Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ PHÂN LOẠI TÀI SẢN TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM...

Tài liệu PHÂN LOẠI TÀI SẢN TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

.PDF
13
215
110

Mô tả:

PHÂN LOẠI TÀI SẢN TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
khoa luËt C«ng tr×nh ®-îc hoµn thµnh t¹i Khoa LuËt - §¹i häc Quèc gia Hµ Néi bïi thÞ nga Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Tuấn ®¹i häc quèc gia hµ néi PHÂN LOẠI TÀI SẢN TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số Phản biện 1: Phản biện 2: : 60 38 30 Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. tãm t¾t luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012. hµ néi - 2012 1 2 2.1.3. 2.1.4. 2.2. MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1.1. 1.1.1. 1.1.2. 1.1.3. 1.2. 1.2.1. 1.2.2. 1.3. 1.3.1. 1.3.2. 1.3.3. Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI SẢN Khái niệm tài sản Sơ lược về khái niệm tài sản Tài sản trong ngôn ngữ pháp lý Ý nghĩa của khái niệm tài sản Sự hình thành và phát triển của khái niệm tài sản Nguồn gốc hình thành và phát triển của khái niệm tài sản Sự hình thành và phát triển của khái niệm tài sản tại Việt Nam Phân loại tài sản Căn cứ vào chủ sở hữu tài sản, tài sản được chia thành tài sản công, tài sản chung và tài sản tư Dựa vào đặc tính vật lý (có thể di dời được hay không) và giá trị của tài sản, tài sản được chia thành động sản và bất động sản Dựa vào phương thức chiếm hữu (kiểm soát thực tế, kiểm soát hành vi các chủ thể, có thể cảm nhận, nắm bắt được hay không) tài sản được phân loại thành tài sản vô hình và tài sản hữu hình Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ 1 5 5 5 6 8 10 10 11 14 15 18 23 2.2.1. 2.2.1.1. 2.2.1.2. 2.2.1.3. 2.2.1.4. 2.2.2. Giấy tờ có giá Quyền tài sản Dựa vào đặc tính vật lý (có thể di dời được) và công dụng của tài sản, Bộ luật Dân sự 2005 chia tài sản thành động sản và bất động sản Bất động sản Đất đai Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó Những tài sản khác gắn liền với đất Các loại tài sản khác do pháp luật quy định Động sản Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH Phân loại tài sản theo hình thức tồn tại Vật Tiền 3 43 44 45 45 46 47 52 PHÁP LUẬT VỀ TÀI SẢN, PHÂN LOẠI TÀI SẢN VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN 3.1. 3.1.1. 3.1.2. 3.2. 3.3. Những hạn chế của khái niệm tài sản, quyền tài sản (Điều 163 và Điều 181) Hạn chế của khái niệm tài sản (Điều 163) Hạn chế của khái niệm quyền tài sản (Điều 181) Những hạn chế trong quy định về các loại tài sản (Điều 174 đến Điều 181 Bộ luật Dân sự 2005) Phương hướng hoàn thiện các quy định về tài sản và phân loại tài sản của Bộ luật Dân sự 2005 52 KẾT LUẬN 74 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 26 TÀI SẢN, PHÂN LOẠI TÀI SẢN 2.1. 2.1.1. 2.1.2. 39 41 43 26 27 37 4 53 60 66 70 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Luật dân sự có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ nhân thân và các quan hệ tài sản. Do đó tài sản là một trong những phạm trù, khái niệm gốc của luật dân sự. Nghiên cứu về tài sản và phân loại tài sản có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng, xây dựng các chế định khác của luật dân sự: chế định về sở hữu, thừa kế, hợp đồng… Trong đời sống, tài sản cũng nắm giữ vị trí không thể thay thế, nó luôn là lợi ích mà các chủ thể hướng tới khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh doanh, thương mại. Chính vì vậy, hoàn thiện khái niệm tài sản và phân loại tài sản là một yêu cầu cần thiết. So với Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005 mặc dù đã có những thay đổi theo hướng tiến bộ và phù hợp hơn với thực tế đời sống song vẫn không tránh khỏi những bất cập gây ảnh hưởng không nhỏ đến giao lưu dân sự của các cá nhân, tổ chức. Đồng thời nó cũng gây ra những hạn chế nhất định trong việc tiếp thu và hội nhập với luật dân sự của các quốc gia khác trên thế giới. Trong rất nhiều các buổi tọa đàm về định hướng sửa đổi Bộ luật Dân sự 2005, các ý kiến đều cho rằng phải cải cách và sửa đổi về cơ bản và tổng thể sao cho Bộ luật Dân sự sửa đổi không chỉ tồn tại trên dưới mười năm như Bộ luật Dân sự năm 1995 và 2005 mà còn có thể tồn tại trên dưới một trăm năm như các Bộ luật Dân sự của các nước Nhật Bản, Pháp, Đức. Để đạt được điều đó Bộ luật Dân sự phải không những đáp ứng được các yêu cầu hiện tại mà còn phải dự báo và điều chỉnh được các tình huống, khả năng phát sinh trong tương lai. Hoàn thiện Bộ luật Dân sự 2005 đồng nghĩa với việc hoàn thiện những khái niệm phạm trù cốt lõi của luật dân sự - trong đó có khái niệm tài sản và phân loại tài sản. Với ý nghĩa đó, tôi quyết định chọn đề tài "Phân loại tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam" làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Tình hình nghiên cứu tạp chí. Có thể kể đến: Sách chuyên khảo của TS. Nguyễn Ngọc Điện: "Nghiên cứu về tài sản trong luật dân sự Việt Nam", năm 1999; TS. Ngô Huy Cương: "Những bất cập về khái niệm tài sản, phân loại tài sản của Bộ luật Dân sự và định hướng cải cách"; Nguyễn Minh Oanh: "Các loại tài sản trong luật dân sự Việt Nam", Tạp chí Luật học, số 1/2009; TS. Phùng Trung Tập có bài viết: "Sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số điều trong Bộ luật Dân sự quy định về tài sản và quyền sở hữu", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 4/2004…. Các công trình, bài viết kể trên đều nghiên cứu về khái niệm tài sản dưới các góc độ khác nhau. Sách chuyên khảo của TS. Nguyễn Ngọc Điện được viết từ trước khi Bộ luật Dân sự 2005 ra đời, đi sâu về mặt lý luận. Trong khi các bài viết còn lại thì phân tích quy định của pháp luật thực định - cụ thể là Bộ luật Dân sự 2005 về tài sản và quyền sở hữu. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại chưa có tác giả nào nghiên cứu một cách toàn diện đầy đủ về tài sản dưới góc độ phân loại tài sản. Hơn nữa hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về khái niệm tài sản chỉ tập trung phân tích về mặt lý luận mà thiếu các tình huống thực tế. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Về mục đích: Luận văn nghiên cứu, đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật thực định - cụ thể là Bộ luật Dân sự 2005 về khái niệm tài sản và phân loại tài sản. Về nhiệm vụ: Phù hợp với mục đích trên, luận văn thực hiện ba nhiệm vụ chính sau: - Tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển của khái niệm tài sản và phân loại tài sản trên thế giới, trong mỗi hệ thống pháp luật và ở nhiều quốc gia khác nhau. - Phân tích sự hình thành phát triển của khái niệm tài sản, phân loại tài sản tại Việt Nam. Đánh giá, so sánh những điểm tương đồng khác biệt trong Tài sản là khái niệm gốc của pháp luật dân sự. Do đó, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về tài sản trong các công trình khoa học, các bài viết trên các việc xây dựng khái niệm tài sản, phân loại tài sản của pháp luật dân sự Việt 5 6 Nam so với pháp luật dân sự thế giới. - Chỉ ra các điểm hạn chế và hướng sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các quy định liên quan đến tài sản và phân loại tài sản của pháp luật dân sự Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về phân loại tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam. Về phạm vi nghiên cứu: Các quy định của pháp luật thực định, cụ thể là Bộ luật Dân sự 2005. Ngoài ra, luận văn có tìm hiểu, nghiên cứu các quy định của luật dân sự một số nước: Pháp, Nhật Bản, Thái Lan, Nga. 5. Phương pháp nghiên cứu Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về tài sản. Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về tài sản, phân loại tài sản. Chương 3: Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về tài sản, phân loại tài sản và hướng hoàn thiện. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI SẢN 1.1 Khái niệm tài sản Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu có nền tảng là chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác - Lênin. Các phương pháp kể đến là: phân tích tình huống, so sánh, tổng hợp, đánh giá…để làm rõ các phần nội dung nghiên cứu. 6. Những điểm mới của luận văn - Nghiên cứu một cách có hệ thống về sự hình thành phát triển của khái niệm tài sản, phân loại tài sản trong pháp luật dân sự thế giới nói chung và pháp luật dân sự Việt Nam nói riêng. - Đánh giá thực trạng áp dụng các quy định về tài sản, phân loại tài sản của Bộ luật Dân sự 2005 từ đó chỉ ra các ưu điểm và nhược điểm của các quy định này. - Kiến nghị các giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định về tài sản và phân loại tài sản của Bộ luật Dân sự 2005. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho quá trình nghiên cứu lý luận, thực tiễn của các sinh viên ngành Luật. Đồng thời những giải pháp luận văn đưa ra là gợi ý trong việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về tài sản và quyền sở hữu trong lần sửa đổi tới đây. 1.1.1. Sơ lược về khái niệm tài sản Tài sản là một khái niệm quen thuộc được sử dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong các lĩnh vực khoa học chuyên ngành như kinh tế, pháp lý, kế toán tài chính, tài sản cũng là khái niệm cơ bản và được nghiên cứu hết sức kỹ lưỡng dưới các góc độ khác nhau. Theo đó, tài sản thường được hiểu là những đối tượng phải mang lại lợi ích nào đó với con người và có thể định giá được thành tiền. Trong ngôn ngữ thông thường, tài sản được hiểu đơn giản và mộc mạc là những vật phục vụ cho đời sống con người. Chúng ta có thể cảm nhận được sự tồn tại của tài sản thông qua các giác quan, có thể nhìn, nắm bắt và sử dụng được. Điều này khẳng định tài sản là vật có thực, hữu hình hoặc có thể được hữu hình hóa. 1.1.2. Tài sản trong ngôn ngữ pháp lý Trong ngôn ngữ pháp lý tài sản là của cải được con người sử dụng. Của cải luôn gắn liền với thuộc tính giá trị và không ngừng biến đổi để hoàn thiện. Chính vì vậy khái niệm tài sản trong khoa học pháp lý không phải là một khái niệm bất biến. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Trong khoa học pháp lý vật chỉ trở thành tài sản khi được đưa vào trong giao lưu dân sự và xác định sở hữu của một cá nhân đối với vật đó. Vật thuộc sở hữu của một người đồng nghĩa với việc người đó có thể chiếm hữu, sử dụng, định đoạt vật đó, chống lại sự tác động hay áp đặt quyền của những 7 8 8. Kết cấu của luận văn người khác lên vật. Ngôn ngữ thông dụng nhìn nhận tài sản là những vật có thể được nhận biết bằng các giác quan - đồng nghĩa tài sản phải hữu hình hoặc có thể được hữu hình hóa. Nhưng trong ngôn ngữ pháp lý - tài sản không nhất thiết phải hữu hình mà có thể vô hình. trong Luật La Mã. Luật La Mã phân chia tài sản thành vật chất liệu và tài sản phi chất liệu (các quyền tài sản). Các quyền này lại được chia thành các quyền thiết lập trên vật chất liệu và các quyền có giá trị kinh tế đối với người khác. Quyền thiết lập trên vật chất liệu thì được chia thành động sản và bất động sản. Tài sản là một khái niệm động vì vậy rất khó để đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về tài sản. Hầu hết pháp luật các quốc gia đều định nghĩa tài sản bằng cách kết hợp hai yếu tố tài sản là vật và quyền tài sản. Có thể đưa ra một khái niệm mang tính tương đối về tài sản như sau: Tài sản là các lợi ích vật chất mà con người chiếm hữu được nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng, kinh doanh của cá nhân, của doanh nghiệp. Khái niệm tài sản xuất hiện lần đầu tiên trong Luật La Mã và được pháp luật các nước châu Âu sau này kế thừa và phát triển. Trong pháp luật của hầu hết các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa và hệ thống pháp luật Anh - Mỹ, tài sản đều được định nghĩa dựa trên phân loại. Luật Dân sự Cộng hòa Pháp chia tài sản thành động sản và bất động sản. Bộ luật Dân sự của Tiểu bang Louisiana (Mỹ) tại Điều 448 viết: “Tài sản được phân chia thành tài sản chung, tài sản công và tài sản tư; tài sản hữu hình và tài sản vô hình; động sản và bất động sản”. Tại châu Á, khoa học pháp lý phát triển chậm hơn nhưng cũng kế thừa và tiếp thu những tinh hoa của pháp luật La Mã và châu Âu. Bộ luật Dân sự Thái Lan định nghĩa: “Tài sản bao gồm những vật cũng như các đối tượng không cụ thể có thể có một giá trị và có thể chiếm dụng được”. 1.1.3. Ý nghĩa của khái niệm tài sản Tài sản được sử dụng để đáp ứng mọi nhu cầu trong sản xuất, sinh hoạt của con người, do đó nó trở thành khách thể trung tâm, quan trọng của mọi quan hệ xã hội. Xây dựng khái niệm tài sản là vấn đề cần thiết và mang những ý nghĩa quan trọng: Thứ nhất: Tài sản là khái niệm cơ bản làm nền tảng xây dựng các khái niệm khác của luật dân sự và các phân ngành khác của luật dân sự như luật chứng khoán, luật thương mại, luật sở hữu trí tuệ. Từ chế định tài sản hình thành chế định về sở hữu, quyền sở hữu trí tuệ và các chế định khác. Thứ hai: Trên cơ sở khái niệm tài sản sẽ xác định những vật chất nào là đối tượng của giao lưu dân sự, từ đó xây dựng quy chế điều chỉnh các giao dịch đảm bảo lợi ích của các chủ thể trong quan hệ đó. Như vậy, bằng cách này hay cách khác, luật dân sự các quốc gia đều đã đưa ra quan điểm về khái niệm tài sản. Mặc dù có những điểm khác biệt, nhưng các quan điểm này đều gặp nhau ở chỗ coi tài sản là khách thể quan trọng của quyền dân sự, là đối tượng của quyền sở hữu và phải mang giá trị đối với con người. 1.2.2. Sự hình thành và phát triển khái niệm tài sản tại Việt Nam Khái niệm tài sản có một lịch sử hình thành và phát triển khá lâu dài. Trong ngôn ngữ thông dụng tài sản được hình thành từ khi xuất hiện tư hữu. Còn trong khoa học pháp lý khái niệm tài sản được biết đến lần đầu tiên Đến giai đoạn cận đại, khái niệm tài sản, động sản, bất động sản mới xuất hiện trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam. Bắt đầu từ thời điểm thực dân Pháp nổ súng xâm lược (1858) và áp đặt ách đô hộ lên Việt Nam (1858-1945), cùng với những biến đổi sâu sắc về mặt xã hội, nội dung pháp luật cũng đã chịu những ảnh hưởng không nhỏ từ hệ thống pháp luật Pháp. Theo đó, tài sản được chia thành động sản và bất động sản. Bất động sản được phân chia theo tính chất, theo mục đích và theo quyền sử dụng (Điều 450, 452, 453 Dân luật Bắc Kỳ và Điều 461, 462, 464 Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật). Động sản được chia thành động sản theo tính chất và động sản do pháp luật quy định (Điều 454 Dân Luật Bắc Kỳ và Điều 466, 469 Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật). Năm 1945 9 10 Thứ ba: Tùy từng loại tài sản, pháp luật dự liệu và thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp với các phương thức thực hiện và bảo vệ quyền dân sự. 1.2. Sự hình thành và phát triển của khái niệm tài sản. 1.2.1. Nguồn gốc hình thành và phát triển của khái niệm tài sản Cách mạng tháng Tám thành công, Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Ngay sau khi ra đời, Nhà nước đã ban hành một loạt các văn bản pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực dân sự, các quy định về tài sản và quyền sở hữu cũng được xây dựng lại cho phù hợp giai đoạn mới. Trong các giai đoạn tiếp theo 1945-1954; 1954-1975; 1975-1995, khái niệm tài sản gần như không có thay đổi hay nội dung mới cho đến khi xuất hiện Bộ luật Dân sự 1995. Theo Bộ luật này, tài sản được chia thành vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được thành tiền và các quyền tài sản tại Điều 172 và thành động sản và bất động sản tại Điều 181. Đến Bộ luật Dân sự 2005, khái niệm tài sản tiếp tục được thay đổi để khắc phục những nhược điểm của Bộ luật Dân sự 2005 và cho phù hợp hơn với thực tế. Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Điều 174 chia tài sản thành động sản và bất động sản. Như vậy, từ chỗ chỉ là một khái niệm ngoại nhập, sao chép máy móc Bộ luật Napoleong của Pháp, khái niệm tài sản đã dần dần phát triển cho phù hợp với thực tế và dễ hiểu với số đông người Việt Nam. 1.3. Phân loại tài sản Phân loại tài sản có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng quy chế pháp lý điều chỉnh các giao dịch liên quan đến tài sản. Hơn nữa, chỉ qua phân loại mới có thể hiểu rõ khái niệm tài sản. Các hệ thống pháp luật lớn trên thế giới đều kế thừa và phát triển một cách có chọn lọc cách phân loại tài sản của Luật La Mã. Theo đó, trên thế giới hiện tại có một số cách phân loại tài sản truyền thống sau đây. 1.3.1. Căn cứ vào chủ sở hữu tài sản, tài sản được chia thành tài sản công, tài sản tư và tài sản chung Nhắc đến tài sản không thể không nhắc đến vấn đề sở hữu, bởi tài sản là đối tượng của quyền sở hữu. Sở dĩ, có sự phân biệt tài sản thành tài sản công, tài sản tư, và tài sản chung là để khẳng định vai trò của chủ sở hữu đối với mỗi loại tài sản. Tài sản công là những tài sản có giá trị lớn (tài sản của nhà nước, của quốc gia), do nhà nước đại diện chủ sở hữu quản lý, khai thác phục vụ cho lợi ích cộng đồng, dân tộc. Tài sản chung là những tài sản thuộc quyền sở hữu 11 của ít nhất hai chủ thể. Tài sản riêng là tài sản thuộc quyền sở hữu của một chủ thể duy nhất. Căn cứ xác lập quyền sở hữu, phạm vi quyền của chủ sở hữu… có sự khác biệt lớn giữa tài sản công với các loại tài sản khác. Quy chế quản lý, sử dụng tài sản công được quy định chi tiết, chặt chẽ trong hệ thống các văn bản pháp luật. Ngược lại, quy chế pháp lý dành cho tài sản chung và tài sản tư thường chỉ dựa trên những quy định mang tính hành lang, khuôn mẫu trên nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận và tự định đoạt của các bên chủ thể. 1.3.2. Dựa vào đặc tính vật lý (có thể di dời được hay không) và giá trị của tài sản, tài sản được chia thành động sản và bất động sản Phân loại tài sản thành động sản và bất động sản được áp dụng ở hầu hết pháp luật các quốc gia và đều thống nhất ở chỗ coi bất động sản gồm đất đai và những tài sản gắn liền với đất đai. Sự khác nhau có chăng chỉ ở quan điểm về cái gọi là “tài sản gắn liền với đất đai”, dẫn tới việc xuất hiện một số đối tượng khó xác định là động sản hay bất động sản (nằm trong khu vực giáp ranh của hai khái niệm). Về cơ bản động sản và bất động sản được phân biệt với nhau dựa trên thuộc tính vật lý. Tuy nhiên, luật dân sự một số quốc gia còn sử dụng thêm tiêu chí giá trị của tài sản để phân biệt giữa động sản và bất động sản. Phân biệt tài sản thành động sản và bất động sản có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng quy chế pháp lý điều chỉnh các giao dịch dân sự liên quan và việc áp dụng pháp luật trên thực tế: - Do đặc tính vật lý không di dời được, các quy định áp dụng đối với bất động sản thường chi tiết, cụ thể và phức tạp hơn với động sản. - Phân biệt động sản và bất động sản còn có ý nghĩa trong việc xác định quyền sở hữu tài sản theo thời hiệu, cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh, hay xây dựng hệ thống đăng ký tài sản. 1.3.3. Dựa vào phương thức chiếm hữu (kiểm soát thực tế, kiểm soát hành vi các chủ thể, có thể cảm nhận, nắm bắt được hay không) tài sản được phân loại thành tài sản vô hình và tài sản hữu hình Tài sản hữu hình khác tài sản vô hình ở đặc điểm “vật chất”. Tài sản hữu hình là tài sản con người có thể cảm nhận được bằng các giác quan, có 12 thể nắm bắt được trên thực tế và kiểm soát được hành vi của bản thân đối với chúng. Ngược lại với tài sản hữu hình, tài sản vô hình không thể cảm nhận được bằng các giác quan, do đó không thể kiểm soát bằng hành vi chiếm hữu trên thực tế. Tài sản vô hình thường được hình thành trên một tài sản hữu hình gọi là quyền tài sản hoặc là sản phẩm của các hoạt động sáng tạo như tài sản sở hữu trí tuệ. Cách thức chứng minh quyền sở hữu đối với tài sản vô hình rất phức tạp, thông thường cần có sự công nhận của một chủ thể thứ ba mà đại diện tiêu biểu là nhà nước. Pháp luật các quốc gia đều quy định thời gian bảo hộ quyền sở hữu tài sản vô hình dài hơn nhiều lần so với tài sản hữu hình do những đặc điểm khác biệt về quyền chủ thể giữa hai tài sản này: - Về quyền chiếm hữu: Chỉ tồn tại khái niệm quyền chiếm hữu với tài sản hữu hình, với tài sản vô hình thì không tồn tại quyền chiếm hữu. - Về quyền sử dụng: Với tài sản hữu hình, chỉ khi có sự chiếm hữu thực tế, chủ thể mới có thể thực hiện quyền sử dụng. Ngược lại, với tài sản vô hình, do đặc điểm phi vật chất nên cùng một thời điểm nhiều chủ thể có thể trực tiếp khai thác mà không cần hành vi chiếm hữu. 2.1.1. Vật Vật là một khái niệm để chỉ các đối tượng tồn tại hiện hữu dưới dạng vật chất có thể cảm nhận được bằng các giác quan và được giới hạn, quy định bằng hình dáng, kích thước, màu sắc. Vật dưới góc độ vật lý học có thể là bất kỳ đối tượng nào của thế giới vật chất được hữu hình hóa. Nhưng vật chỉ trở thành tài sản khi nó mang một giá trị và có thể trở thành đối tượng trong giao lưu dân sự. Bộ luật Dân sự 2005 phân loại vật dựa trên các tiêu chí sau: Thứ nhất: Dựa trên phương thức có được tài sản. Điều 175 phân biệt vật thành hoa lợi và lợi tức. Hoa lợi là sản vật mà tự bản thân tài sản sinh ra không phụ thuộc vào tác động từ phía con người. Lợi tức là các khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản. Tự bản thân tài sản không thể sinh ra lợi tức nếu không có hành vi khai thác, sử dụng của chủ sở hữu.Việc phân loại tài sản thành tài sản gốc, hoa lợi, lợi tức có ý nghĩa trong việc xác định quyền của người sử dụng, chiếm hữu tài sản nhưng không phải là chủ sở hữu. Thứ hai: Căn cứ vào vị trí, vai trò và giá trị của vật. Điều 176 chia vật thành vật chính và vật phụ. Vật chính là vật độc lập, Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TÀI SẢN, PHÂN LOẠI TÀI SẢN có thể khai thác công dụng theo tính năng. Vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật chính, là một bộ phận của vật chính, Khái niệm tài sản du nhập vào Việt Nam thông qua pháp luật Pháp và được hoàn thiện dần theo thời gian cho phù hợp với văn hóa pháp lý và số nhưng có thể tách rời vật chính. Việc phân biệt vật chính và vật phụ có ý nghĩa xác định nghĩa vụ chuyển giao tài sản. Theo đó, khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật chính thì đương nhiên phải chuyển giao cả vật phụ mà không cần có thêm sự thỏa thuận nào khác. đông dân cư Việt Nam. Các quy định về phân loại tài sản trong pháp luật Thứ ba: Căn cứ vào tính chất, thuộc tính tồn tại bền vững của vật. thực định Việt Nam (cụ thể là Bộ luật Dân sự 2005) có sự tiếp thu, chọn lọc và kết hợp các cách phân loại khác nhau của pháp luật thế giới. Theo đó, tài sản được phân loại theo hình thức tồn tại và thuộc tính vật lý. Điều 178 chia vật thành vật tiêu hao và vật không tiêu hao. Vật tiêu hao Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. là vật khi đã qua một lần sử dụng thì mất đi hoặc không giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu. Vật tiêu hao không thể là đối tượng của hợp đồng cho thuê hoặc hợp đồng cho mượn. Vật không tiêu hao là vật khi đã qua sử dụng nhiều lần mà cơ bản vẫn giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu. Vật tiêu hao chỉ có thể là đối tượng của giao dịch 13 14 2.1. Phân loại tài sản theo hình thức tồn tại mua bán, tặng cho mà không thể là đối tượng của hợp đồng cho thuê, cho mượn. Cũng có trường hợp vật tiêu hao trở thành đối tượng của hợp đồng cho vay. Nhưng khi người đi vay thực hiện nghĩa vụ hoàn trả không nhất thiết phải trả chính vật đã vay mà thường là hoàn trả vật cùng loại có cùng tính chất. Thứ tư: Căn cứ và hình dáng, tính chất, tính năng sử dụng của vật. Điều 179 chia vật thành vật cùng loại và vật đặc định. Vật cùng loại là những vật có cùng hình dáng, tính chất, tính năng sử dụng và xác định được bằng những đơn vị đo lường. Vật đặc định là vật phân biệt được với các vật khác bằng những đặc điểm riêng về ký hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí… Phân biệt vật thành vật cùng loại và vật đặc định có ý nghĩa trong việc xác định nghĩa vụ chuyển giao vật, thời điểm chuyển quyền sở hữu trong các giao dịch mua bán, cho thuê, cho mượn. Một vật đặc định khi cần được chuyển giao thì phải được chuyển giao đúng vật đó, còn đối với vật cùng loại chỉ cần được chuyển giao đủ và đúng loại. Ngoài ra, việc bù trừ nghĩa vụ về tài sản giữa các chủ thể có nghĩa vụ với nhau lại chỉ có thể được thực hiện đối với nghĩa vụ có đối tượng tài sản là vật cùng loại. Thứ năm: Vật đồng bộ. Điều 180 xây dựng khái niệm vật đồng bộ là vật gồm các bộ phận ăn khớp, liên hệ với nhau hợp thành chỉnh thể mà nếu thiếu một trong các phần, các bộ phận hoặc có phần hoặc bộ phận không đúng quy cách, chủng loại thì không sử dụng được hoặc giá trị sử dụng của vật đó bị giảm sút. Xây dựng khái niệm vật đồng bộ có ý nghĩa trong việc xác định nghĩa vụ chuyển giao vật trong giao dịch dân sự. Theo đó, khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật đồng bộ thì phải chuyển giao toàn bộ các phần hoặc bộ phận hợp thành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp một bên vi phạm nghĩa vụ chuyển giao vật đồng bộ thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. giai đoạn phát triển lâu dài từ hình thái tồn tại đầu tiên là những thỏi kim loại do các gia đình tự đúc lấy làm phương tiện thanh toán trong xã hội La Mã cổ đến hình thái tồn tại là giấy, polime do nhà nước độc quyền phát hành trong xã hội hiện đại. Tiền là một loại tài sản có giá trị đặc biệt và là vật trao đổi trung gian trong các giao dịch dân sự và thương mại, do đó nó chức năng cơ bản và quan trọng nhất là chức năng thanh toán. Bên cạnh đó người ta cũng nhắc đến các chức năng định giá, bảo toàn giá trị như là những chức năng không thể thiếu của tiền. Trong luật dân sự Việt Nam, tiền được xem là một loại tài sản và có những đặc điểm khác với vật: - Đối với vật thì người ta có thể khai thác công dụng hữu ích từ chính vật đó nhưng đối với tiền thì không thể khai thác công dụng do tiền bản thân không có công dụng hữu ích nào. Tiền chỉ được sử dụng như một phương tiện trao đổi của con người. Do đó khái niệm “quyền sử dụng” chỉ được áp dụng phần nào với tiền và không thể hoàn chỉnh, trọn vẹn như đối với vật. - Việc chuyển giao tiền bao giờ cũng kèm theo việc chuyển giao quyền sở hữu trừ trường hợp các bên đặc định hóa tiền. Trong khi đó việc chuyển giao vật không đồng nghĩa với việc chuyển giao quyền sở hữu nhất là đối những vật có giá trị lớn, pháp luật yêu cầu phải đăng ký quyền sở hữu. - Vật có thể được tạo ra bởi bất kỳ một chủ thể nào trong xã hội nhưng tiền chỉ có thể được tạo ra bởi chủ thể duy nhất là nhà nước. - Chủ sở hữu vật có toàn quyền tiêu hủy đối với vật nhưng lại không có quyền tiêu hủy tiền thuộc sở hữu của mình. 2.1.3. Giấy tờ có giá Giấy tờ có giá dưới góc độ pháp lý được định nghĩa là: Chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét trong mối quan hệ pháp lý với các chủ thể khác. Tiền được sử dụng hàng ngày trong đời sống sinh hoạt, lao động và sản xuất của con người. Để trở nên phổ biến như ngày nay nó đã trải qua một Giấy tờ có giá được chia làm hai loại: giấy tờ có giá như tiền và giấy tờ có giá khác. Giấy tờ có giá mang một số điểm khác biệt cơ bản về chủ thể phát hành, mệnh giá, thời hạn sử dụng, quyền định đoạt của chủ thể... Giấy tờ có giá có thể do nhiều loại chủ thể khác nhau phát hành như nhà nước, 15 16 2.1.2. Tiền kho bạc, ngân hàng, công ty cổ phần…Mệnh giá, thời gian sử dụng của giấy tờ có giá cũng do chủ thể phát hành quy định trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Do tính hữu ích và tiện lợi, giấy tờ có giá ngày càng được sử dụng nhiều trong giao lưu dân sự và thương mại nhất là trong giao dịch của hệ hữu, khai thác, sử dụng thì đất trở nên có giá trị…và trở thành một loại tài sản quan trọng trong giao lưu dân sự, đầu tư, thương mại. thống các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Quy chế pháp lý áp dụng với loại tài sản này cũng được xây dựng chi tiết trong các văn bản pháp luật chuyên ngành liên quan đến lĩnh vực ngân hàng. Những tài sản được liệt kê tại Điểm b Khoản 1 Điều 174 Bộ luật Dân sự 2005 đều có đặc điểm gắn liền với đất về mặt vật lý và không dễ dàng di dời được. Tức là chúng phải được xây dựng cố định trên đất và phục vụ cho mục đích khai thác sử dụng lâu dài. Các tài sản khác gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng là bất động sản như hệ thống điện, nước…đây là những tài sản công dụng gắn liền với bất động sản là nhà, công trình xây dựng nếu thiếu chúng thì nhà, công trình xây dựng không khai thác được bình thường. 2.1.4. Quyền tài sản Khác với các loại tài sản khác, quyền tài sản không có thuộc tính vật chất nghĩa là chúng vô hình về mặt hình thức. Quan điểm của các hệ thống pháp luật lớn trên thế giới đều coi quyền tài sản là một loại quyền chủ thể, có thể định giá được thành tiền. Tuy nhiên, pháp luật dân sự Việt Nam quy định quyền tài sản ngoài đặc điểm định giá được thành tiền thì phải chuyển giao được trong giao dịch dân sự (Điều 181). Các quyền tài sản cũng được gián tiếp quy định tại Điều 322 gồm: quyền chuyển giao tài sản, quyền đòi nợ, quyền sử dụng đất, quyền liên quan đến sở hữu trí tuệ… Đặc điểm chung của các quyền này là vô hình về mặt hình thức nhưng đều có thể được chứng minh sự tồn tại thông qua chứng cứ hữu hình. Nhìn chung quyền tài sản có nhiều dạng khác nhau nhưng đều được hiểu là xử sự hợp pháp, là quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể mang quyền và luôn được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. 2.2. Dựa vào đặc tính vật lý (có thể di dời được) và công dụng của tài sản, Bộ luật dân sự 2005 chia tài sản thành động sản và bất động sản 2.2.1. Bất động sản 2.2.1.1. Đất đai 2.2.1.2. Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà; công trình xây dựng đó 2.2.1.3. Những tài sản khác gắn liền với đất Thuộc nhóm đối tượng này phải kể đến các loại tài nguyên thiên nhiên khoáng sản nằm trong lòng đất: than, dầu khí, vàng bạc… Khi được sinh ra từ đất, nằm trong đất, gắn liền với đất và chưa được khai thác đến thì các loại tài nguyên thiên nhiên này là bất động sản. Nhưng nếu đã được khai thác và vận chuyển ra khỏi khuôn viên của mảnh đất, chúng lại trở thành động sản và chịu sự điều chỉnh của quy chế pháp lý dành cho động sản. 2.2.1.4. Các loại tài sản khác do pháp luật quy định Căn cứ vào thuộc tính tự nhiên: sinh ra từ đất, hoặc gắn liền với đất Bộ luật Dân sự 2005 liệt kê một số đối tượng được coi là bất động sản. Để có thể bao quát và dự liệu khả năng xuất hiện các loại bất động sản mới trong tương lai, Bộ luật đưa ra quy định: “các loại tài sản khác do pháp luật quy định”. Ở Việt Nam hiện chưa có văn bản pháp luật nào quy định danh mục các bất động sản khác mà Điểm d Khoản 1 Điều 174 đề cập đến. Đây cũng là một điểm bất cập của Bộ luật Dân sự 2005 2.2.2. Động sản Đất đai là bộ phận cấu thành lãnh thổ, thuộc chủ quyền quốc gia vì vậy không thể là đối tượng của giao dịch dân sự. Pháp luật của các nước đều ngầm hiểu rằng đất đai ở đây chỉ là một mảnh đất được giới hạn bởi diện tích, chiều dài, chiều rộng, chiều cao. Khi con người thực hiện hành vi chiếm Nhìn chung pháp luật các quốc gia đều ghi nhận động sản là những tài sản có thể di dời được và không gắn liền với đất đai hoặc phục vụ cho việc khai thác đất đai. Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 thì sử dụng phương pháp 17 18 loại trừ để quy định: “Động sản là những tài sản không phải là bất động sản” tại Khoản 2 Điều 174. Động sản là nhóm tài sản có số lượng lớn và là đối tượng của hầu hết các giao dịch dân sự. Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đã xuất hiện nhiều đối tượng động sản có giá trị lớn: cổ phiếu, chứng khoán, tài sản trí tuệ… Các đối tượng này cần phải có quy chế điều chỉnh thích hợp, phân biệt với các loại động sản thông thường khác. Phân biệt tài sản thành động sản và bất động sản có ý nghĩa trong việc: - Thiết lập quy chế pháp lý đặc thù đối với mỗi loại tài sản - Xây dựng các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với người thứ ba - Xây dựng các quy định về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. 3.1.1. Bất cập của khái niệm tài sản (Điều 163) Tài sản được xác định gồm vật, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài sản. Tuy nhiên trên thực tế đã xuất hiện những đối tượng không thuộc bốn nhóm đối tượng được liệt kê trên đây, và từ đó phát sinh tranh cãi những đối tượng này có được xem là tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 hay không và nếu là tài sản thì xếp chúng vào loại nào? Các đối tượng đó bao gồm: Thứ nhất: Ngoại tệ. Ngoại tệ được hiểu là tiền nước ngoài lưu thông trên lãnh thổ Việt Nam. Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển của kinh tế, thị trường ngoại tệ hoạt động ngày càng sôi động dưới sự cho phép, kiểm tra, giám sát của hệ thống pháp luật và các cơ quan quản lý nhà nước. Ngoại tệ là một loại hàng hóa đặc biệt, mang tính chất tài sản rất rõ - Thiết lập các quy định về việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình. ràng. Tuy nhiên căn cứ vào quy định về tài sản của Bộ luật Dân sự 2005, - Xây dựng các quy định luật hình thức (luật tố tụng). ngoại tệ không phải là vật, giấy tờ có giá, hay quyền tài sản vì nó không có các đặc điểm của ba nhóm tài sản này. Còn nếu xếp ngoại tệ là tiền thì xem Chương 3 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TÀI SẢN, PHÂN LOẠI TÀI SẢN VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN ra cũng không hợp lý vì ngoại tệ thiếu một trong ba chức năng quan trọng nhất của tiền là: chức năng công cụ thanh toán đa năng trong lãnh thổ Việt Nam. Chính việc không thể xếp ngoại tệ vào bất kỳ nhóm tài sản nào cho thấy việc định nghĩa khái niệm tài sản theo phương pháp liệt kê trên đây là 3.1. Những hạn chế của khái niệm tài sản, quyền tài sản (Điều 163 và Điều 181) quá hạn hẹp, không thể bao quát hết các nhóm đối tượng được coi là tài sản. Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 phân loại tài sản dựa trên hình thức tồn tại thành bốn nhóm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Nhưng trong chương diễn giải các loại tài sản - Chương XI, các nhà làm luật lại bỏ qua, không nhắc gì đến tiền và giấy tờ có giá - hai trong bốn nhóm tài sản quan trọng kể trên. Đây là một lỗ hổng của Bộ luật Dân sự 2005 vì tiền và giấy tờ có giá là hai trong số những tài sản quan trọng mang những đặc thù riêng về khía cạnh pháp lý lẫn kinh tế so với các loại tài sản khác nên cần được ghi nhận cụ thể và rõ ràng trong các quy định của luật dân sự cho tương xứng với các loại tài sản khác. miền, địa chỉ email, các đối tượng trong game online. Giao dịch trong thế 19 20 Thứ hai: Tài sản ảo. Đây là các đối tượng trong thế giới ảo gồm tên giới ảo hiện đang diễn ra hết sức sôi động và đã phát sinh những tranh chấp điển hình. Một số quốc gia trên thế giới như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc thừa nhận và bảo hộ loại tài sản đặc biệt này. Tại Việt Nam, căn cứ quy định về tài sản của Bộ luật Dân sự 2005, thì tài sản ảo không được bảo hộ như các tài sản thông thường khác do nó không phải là vật, tiền, giấy tờ có giá hay quyền tài sản. Nhiều ý kiến cho rằng bảo hộ tài sản ảo là cần thiết do tài sản ảo là khách thể của quyền sở hữu, được hình thành bằng con đường hợp pháp và bản chất cũng có các đặc điểm như các tài sản thông thường khác. Việc luật không ghi nhận không làm mất đi bản chất của loại tài sản này và cũng không làm hạn chế đi các giao dịch liên quan đến chúng. Khi có giao dịch sẽ phát sinh tranh chấp. Tranh chấp nếu không được pháp Thứ nhất: Theo quan điểm của Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện việc các nhà lập pháp xây dựng quyền tài sản đối lập với vật khiến Việt Nam không có điều kiện tiếp cận khái niệm quyền đối vật và quyền đối nhân của Luật La Mã. luật giải quyết thì các bên bắt buộc phải tìm đến các phương pháp giải quyết Thứ hai: Định nghĩa quyền tài sản gồm hai đặc điểm phải định giá tranh chấp khác ngoài pháp luật. Ví dụ: các quy định, nội quy do các nhà được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự đã loại bỏ một số cung cấp game ban hành. Nhưng các quy định này thông thường chỉ bảo vệ quyền có tính chất tài sản như quyền cấp dưỡng, quyền hưởng trợ cấp thất quyền lợi cho nhà cung cấp game, hạn chế và thậm chí là rũ bỏ trách nhiệm nghiệp… ra khỏi phạm vi tài sản mặc dù tính chất tài sản của các quyền này đối với người chơi. Và cuối cùng những chủ thể lẽ ra phải được bảo vệ nhiều là rất rõ ràng. nhất thì lại không thể đòi lại quyền lợi của mình chỉ vì thiếu các quy định Thứ ba: Khái niệm quyền tài sản (Điều 181) đã tạo ra những rào cản trong của pháp luật. Đây chính là lỗ hổng của luật cần phải được xem xét bổ sung, thực tế áp dụng pháp luật, ảnh hưởng không nhỏ tới quyền và lợi ích của các bắt đầu từ chính việc quan niệm lại về tài sản. bên tham gia giao dịch liên quan đến một số các quyền mang tính chất tài Thứ ba: Mô, bộ phận cơ thể người. Theo các công ước quốc tế và về nguyên tắc thì mô, bộ phận cơ thể người không phải là hàng hóa và không có sản: quyền mua nhà, đất tái định cư; quyền mua cổ phần, cổ phiếu ưu đãi… tính chất thương mại. Tuy nhiên, pháp luật của một số nước trong đó có Mỹ Các tranh chấp liên quan đến quyền mua nhà, đất tái định cư xảy ra nhiều và thường xuyên nhất trong số các tranh chấp liên quan đến quyền tài cho rằng mô, bộ phận cơ thể người là tài sản. Khi cá nhân cho đi bộ phận cơ sản nhưng không được phép giao dịch. Quyền mua nhà, đất tái định cư là thể người họ có quyền nhận lại những giá trị vật chất nhất định. Theo quy quyền của người dân có đất bị nhà nước thu hồi để thực hiện các dự án phát định của pháp luật dân sự Việt Nam thì các nhóm đối tượng này không phải là tài sản (do không phải là vật, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền hay các triển. Quyền này có bản chất của một giao dịch dân sự - trao đổi tương đương, ngang giá giữa người dân và nhà nước (nhà nước thu hồi nhà, đất của quyền tài sản). Mặc dù bị pháp luật cấm nhưng các giao dịch mua bán ngầm dân và đền bù bằng một lợi ích hợp pháp khác). Theo quy định của pháp luật bộ phận cơ thể người vẫn diễn ra và ngày càng có xu hướng gia tăng dưới hiện hành, quyền này không được tự do chuyển nhượng nên nếu xảy ra tranh hình thức giả tạo là hiến, tặng. Điều này đã tạo nên những bất cập và ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của các bên giao dịch nhất là bên “bán”. Do đó chấp xung quanh các giao dịch trao đổi, mua bán, tòa án đều xử theo hướng hợp đồng vô hiệu do hình thức hoặc do vi phạm quy định của pháp luật. nhìn nhận các đối tượng này là tài sản hay không hiện cũng đang là vấn đến Điều này đã tạo ra những bản án bất công, ảnh hưởng đến quyền lợi của các gây nhiều tranh cãi trong giới luật học. bên tham gia giao dịch. 3.1.2. Bất cập trong việc xây dựng khái niệm quyền tài sản Vẫn liên quan đến Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005, nhà làm luật đặt quyền tài sản đối lập với vật hữu hình như là một dạng tài sản độc lập, và nhấn mạnh thêm tại Điều 181: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Định nghĩa quyền tài sản của Bộ luật Dân sự 2005 có những bất cập sau: 21 3.2. Những hạn chế trong quy định về các loại tài sản (từ Điều 174 đến Điều 181) Các quy định về phân loại tài sản được Bộ luật Dân sự 2005 thể hiện tại Chương XI - Các loại tài sản (từ Điều 174 đến Điều 181). Trong đó chỉ có Điều 174 phân biệt động sản và bất động sản, Điều 181 định nghĩa quyền tài sản, các điều luật còn lại tập trung phân loại vật - một trong bốn loại tài sản 22 được phân chia theo tiêu chí thứ nhất (tài sản gồm vật, tiền, giấy tờ có giá bằng tiền và các quyền tài sản). Về mặt cấu trúc, việc cơ cấu điều luật theo và điều chỉnh lại theo hướng ghi nhận các quyền phát sinh từ đất đai đều là bất động sản. hướng tập trung phân loại, quy định một nhóm đối tượng tài sản cụ thể là 3.3. Phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về tài sản và “vật” như trên không hợp lý. Về mặt nội dung, các quy định tại Chương XI phân loại tài sản của Bộ luật Dân sự cũng đã bộc lộ những bất cập sau: Từ những phân tích ở Mục 3.1 và 3.2 có thể thấy, khái niệm tài sản và phân loại tài sản trong Bộ luật dân sự 2005 còn nhiều bất cập. Chính từ - Về phương pháp phân loại: Phân loại tài sản thành bất động sản và động sản là một trong hai cách phân loại tài sản kinh điển có thể gặp ở bất kỳ hệ thống pháp luật nào bên cạnh cách chia tài sản thành tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Có điều, khi tiếp thu để xây dựng khái niệm động sản và bất động sản trong pháp luật Việt Nam, các nhà làm luật đã không lựa chọn tiêu chí để phân biệt mà sử dụng phương pháp loại trừ - cách thức có vẻ đơn giản và dễ hiểu nhưng lại gây ra những bất cập về mặt thực tiễn. Trên thực tế đã phát sinh nhiều trường hợp không thể phân biệt được một tài sản là động sản hay bất động sản nếu chỉ dựa vào phương pháp phân biệt trên. Động sản là những tài sản không phải bất động sản. Bất động sản ngoài các đối tượng được liệt kê tại Khoản 1 Điều 174 ( Điểm a, b, c) còn bao gồm các tài sản khác do pháp luật quy định. Tuy nhiên danh sách “những bất động sản khác do pháp luật quy định” hiện vẫn còn bỏ ngỏ, chưa được quy định ở bất kỳ một văn bản nào. - Về mặt nội dung: Trong danh sách bất động sản mà Bộ luật Dân sự 2005 liệt kê không thấy có quyền tài sản. Có thể hiểu nhà làm luật quan niệm chỉ vật mới là động sản hay bất động sản. Quyền tài sản đứng đối lập với vật và quyền tài sản chỉ là động sản. Từ đây có thể thấy tất cả các quyền phát sinh từ đất đai mà tiêu biểu nhất là quyền sử dụng đất đều không được coi là bất động sản. Dẫn chiếu tới các quy định về quyền sở hữu đất đai tại Việt Nam: Luật đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản dễ dàng nhận thấy mâu thuẫn bởi các quy định liên quan đến sở hữu về bất động sản đều được xây dựng trên quyền sử dụng đất chứ không phải quyền sở hữu đất. Việc quy định không thống nhất giữa luật dân sự (luật gốc) và các luật chuyên ngành khác là một trong những hạn chế cần được khắc phục. Trong trường hợp này quy định về bất động sản của Bộ luật Dân sự 2005 cần được xem xét 23 những bất cập trên và với mong muốn hoàn thiện hơn nữa khái niệm và cách phân loại tài sản, cần xây dựng lại khái niệm tài sản theo các hướng sau: Thứ nhất: Không nên xây dựng khái niệm tài sản bằng phương pháp liệt kê. Phương pháp này không chỉ ra được phạm vi dứt khoát của tài sản, dẫn đến những tranh cãi trong việc xác định một số đối tượng có phải là tài sản hay không hoặc không thể xác định đối tượng thuộc nhóm tài sản nào mặc dù tính chất tài sản của nó rất rõ ràng .Vì vậy nên xây dựng khái niệm tài sản bằng cách khái quát hóa những đặc điểm cần có của tài sản: Tài sản là các lợi ích vật chất mà con người có thể sở hữu được nhắm đáp ứng được các yêu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, kinh doanh của cá nhân doanh nghiệp. Thứ hai: Định nghĩa quyền tài sản tại Điều 181 đã loại bỏ rất nhiều quyền có tính chất tài sản ra khỏi phạm vi của quyền tài sản. Do đó chỉ nên quy định quyền tài sản là những quyền trị giá được bằng tiền mà không nhất thiết phải chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Bởi việc có thể chuyển giao được trong giao lưu dân sự hay không còn phụ thuộc vào các quy định của pháp luật ở mỗi giai đoạn khác nhau. Ngược lại tính chất định giá được bằng tiền của một quyền tài sản là tính cố hữu và không thay đổi qua các thời kỳ khác nhau. Thứ ba: Bộ luật Dân sự 2005 đã bỏ qua các quyền phát sinh từ bất động sản trong danh sách các bất động sản được liệt kê. Đây là một lỗ hổng rất lớn bởi lẽ tại Việt Nam các quy định liên quan đến sở hữu bất động sản đều được xây dựng trên quyền sử dụng đất chứ không phải quyền sở hữu đất. Do đó luật dân sự Việt Nam nên tiếp thu luật dân sự Pháp xem các quyền và dịch quyền phát sinh từ bất động sản đều là động sản. 24 Thứ tư: Cần có sự đánh giá trong việc có nên thừa nhận tài sản ảo là tài sản hay không. Đồng thời xây dựng quy chế pháp lý điều chỉnh phù hợp đối với nhóm đối tượng này, nhằm hướng tới việc hình thành và phát triển thị trường tài sản ảo lành mạnh. Thứ năm: Khái niệm tài sản và phân loại tài sản được quy định tại Điều 163 và Chương XI gồm 8 điều (từ Điều 174 đến Điều 181). Sự sắp xếp điều luật về cơ bản là không hợp lý. Vì trong các điều luật kể trên không thấy quy định nào liên quan đến tiền và giấy tờ có giá - một trong bốn loại tài sản quan trọng theo quy định tại Điều 163. Do đó, cần bổ sung thêm các quy định về hai đối tượng này trong phần Các loại tài sản. Thứ sáu: Nhà làm luật Việt Nam nên tham khảo một trong các tiêu chí phân biệt vật thành vật sở hữu được và vật không sở hữu được. Tài sản và quyền sở hữu là hai phạm trù không thể tách rời nhau. Một vật chỉ có thể trở thành tài sản trong giao lưu dân sự khi vật đó có thể thuộc sở hữu của một chủ thể nhất định. Phân biệt theo tiêu chí này, những vật không thể sở hữu đồng nghĩa vật đó là của chung của mọi người: không khí, ánh nắng mặt trời, nước…. Việc phân biệt vật thành vật có thể sở hữu và vật không thể sở hữu là căn cứ xây dựng quy chế pháp lý với của chung, và vật vô chủ nhất là các quy định liên quan đến việc xác lập quyền sở hữu tại Mục I Chương XIV Bộ Luật Dân sự 2005. KẾT LUẬN nhiên, bảy năm lại là một quãng thời gian quá ngắn để sửa đổi một bộ luật, nhất là Bộ luật Dân sự. Điều này đã chỉ ra rằng các nhà làm luật Việt Nam khi xây dựng Bộ luật Dân sự 2005 đã không dự đoán được sự vận động, phát triển của đời sống kinh tế, xã hội khiến những quy định của nó mới đi vào áp dụng trong một thời gian ngắn đã nảy sinh những bất cập đòi hỏi phải được sửa đổi, bổ sung ngay. Một trong những bất cập đó chính là việc xây dựng khái niệm tài sản, phân loại tài sản không theo một học thuyết mẫu mực nào. Các nhà làm luật Việt Nam định nghĩa tài sản, phân loại tài sản dựa trên sự sao chép, lắp ghép từ các hệ thống pháp luật khác nhau khiến các quy định mặc dù dễ diễn đạt, dễ hiểu nhưng lại tạo ra những mâu thuẫn về cả mặt lý luận lẫn thực tiễn. Tài sản và sở hữu tài sản là một trong những mối quan tâm lớn nhất của xã hội loài người và được các ngành khoa học chuyên ngành nghiên cứu hết sức kỹ lưỡng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, vài trò của tài sản ngày càng được khẳng định. Nó trở thành tiêu chí quan trọng để xác định độ giàu có, tiềm lực và sức mạnh của mỗi quốc gia. Trong khoa học pháp lý, tài sản là đối tượng của quyền sở hữu, đáp ứng được nhu cầu của con người và có thể đưa vào trong giao lưu dân sự. Tài sản đồng thời cũng là khái niệm gốc để từ đó xây dựng các chế định lớn và các phân ngành của luật dân sự. Luận văn ra đời xuất phát từ vai trò quan trọng của tài sản và từ nhu cầu sửa đổi các quy định về tài sản, phân loại tài sản trong pháp luật thực định (cụ thể là Bộ luật Dân sự 2005). Luận văn tập trung nghiên cứu lịch sử hình Việt Nam là một quốc gia đang trong quá trình hội nhập và phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Trong xu hướng chung đó, pháp luật cũng đang dần hoàn thiện để kịp thời điều chỉnh và định hướng các quan hệ giữa các chủ thể phát triển lành mạnh. Luật dân sự là ngành luật gốc, đồng thời cũng là ngành luật mà các quy định của nó được áp dụng thường xuyên nhất trong đời sống hay trong giao lưu kinh doanh, thương mại. Bộ luật Dân sự 2005 đã có hiệu lực thi hành gần bảy năm. Bảy năm là một quãng thời gian đủ dài để Việt Nam có những thay đổi lớn trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy thành phát triển của khái niệm tài sản, phân loại tài sản trên thế giới đồng 25 26 thời đối chiếu, so sánh với các quy định của pháp luật Việt Nam để chỉ ra những nhược điểm, hạn chế trong các quy định về tài sản và phân loại tài sản. Từ kết quả của việc nghiên cứu các quy định của Bộ luật Dân sự 2005, luận văn đưa ra những giải pháp, phương án sửa đổi góp phần hoàn thiện các quy định này theo hướng phù hợp hơn với thực tế đời sống tại Việt Nam và các quy định của pháp luật dân sự thế giới trong giai đoạn mới - giai đoạn của mở cửa, hội nhập và phát triển.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất