệm ngôn vực (register) mà nội dung hết sức phong phú và đa dạng (gồm các hiện tượng thuộc thể loại và phong cách chức năng, phong cách cá nhân, cho đến các hiện tượng xã hội, văn hóa, dân tộc)” [2, tr.158]. Như vậy, định nghĩa này chú trọng tới ba yếu tố đối tượng khảo sát (tài liệu ngôn ngữ nói và viết bậc trên câu), đối tượng nghiên cứu 18 (tính đa diện hiện thực của tài liệu ngôn ngữ khảo sát) và phương pháp tiếp cận là phương pháp phân tích (phân tích ngôn ngữ trong sử dụng). Với tác giả Nguyễn Hòa, phân tích diễn ngôn và phân tích văn bản không phải là hai bộ môn khác nhau mà chỉ là “hai mặt của phân tích ngôn ngữ hành chức trong hoàn cảnh giao tiếp xã hội.” Còn theo quan điểm của chúng tôi như đã trình bày ở mục 1.3.1, không coi diễn ngôn và văn bản là hai khái niệm đồng nhất nên phân tích diễn ngôn cũng sẽ khác với phân tích văn bản. Bởi vì, phân tích diễn ngôn ngoài phần giao với phân tích văn bản là tìm hiểu về cấu trúc nội tại, chủ đề, liên kết… của sản phẩm ngôn ngữ còn phải quan tâm tới nhiều thông số khác như ngữ cảnh, mối quan hệ giữa người tạo lập và tiếp nhận, hiệu quả tác động… của sản phẩm ngôn ngữ ấy. Nói một cách ngắn ngọn, phân tích diễn ngôn không chỉ phân tích những đặc điểm liên giao tiếp mà còn để phân tích những đặc điểm liên nhân của đối tượng nghiên cứu. 1.3.3. Diễn ngôn thuộc phong cách chính luận trong mối quan hệ với các thể loại diễn ngôn khác Các thể loại diễn ngôn hết sức đa dạng. Để hiểu hơn về đối tượng ngôn ngữ này, các nhà nghiên cứu đã tiến hành phân loại chúng. Có nhiều cách phân loại theo những tiêu chí khác nhau như theo phương thức biểu đạt, thể thức cấu tạo, theo mức độ phức tạp về hình thức và nội dung. Chức năng làm công cụ giao tiếp là chức năng quan trọng nhất của ngôn ngữ. Khi thực hiện chức năng này, thích ứng với mỗi lĩnh vực và mục đích giao tiếp cụ thể, ngôn ngữ tồn tại theo một kiểu diễn đạt nhất định. Mỗi kiểu diễn đạt đó được gọi là phong cách chức năng ngôn ngữ. Có nhiều quan điểm khác nhau về phân loại diễn ngôn. Nếu dựa vào phương thức biểu đạt, có thể phân chia thành diễn ngôn nói và diễn ngôn viết. Sự phân biệt này đã được nêu lên từ lâu và có tầm quan trọng nhất định đối với quan điểm sư phạm như việc dạy đọc, dạy viết, dạy nói. Một hướng phân 19 loại khái quát khác là phân biệt diễn ngôn đối thoại với diễn ngôn đơn thoại. Cách phân loại này liên quan đến việc nghiên cứu ngôn ngữ trong sinh hoạt hằng ngày và cả ngôn ngữ trong văn học. Tuy nhiên, theo tác giả Hausenblas [32, tr.175] thì muốn có sự phân loại có hệ thống và thoả đáng thì phải cần đến sự hợp tác của cả hai bộ phận cùng quan tâm đến việc miêu tả ngôn ngữ. Đó là ngữ pháp và phong cách học. Từ đó, tác giả đưa ra các cách phân loại diễn ngôn như sau: a) Phân loại diễn ngôn theo cấu trúc * Phân loại diễn ngôn theo cấu trúc nội tại: Dựa vào những tiêu chuẩn: tính đơn giản/tính phức tạp trong cấu trúc của các diễn ngôn, tính độc lập/ tính lệ thuộc của các diễn ngôn, tính liên tục/ tính gián đoạn của các diễn ngôn, tác giả tiến hành phân loại các diễn ngôn: - Các diễn ngôn có độ phức tạp khác nhau trong cấu trúc - Các diễn ngôn tự do và các diễn ngôn lệ thuộc - Diễn ngôn liên tục và diễn ngôn gián đoạn Cách phân loại này đến nay vẫn còn giá trị thực tiễn đối với việc dạy học ở nhà trường. Bởi cách phân loại này gợi ý về một số hướng dạy và rèn luyện học sinh tạo lập diễn ngôn, sự phân bố các bộ phận trong diễn ngôn, dạy học sinh cách đọc… * Về khuôn hình văn bản: Do tính chất quá phức tạp của diễn ngôn và tính quá đa dạng của các diễn ngôn cụ thể, cho nên để khái quát được người ta chỉ có thể chia tất cả các diễn ngôn thành hai nhóm lớn: - Thuộc nhóm thứ nhất là các diễn ngôn xây dựng theo những khuôn hình cứng nhắc, đã được định sẵn: các văn bản thuộc phong cách hành chính công vụ và một số văn bản pháp lý thuộc lĩnh vực khoa học - kỹ thuật. - Thuộc nhóm thứ hai là các diễn ngôn xây dựng theo những khuôn hình mềm dẻo, bao gồm: 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan