Phân cấp tài khóa và Quy mô chính phủ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN: TÀI CHÍNH CÔNG
CHỦ ĐỀ 4:
PHÂN CẤP TÀI KHÓA & QUY MÔ CỦA CHÍNH
PHỦ: PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM TẠI KHU VỰC
CHÂU ÂU
GVHD
: GS.TS Sử Đình Thành
Nhóm thực hiện : Lê Hồ Hoàng Nhân
Lê Minh Trí
Cao Thị Thu Trang
Tp.HCM, tháng 04 năm 2016.
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
MỤC LỤC
TÓM TẮT .................................................................................................................. 3
1. Giới thiệu ................................................................................................................ 3
2.Tài liệu thực nghiệm liên quan................................................................................ 6
3. Đặc điểm kỹ thuật và dữ liệu thực nghiệm ............................................................ 8
3.1. Quy trình kinh tế lượng .................................................................................... 8
3.2. Dữ liệu ............................................................................................................ 10
3.2.1. Kích thước chính phủ ............................................................................... 10
3.2.2. Phân cấp tài khóa .................................................................................... 11
3.2.3. Biến kiểm soát .......................................................................................... 13
4. Ảnh hưởng của sự phân cấp đối với chi tiêu công ............................................... 14
5. Những động lực ngắn hạn và dài hạn................................................................... 19
6. Kết luận ................................................................................................................ 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 25
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 2
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
PHÂN CẤP TÀI KHÓA & QUY MÔ CỦA CHÍNH PHỦ: PHÂN
TÍCH THỰC NGHIỆM TẠI KHU VỰC CHÂU ÂU
Aurélie Cassette - Sonia Paty
PAPER 4
TÓM TẮT
Bài viết này là một đóng góp ban đầu cho sự hiểu biết về mối quan hệ giữa phân cấp
quản lý tài khóa và quy mô của Chính phủ. Sử dụng một bộ dữ liệu bảng của 15 quốc gia
châu Âu, tác giả phân tích tác động của việc phân cấp trên tổng thể, quy mô của Chính
phủ tầm quốc gia và địa phương, bằng cách tách biệt các tác động dài hạn của việc phân
cấp ra khỏi tác động ngắn hạn của nó. Trong dài hạn, thuế tự định làm giảm chi phí trung
ương nhưng làm cho chi tiêu công địa phương nhiều hơn, dẫn đến tổng chi tiêu công cao
hơn. Tác giả cũng tìm thấy rằng sự mất cân bằng theo chiều dọc có xu hướng làm tăng
quy mô của các chính quyền cả địa phương và trung ương.
1. Giới thiệu
Từ cuối những năm 80, phân cấp là việc chuyển giao quyền lực chính trị, tài chính
và hành chính cho chính quyền địa phương đã nổi lên như một trong những xu hướng
quan trọng nhất trong chính sách phát triển. Vì vậy, việc triển khai các mối quan hệ tài
chính giữa các cấp của Chính phủ tại các nước thành viên Liên minh châu Âu đã thu hút
ngày càng nhiều sự quan tâm về năng lực quản lý và quyền hạn thuế được chuyển giao
cho cấp chính quyền địa phương. Các tổ chức thế giới, chẳng hạn như Ngân hàng Thế
giới (2000) hoặc các nước OECD (2002a, 2002b), về việc hỗ trợ tài chính cho việc phân
cấp tại các nước Đông Âu, cho rằng một đổi mới theo hướng phân cấp sẽ thúc đẩy phát
triển kinh tế cũng như hiệu quả của khu vực công. Bài báo “Bước vào thế kỷ 21” của
Ngân hàng Thế giới chỉ ra rằng mong muốn tự quyết định và chuyển giao quyền lực là lực
lượng chính “định hình thế giới trong sự phát triển sẽ được xác định và thực hiện”1 trong
thập niên đầu của thế kỷ này.
1
Báo cáo phát triển thế giới trên Bước vào thế kỷ 21 dẫn lời Ebel và Yilmaz (2002, p.3).
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 3
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
Một số giả thuyết khác về hành vi của Chính phủ được đề xuất trong các tài liệu tài
chính công và các giả thuyết cho rằng phân cấp quản lý tài khóa có thể hạn chế quyền lực
của khu vực công. Oates (1972) lập luận rằng chính quyền địa phương nắm thông tin về
người dân địa phương mình tốt hơn chính phủ liên bang và trung ương, có nghĩa là việc
cung ứng hàng hóa công theo hướng phân cấp sẽ hiệu quả hơn so với chế độ tập trung.
Tuy nhiên, ông cũng lưu ý rằng trong khi hàng hóa công đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
người dân (phù hợp với Tiebout 1956), tăng nhu cầu trong nước đối với các dịch vụ công
cộng có thể làm tăng quy mô của khu vực công (Oates 1985). Trong việc giới thiệu giả
thuyết Leviathan nổi tiếng của mình, Brennan và Buchanan (1980, p.185) nêu ra rằng
“việc can thiệp của chính phủ trong nền kinh tế nên ít dần, các yếu tố khác không đổi,
mức độ phân quyền quản lý về thuế và chi tiêu nhiều hơn”. Mô tả chính phủ như tối đa
hóa nguồn thu, các tác giả, và các tài liệu tiếp theo về sự lựa chọn công, cho rằng, miễn là
căn cứ tính thuế linh động, phân cấp tài khóa buộc chính phủ phải tham gia vào việc cạnh
tranh về thuế, do đó mô hình của Leviathan hạn chế sự độc quyền về thuế. Tuy nhiên, mô
hình cho thấy khi nhiều cấp chính quyền độc lập trong việc định mức thuế, trên cơ sở mức
thuế chung (ví dụ, chia sẻ thuế), tổng hợp thuế suất cân bằng của hai chính quyền đang
đồng thời tối đa hóa nguồn thu, cao hơn so với nguồn thu tối đa hóa tỷ lệ thu của một
chính phủ duy nhất (Flower 1988; Shughart và Tollison 1991; Keen 1995; Wrede 1996;
Keen và Kotsogiannis 2004). Thật vậy, không có sự đồng thuận đối với lý thuyết về mối
quan hệ giữa phân cấp tài khóa và quy mô của khu vực công vì những người đặt câu hỏi
về mô hình Leviathan đã lập luận rằng phân cấp có thể không tạo nên một khu vực công
gọn nhẹ hơn, đó là hiệu ứng “giấy bẫy ruồi” nổi tiếng và vấn đề tài sản chung (chi tiết
hơn, xem Jin và Zou 2002, trang 273-274).
Theo nghiên cứu thực nghiệm chuyên đề của Oates (1972, 1985), nhiều bài báo đã
cố gắng để kiểm tra tác động của việc phân cấp lên quy mô của Chính phủ. Tuy nhiên, kết
quả là không thuyết phục (xem Feld et al. 2003, một tài liệu nghiên cứu đầy đủ). Điều này
của lý thuyết cho thấy quy mô của chính phủ thường được đo bằng các biến: nguồn thu
thuế hoặc chi tiêu chính phủ, trong khi hầu hết các chỉ số về phân cấp quản lý tài khóa bắt
nguồn từ Thống kê Tài chính Chính phủ (GFS) do Qũy Tiền tệ quốc tế (IMF) đo dựa trên
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 4
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
cơ sở của một khía cạnh duy nhất của phân cấp, đó là địa phương chia sẻ phần nguồn thu/
chi tiêu tổng hợp cho chính phủ. Tuy nhiên, các chỉ số tài chính thông thường này đánh
giá quá cao mức độ phân cấp tài khóa hoặc tự chủ tài chính trong hầu hết các nước bởi vì
chúng không được kiểm soát bởi chính quyền địa phương về căn cứ tính thuế và thuế suất
(Stegarescu 2004). Phân cấp chi tiêu cùng với ra quyền hạn thuế địa phương tương ứng có
thể không tạo ra sự cạnh tranh thuế làm hạn chế hành vi của Leviathan. Phân cấp được tài
trợ bởi nguồn lực chung, như khoản trợ cấp hoặc chia sẻ nguồn thu được kiểm soát bởi
trung ương (tức là, sự mất cân bằng theo chiều dọc), có thể tác dụng ngược lại, bằng cách
phá vỡ các liên kết giữa các loại thuế và lợi ích được hưởng. Phân cấp có thể hạn chế
hoặc tăng cường sự phát triển của chính phủ, tùy thuộc vào bản chất của việc phân cấp
(Rodden 2003). Một vài bài báo dựa trên thông tin từ các nước OECD (2001), có tính đến
kiểm soát chính quyền địa phương về căn cứ tính thuế hoặc tỷ lệ trong nước đang chuyển
đổi ở châu Âu (Ebel và Yilmaz 2002) và ở một số nước OECD (Rodden 2003; Meloche et
al. 2004). Một vài trong số những nghiên cứu này kết luận rằng quyền tự chủ tài chính
làm cho khu vực nhà nước trở nên nhỏ hơn trong khi các khoản tài trợ có tác động tích
cực đối với quy mô của khu vực công. Tuy nhiên, Jin và Zou (2002), trong một nghiên
cứu sử dụng dữ liệu bảng trên 32 quốc gia, cho thấy phân cấp tài khóa ảnh hưởng khác
nhau đến quy mô của các chính quyền trung ương, địa phương và tổng thể.
Dựa trên lý thuyết này, các bài nghiên cứu hiện nay tập trung vào những ảnh hưởng
của phân cấp tài khóa với quy mô chính phủ sử dụng một dữ liệu bảng được thiết lập từ
các nước châu Âu. Nhưng bài báo này là một đóng góp độc đáo cho sự hiểu biết về mối
quan hệ giữa phân cấp tài khóa và quy mô chính phủ liên quan đến một số khía cạnh cụ
thể.
Theo tác giả, đây là bài báo đầu tiên kết hợp một chỉ báo về phân cấp thu nhập2 của
các nước OECD với một thước đo của sự mất cân bằng theo chiều dọc, cho một mẫu của
nhóm 15 quốc gia EU. Tác giả sử dụng một mô hình dữ liệu bảng chuyển dịch theo không
Tác giả sử dụng dữ liệu của Stegarescu (2004) trong đó sử dụng các phương pháp tiếp cận các nước OECD (1999)
trong tự chủ nguồn thu của chính quyền địa phương. Stegarescu mở rộng số lượng các quốc gia và mở rộng dữ liệu
để đạt được một bảng dữ liệu tập hợp đầy đủ.
2
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 5
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
gian để chứng minh cho việc chi tiêu chính phủ có thể thay đổi một cách chậm chạp theo
thời gian và rằng có thể có một số mối tương quan giữa chi tiêu công của các nước. Tác
giả ước lượng cả các mối quan hệ lâu dài giữa phân cấp và chi tiêu công cũng như một
mô hình sửa lỗi để phân biệt tác động ngắn hạn và dài hạn của phân cấp. Theo tác giả, đây
cũng là bài báo đầu tiên phân tích các tác động của phân cấp ở 3 mức độ quy mô của
chính phủ là tổng thể, trung ương và địa phương, bằng cách tách biệt các tác động dài hạn
của việc phân cấp từ các động lực ngắn hạn. Các đối số liên quan tới việc phân cấp ảnh
hưởng đến quy mô của chính phủ có thể được hiểu tốt nhất như đề cập đến điểm cân bằng
dài hạn.
Đầu tiên, tác giả xác nhận mức độ chi tiêu công vẫn rất cao trong các quốc gia EU.
Có sự tương tác trong chi tiêu công ở mức độ tổng thể và trung ương của 15 nước EU.
Tác giả cũng thấy rằng phân cấp ảnh hưởng đến quy mô chính phủ ở mức độ tổng thể, địa
phương và trung ương và tác động của phân cấp đến quy mô của mỗi cấp chính quyền
phụ thuộc vào bản chất của sự chuyển giao quyền lực. Trong dài hạn, chúng ta thấy rằng
quyền tự chủ về thuế sẽ làm tăng quy mô chính quyền địa phương hơn là làm giảm quy
mô chính quyền trung ương, dẫn đến bộ máy chính quyền trên tổng thể lớn hơn. Tác giả
cũng thấy rằng sự mất cân bằng theo chiều dọc có xu hướng làm tăng quy mô của các
chính quyền địa phương, trung ương và tổng thể.
Bài viết này được bố cục như sau. Phần tiếp theo tóm tắt các nghiên cứu thực
nghiệm. Trong phần 3, tác giả trình bày các biến thực nghiệm và bộ dữ liệu. Kết quả được
trình bày tỏng phần 4 và 5. Phần cuối cùng là kết luận.
2. Tài liệu thực nghiệm liên quan
Hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm về phân cấp và quy mô Nhà nước đều cố gắng
để kiểm tra giả thuyết Brenan và Buchanan’s Leviathan (tham khảo Feld et al.2003 để có
cái nhìn toàn diện về giả thuyết trên). Ở đây, chúng ta chỉ bàn về những khảo sát ở mức
độ quốc gia. Đầu tiên, Oates (1972, trang 209-213) đánh giá mối tương quan thực tế của
Lý thuyết phân cấp trên dữ liệu chéo 57 quốc gia. Oates sử dụng một phần nguồn thu thuế
trong thu nhập quốc gia làm thước đo cho quy mô chính phủ, trong khi đó, thước đo tỷ lệ
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 6
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
nguồn thu thuế của chính quyền trung ương so với tổng nguồn thu thuế thì được dùng làm
thước đo sự tập trung hóa. Ông đã tìm ra mối quan hệ tiêu cực giữa chỉ số phản ánh sự tập
trung hóa và quy mô của chính phủ, nhưng đạt kết quả không đáng kể trong việc kiểm
soát thu nhập. Edhaie (1994) phê bình nghiên cứu của Oates và có ý kiến đối lập rằng
thuế và sự lựa chọn tiêu dùng phải được xem xét đồng thời và liên quan tới quá trình phân
cấp. Edhaie tìm ra rằng với một mẫu 30 quốc gia năm 1987 và 1977, sự phân cấp đồng
thời của thuế chính quyền trung ương và sức mua có xu hướng làm giảm quy mô khu vực
công. Tuy vậy, cũng có vài nghiên cứu đã tìm ra tác động tích cực có ý nghĩa thống kê về
sự phân cấp đối với quy mô chính phủ: Stein (1999) nghiên cứu trên 19 quốc gia Mỹ
Latin từ 1990-1995 và Heil (1991) với dữ liệu chéo của 22 quốc gia OECD và 39 quốc
gia IMF.
Nhiều nghiên cứu lại cho rằng phân cấp tài khóa có thể kiềm hãm hoặc thúc đẩy sự
tăng trưởng của chính phủ, phụ thuộc vào cách thức phân cấp. Phân cấp chi tiêu mà
không đi kèm với mức thuế hợp lý tại địa phương sẽ không tạo ra sự cạnh tranh về thuế
nhằm hạn chế hành vi Leviathan. Và phân cấp quản lý được tài trợ bởi nguồn chung,
chẳng hạn như tiền trợ cấp hoặc một phần nguồn thu được cấp từ trung ương, có thể gây
ra tác dụng ngược lại bằng việc phá vỡ mối liên hệ giữa các loại thuế và lợi ích. Hơn nữa,
theo Brennan và mô hình Leviathan Buchanan, hệ thống trợ cấp có thể được hiểu như là
một hình thức thông đồng giữa các chính quyền địa phương để phá vỡ những tác động
kìm hãm của phân cấp quản lý tài khóa (Feld et al.2003). Dựa vào số liệu IMF GFS
(Thống kê Tài chính của chính phủ) của 17 nước công nghiệp và 15 nước đang phát triển
Jin và Zou (2002) cho thấy rằng phân cấp quản lý chi tiêu và sự mất cân bằng theo chiều
dọc làm tăng quy mô của khu vực công trên tổng thể, trong khi phân cấp nguồn thu tạo ra
kết quả ngược lại. Họ cũng chỉ ra rằng phân cấp tài khóa có ảnh hưởng khác nhau đối với
quy mô chính phủ ở mức độ trung ương, địa phương và tổng thể. Phân cấp nguồn thu cho
thấy rằng việc gia tăng quy mô chính quyền địa phương ít hơn so với giảm quy mô chính
quyền trung ương dẫn đến quy mô chính phủ xét trên tổng thể sẽ nhỏ hơn. Ebel và Yilmaz
(2002) và Fiva (2006) sử dụng chỉ số mới của phân cấp tài khóa dựa trên phân loại nhóm
các nước OECD (1999), cung cấp thông tin bổ sung thêm về nguồn thu thuế và về tỷ lệ
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 7
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
mà chính quyền địa phương có quyền kiểm soát đáng kể. Ebel và Yilmaz (2002) tìm ra
rằng quyền tự quản về thuế của chính quyền địa phương có tác động tiêu cực và quan
trọng tới quy mô khu vực công ở 10 nước chuyển đổi trong giai đoạn 1997 – 1999, trong
khi sử dụng dữ liệu của 18 quốc gia OECD, Fiva (2006) cho thấy rằng vấn đề tự chủ thuế
của địa phương ảnh hưởng đến cả quy mô tổng thể và thành phần chi tiêu chính phủ. Ước
một mô hình sữa lỗi (ECM) cho dữ liệu bảng thiết lập từ 59 quốc gia giai đoạn 1978 –
1997, Rodden (2003) thấy rằng phân cấp được đo bằng nguồn thu của địa phương, có tác
động tiêu cực đến sự tăng trưởng của chính phủ, trong khi phân cấp tài khóa đo bởi các
khoản chi chuyển nhượng liên chính phủ, tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng của khu vực
công. Cuối cùng, Ashworth et al. (2008) sử dụng một phương pháp tiếp cận hội tụ dữ liệu
bảng để tách biệt những ảnh hưởng dài hạn của việc phân cấp với các động lực ngắn hạn.
Kết quả cho thấy sự gia tăng lượng nguồn thu của chính quyền địa phương càng nhiều
dẫn đến một sự suy giảm xét trong dài hạn với quy mô tổng thể của chính phủ (nghĩa là
tổng chi tiêu công…), trong khi các khoản trợ cấp lại có tác dụng ngược lại.
3. Đặc điểm kỹ thuật và dữ liệu thực nghiệm
Trong bài báo cáo này, tác giả kiểm tra xem liệu phân cấp tài khóa có ảnh hưởng
đến kích thước của chính phủ các nước châu Âu hay không. Các đặc điểm kỹ thuật chung
của mô hình thực nghiệm của tác giả được mô tả như sau:
(1)
i 𝜖 [1,15] và t 𝜖 [1,33], với GOVSIZE là biến phụ thuộc thể hiện quy mô chính phủ,
DEC là những chỉ số phân cấp, X là một vectỏ của các biến kiểm soát, 𝜂𝑖 là một hiệu
ứng cố định quốc gia, 𝜂𝑡 là một hiệu ứng cố định khoảng thời gian và 𝜀 là sai số.
3.1. Quy trình kinh tế lượng
Do tác giả muốn kiểm tra sự tồn tại của chi tiêu tương tác giữa các nước châu Âu ở
cấp độ tổng hợp và trung ương, tác giả cần phải xem xét sự phụ thuộc về không gian
trong một dữ liệu tổng hợp chọn lọc. Tác giả chọn hai phương pháp định lượng: một
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 8
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
phương pháp định lượng dựa trên khoảng cách địa lý3 (WDist) và một phương pháp định
lượng tương tự nhau cho tất cả các quốc gia không xét đến khoảng cách địa lý (WNW). ả
hai ma trận định lượng được chuẩn hóa để tổng các nhân tố của từng dòng tiến đến 1. Nếu
mỗi nước đều phản ứng lại với những lựa chọn chi tiêu của nước khác, thì quyết định chi
tiêu của các nước láng giềng là nội suy và tương quan với sai số ( 𝜀 ). Tác giả chọn sử
dụng phương pháp tiếp cận dựa vào các biến số công cụ (IV)4,là phương pháp sử dụng
trung bình có trọng số của các biến ngoại suy hoặc biến kiểm soát liên quan, (WX), như là
một công cụ (Kelẹian và Robinson năm 1993; Kelẹian và Prucha 1998). Hơn nữa, vì còn
có một số sự tồn tại của chi phí, nên nó có thể phù hợp trong hệ thống ước lượng – GMM
(Veiga và Veiga 2007).
Với việc có hoặc không có sự phụ thuộc không gian, tác giả sử dụng việc ước lượng
hệ thống GMM phát triển bởi Blundell và Bond (1998)5. Giá trị của các công cụ sử dụng
hồi quy được đánh giá sử dụng hai phương pháp kiểm định khác nhau. Kiểm định Sargan
(hoặc kiểm định overidentifying restriction test) kiểm tra giả thuyết rằng các công cụ
không tương quan với các số dư. Phương pháp kiểm định thứ hai được đề xuất bởi
Arellano và Bond (1991). Kiểm định này xem xét các giả thuyết cho rằng các số dư từ
phương trình ước lượng sai số bậc một không phải là tương quan bậc hai. Một N nhỏ (như
trong trường hợp của tác giả) giới hạn số lượng các công cụ có thể được sử dụng để ước
lượng, nhưng có thể để lại hậu quả cho các thuộc tính của các ước lượng. Tuy nhiên, Soto
(2007), phân tích hiệu suất của các hệ thống GMM khi số lượng các đơn vị chéo là nhỏ đã
sử dụng mô phỏng Monte Carlo. Ông ta chỉ ra rằng một số lượng nhỏ các đơn vị chéo
dường như không ảnh hưởng quan trọng đến các thuộc tính đã được xác định trong hệ
thống ước lượng GMM.
Chương trình này sử dụng khoảng cách là đường thẳng tương đối, với các trọng số Wij tính bằng 1/dij trong đó dij
là khoảng cách Euclide giữa các nước i và j (i≠j)
4
Nghiên cứu thực nghiệm sử dụng phương pháp IV để ước lượng hệ số không gian của Ladd (1992), Kelejian và
Robinson (1993), Ngân hàng thế giới (2000), Heyndels và Vuchelen (1998), Figlio et al. (1999), Buettner (2001) và
Revelli (2001)
5
Blundell và Bond (1998) cho thấy ước lượng GMM mở rộng của hiệu quả hơn của Arellano và Bond (1991) nếu
biến phụ thuộc và/hoặc các biến độc lập liên tục
3
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 9
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
Cuối cùng, để tập hợp dữ liệu với một số lượng nhỏ các quan sát trong bảng dữ liệu
chéo mà không phụ thuộc vào không gian, ước lượng LSDVC được phát triển bởi Kiviet
(1995) có thể được sử dụng do nó có thể hiệu chỉnh cho bất kỳ xu hướng nào và tương đối
hiệu quả.
Trong bước thứ hai, nếu chuỗi thời gian thống trị dữ liệu chéo, chúng ta cần thực
hiện các kiểm định nghiệm đơn vị, kiểm định tính hội tụ và ước tính một mô hình hiệu
chỉnh sai số (xem phần 5).
3.2. Dữ liệu
Tác giả ước lượng mô hình (1) dựa trên dữ liệu hàng năm cho các nước thành viên
EU. Tác giả có dữ liệu chéo cho 15 nước thành viên EU trong 33 năm (1972-2004). Bảng
1 là báo cáo thống kê tổng hợp và các nguồn dữ liệu trong bài viết này.
3.2.1. Kích thước chính phủ
Tác giả phân tích ba biến phụ thuộc khác nhau. Trong khi Fiva (2006) nghiên cứ
quy mô và thành phần của chi tiêu chính phủ ở mức độ tổng hợp (cho chuyển nhượng an
sinh xã hội và tiêu dùng của Chính phủ), tác giả muốn điều tra quy mô của khu vực công
ở các tầng cấp khác nhau của chính phủ. Biến phụ thuộc đầu tiên của tác giả đo lường
tổng quy mô của chính phủ mà cụ thể là tổng chi tiêu của khu vực công (như là một tỷ lệ
phần trăm của GDP). Vì tác giả cũng muốn phân tích phân cấp ảnh hưởng đến chính
quyền địa phương và trung ương như thế nào, nên tác giả sử dụng chi tiêu khu vực công
của địa phương (như là một tỷ lệ phần trăm của GDP) và chi tiếu khu vực công của trung
ương (như là một tỷ lệ phần trăm của GDP).
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 10
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
Tất cả các biến được tính theo % trừ GDP bình quân đầu người và mật độ dân số
(người/km2). Số quan sát: 495. TDEC: tỷ lệ thuế tự quản cảu chính quyền địa phương với
tổng nguồn thu thuế của chính phủ. VI: chuyển nhượng liên chính phủ như là một phần
trong chi tiêu chính quyền địa phươn. AMECO: dữ liệu hàng năm về tình hình kinh tế vĩ
mô của Ủy ban Châu Âu
3.2.2. Phân cấp tài khóa
Rất khó để xác định và đo lường mức độ phân cấp vì bản thân khái niệm rất rộng và
cũng phức tạp về số lượng các chỉ số định lượng (Ngân hàng thế giới 2004). Thật vậy,
phân cấp quản lý bao gồm các lĩnh vực chính trị, hành chính và ngân sách. Tuy nhiên, các
biện pháp thông thường đo lường mực độ phân cấp quản lý tài khóa trong các tài liệu sử
dụng khoản thu của chính quyền địa phương (hoặc chi tiêu), như cách tính theo IMF GFS.
Tuy nhiên, các chỉ số tài chính chung co xu hướng đánh giá cao mức độ phân cấp quản lý
tài khóa, đặc biệt là ở các quốc gia liên bang so với các nước đơn nhất, vì nó không cung
cấp bất kỳ thông tin nào dựa trên tỷ lệ sở hữu mà chính quyền địa phương có quyền kiểm
soát đáng kể. Do đó, họ thường xuyên tác mức độ thực tế của phân cấp quản lý tài khóa ở
một số nước (như Áo và Đức) và dẫn đến sai lệch trong kết quả nghiên cứu thực nghiệm
(Stegarescu 2004). Dựa theo nghiên cứu gần đây về chủ đề này, tác giả sử dụng hai chỉ số
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 11
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
đại diện cho các khía cạnh khác nhau của phân cấp. Để kiểm tra giả thuyết cho rằng
quyền tự chủ tài chính dẫn đến một nhà nước nhỏ hơn, đầu tiên tác giả sử dụng thước đo
sự phân cấp quản lý nguồn thu đó là dựa trên một khung phân tích được cung cấp bởi các
nước OECD (1999), trong đó phân loại thuế theo mức độ tự chủ của địa phương. Tác giả
cũng sử dụng thước đo sự mất cân bằng theo chiều dọc, có nghĩa là mức độ mà chính
quyền địa phương dưuạ vào thu ngân sách trung ương để hổ trợ cho chi tiêu của họ. sự
mất cân bằng theo chiều dọc có khả năng làm tăng quy mô của khu vực công khi trách
nhiệm chi tiêu của chính quyền địa phương không làm phù hợp với khả năng tăng nguồn
thu của họ.
Tác giả sử dụng hai thước đo sau đây:
𝑇𝐷𝑒𝑐 =
𝑇ℎ𝑢 𝑛ℎậ𝑝 𝑡ℎ𝑢ế 𝑐ủ𝑎 𝑐ℎí𝑛ℎ 𝑝ℎủ 𝑡ạ𝑖 đị𝑎 𝑝ℎươ𝑛𝑔
𝑇ổ𝑛𝑔 𝑡ℎ𝑢 𝑛ℎậ𝑝 𝑡ℎ𝑢ế 𝑐ủ𝑎 𝑐ℎí𝑛ℎ 𝑝ℎủ
1. Một thước đo sự phân cấp quản lý nguồn thu (Tdec) đại diện cho thuế tự quản của
chính quyền địa phương trong trường hợp chính quyền địa phương chiếm toàn bộ
hoặc phần lớn quyền kiểm soát thuế. Dựa theo sự phân loại ở các nươc OECD
(1999), đây là trường hợp nếu chính quyền địa phương xác định căn cứ tính thuế
(xem ví dụ, Ebel và Yilmaz 2002; Stegarescu 2004). Lưu ý rằng chỉ số này không
mở rộng phân tích cho tất cả các nguồn đầu vào của thu nhập công, mà bỏ qua một
số nguồn ví dụ như thu nhập trước thuế, phí sử dụng hoăc thặng dư hoạt động của
các doanh nghiệp, và lãi vốn những thứ có thể được phân loại như thu nhập tự
quản riêng.
Tdec = Thu nhập thuế của chính phủ tại địa phương/ Tổng thu nhập thuế của chính
phủ
2. Mất cân bằng theo chiều dọc (VI) được đo lường bằng chuyển nhượng liên chính
phủ như là một phần của chi tiêu địa phương.6
Tuy nhiên, biện pháp này không phân biệt giữa việc chuyển đổi mục đích và điều kiện chung. Tài trợ mục đích
chung có thể được sử dụng như là thu nhập riêng, nhưng có thể được phân bổ dựa trên các tiêu chí khách quan hoặc
6
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 12
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
Cũng lưu ý rằng hệ số tương quan giản đơn của hai chỉ số phân cấp là không đáng
kể nên chúng ta có thể cùng đưa chúng vào trong phương trình ước lượng. cùng quan
điểm với Jin và Zou (2002), tác giả quyết định không đưa vào phương trình các chỉ số
phân cấp thuế và phân cấp chi tiêu cùng một luc, bởi vì chỉ số phân cấp chi tiêu chuẩn (tỷ
lệ chi tiêu công địa phương trong chi tiêu công hợp nhất) có liên quan với các chỉ số phân
cấp khác.
3.2.3. Biến kiểm soát
Tác giả đưa vào trong mô hình của tác giả một số biến kiểm soát, phản ánh tác động
của sự khác biệt về các yếu tố kinh tế và nhân khẩu học thể hiện thông qua vector X trong
phương trình (1) ở trên. Theo như lý thuyết thục nghiệm, tác giả đưa vào một số biến giải
thích có thể ảnh hưởng đến cầu chi tiêu công. Đầu tiên là GDP bình quân đầu người
(GDPCAP). Biến này có thể được sử dụng để tính toán thu nhập quốc gia. Tập sữ liêu
thứu hai bao gồm các biến nhân khẩu – xã hội chẳng hạn như tỷ lệ thất nghiệp (UNEMP),
mật độ dân số (DENS), và tỷ lệ dân số trên 65 tuổi (PP65). Các biến này có thể được coi
là chỉ số đại diện cho nhu cầu chi tiêu và có thể biểu hiện một dấu hiệu tích cực. biến
PP65 được đưa ra nhằm đại diện cho nhu cầu về chính trị với các dịch vụ công của những
ngừoi già trong cộng đồng. phân khúc này của dân số tạo thành một nhóm lợi ích với
quyền lực chính trị ngày càng tăng, và PP65 dự kiến sẽ ảnh hưởng lớn đến quy mô thực
của chính phủ.
Theo như Persson et al. (2005), tác giả đã cố gắng đưa vào một số biến chính trị để
kiểm soát (định hướng chính trị, hệ thống đa nguyên, phân chia đảng phái). Nhứng không
có biến nào trong số các biến chính trị là quan trọng. tác giả quyết định không đưa chúng
vào trong các cơ sở hồi quy để hạn chế số lượng các công cụ.
Mức độ mở cửa của một nền kinh tế cho thương mại quốc tế (OPEN) có thể sẽ có
ảnh hưởng đến quy mô của chính phủ. Tỷ lệ thương mại quốc tế đóng góp vào GDP càng
nhiều thì thu nhập nội địa càng không ổn định và chắc chắn, và cần hiểu rằng tình trạng
bấp bênh không chắc chắn này càng nhiều sẽ dẫn đến ựu lệ thuộc lớn hơn của cộng đồng
theo quyết định của chính quyền trung ương. Các khoản tài trợ cụ thể, mặt khác, được sử dụng cho các mục đích chi
tiêu nhất định và có thể có điều kiện qua chính quyền địa phương
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 13
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
vào chính phủ, làm tăng quy mô của chính phủ (Rodrik, 1998). Xem xét quyết định của
khu vực công từ góc nhìn mang tính truyền thống hơn thì việc mở cửa gây nên cạnh tranh
nước ngoài và làm tăng khó khăn của chính phủ trong việc điều tiết mối quan hệ về thuế
với các nước láng giềng (Ferris và Tây năm 1996). Điều này làm giảm đi chưa không phải
là làm tăng tốc độ mà chính phủ có thể mở rộng.
Tác giả đưa vào một biến đại diện cho tỷ lệ lực lượng lao động làm việc tự do. Vì nó
có thể dễ dàng hơn cho lực lượng lao động làm việc tự do che giấu thu nhập của mình
(Kau và Rubin 1981). Một tỷ lệ lớn hơn của người lao động tự do dự kiến sẽ làm tăng các
chi phí liên quan của việc trốn thuế và có tác động đến quy mô chính phủ (Backhaus và
Wagner 2004).
Cuối cùng để đại diện cho các nhân tố phổ biến ở tất cả các nước, tác giả cần phải
đưa vào các biến giả thời gian. Tuy nhiên. Biến giả thời gian không thế được đưa vào
trong hồi quy biến đổi đồng thời với chi tiêu công trung bình khống có trọng số của các
quốc gia cạnh tranh (xem, ví dụ, các cuộc biểu tình của Devereux et al. (2008, p. 1224).
Dó đó tác giả sử dụng một xu hướng thời gian bậc hai. Khi đó, hệ số ước lượng trên biến
này cho thấy một xu hướng phi tuyến trong các dữ liệu theo thời gian.5 Ngắn hạn và động
lực lâu dài.
3. Ảnh hưởng của sự phân cấp đối với chi tiêu công
Chúng tôi điều tra mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và ba loại quy mô chính phủ –
tổng hợp, địa phương và trung ương. Chúng tôi ước lượng (1) có tính đến các giá trị trễ
của biến phụ thuộc của chúng tôi ( = 0) và biến phụ thuộc trễ về không gian trong dự
toán chi tiêu công hợp nhất và quốc gia (α = 0). Cột 1-6 trong Bảng 2 báo cáo kết quả ước
lượng của mô hình biến đổi này cho mỗi cấp độ của chi tiêu chính phủ (tổng hợp, trung
ương và địa phương). Chúng tôi sử dụng ước lượng GMM mở rộng theo đề nghị của
Blundell và Bond (1998). Các giá trị xác suất cao tương ứng của kiểm định Sargan và
kiểm định Arellano-Bond không đủ để lý giải tính hợp lệ của kết quả của bất kỳ hàm hồi
quy nào. Với chi tiêu công địa phương (nghĩa là không có các biến phụ thuộc về không
gian), vì chúng ta có một mẫu nhỏ, Kiviet khuyến cáo phương pháp LSDVC.
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 14
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
Đầu tiên, như Bảng 2 cho thấy, biến nội sinh trễ (GOVSIZEit-1) luôn luôn là quan
trọng và có dấu hiệu tích cực trong tất cả các thông số kỹ thuật. Kết quả này thừa nhận
tính nhất quán của các thông số kỹ thuật tự hồi quy trong (1) cũng như giả thiết cho rằng
chi tiêu chính phủ có thể thay đổi một cách chậm chạp theo thời gian. Chúng tôi cũng tìm
thấy một hệ số tích cực và có ý nghĩa gắn liền với bình quân gia quyền của chi tiêu công
của các quốc gia cạnh tranh. Sự tồn tại của chi tiêu phụ thuộc lẫn nhau là phù hợp với các
kết quả trên chi tiêu công tổng hợp thu được bởi Redoano (2007) dựa trên một bộ dữ liệu
của EU15 (công với Thụy Sĩ và Na Uy) cho giai đoạn 1970-1999. Một cách lý giải cho
chi tiêu phụ thuộc lẫn nhau này có thể là do sự tồn tại của một xu hướng tâm lý chung đã
lái chi tiêu công đi theo cùng một hướng. Một cách lý giải khác có thể dựa trên tiêu chuẩn
đánh giá sự cạnh tranh giữa các chính phủ. Các chính phủ xem xét áp dụng những sự lựa
chọn chi tiêu của các nước láng giềng, là điều mà các cử tri biết rất rõ, điều này dễ dàng
hơn so với các lựa chọn chi tiêu của mình. Một lời giải thích thứ ba được đề xuất bởi Feld
et al (2003): các nước không cạnh tranh trực tiếp về chi tiêu công, nhưng sự cạnh tranh
thuế suất sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu thuế và cuối cùng tác động đến chi tiêu công.
Kết quả quan trọng nhất trong bảng 2 là các ước lượng tham số cho hai chỉ số phân
cấp của chúng tôi. Theo dự kiến, phân cấp quản lý nguồn thu có thể làm tăng quy mô của
các chính phủ tại địa phương và giảm quy mô của các chính phủ tại trung ương. Tuy
nhiên, quy mô của chính phủ hợp nhất không thu nhỏ: kết quả này cho thấy rằng phân cấp
nguồn thu tăng quy mô của chính phủ ở địa phương ở một mức độ lớn hơn nó làm giảm
quy mô của chính phủ ờ trung ương.
Bảng 2: Mô hình không gian và động lực
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 15
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
Kiểm định t-test trong dấu ngoặc đơn. * Mức ý nghĩa 10%, ** Mức ý nghĩa 5%, *** Mức ý nghĩa 1%. Mỗi biến nội
sinh (GOVSIZEi: t-1; WGOVSIZEi; t; UNEMPi; t; GDPCAPi; t) được bổ trợ bởi các giá trị trễ cấp hai của nó, các
biến ngoại sinh, WPP65 và WGDPCAP
Chúng tôi tìm thấy những dấu hiệu kỳ vọng tích cực và quan trọng cho chỉ số về
phân cấp dựa trên những khoản chi chuyển nhượng liên chính phủ (VI), trong các hồi quy
về quy mô chính quyền địa phương và chính quyền trung ương. Điều này có lẽ có thể
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 16
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
được giải thích bởi sự tồn tại của hiệu ứng “giấy bẫy ruồi” ở cấp chính quyền địa phương.
Chính quyền địa phương sẽ chi tiêu bất kỳ khoản chuyển nhượng nhận được nào dễ dàng
hơn so với chi tiêu nguồn thu thuế địa phương. Theo đề nghị của Jin và Zou (2002) và
Stein (1999), phân cấp tài trợ từ các nguồn phổ biến, chẳng hạn như tiền trợ cấp hoặc lợi
nhuận được chia kiểm soát bởi trung ương, có thể làm trầm trọng thêm vấn đề về tài sản
chung. Sự thiếu kết nối giữa những người hưởng lợi các dịch vụ công và những người trả
tiền cho họ sẽ tăng quy mô của chính quyền địa phương. Kết quả này hoàn toàn phù hợp
với kết quả của Qates (1985), Grossman (1989), Edhaie (1994), Stein (1999) và Jin và
Zou (2002). Sự mở rộng của khu vực công ở cấp địa phương do những khoản chi chuyển
nhượng từ trung ương này sẽ buộc chính quyền trung ương phải tăng cường tương ứng
(Zin v2 Zou 2002). Do đó phần chi chuyển nhượng liên chính phủ trong chi tiêu công tại
địa phương càng lớn sẽ dẫn đến quy mô của chính quyền trung ương càng lớn: sự mất cân
bằng theo chiều dọc là có quan hệ đồng biến với quy mô của chính quyền trung ương.
Về các biến kiểm soát, với ngoại lệ của hệ số trong mô hình hồi quy địa phương dự
kiến có dấu hiệu tích cực, GDP bình quân đầu người là không bao giờ có ý nghĩa. Theo
dự kiến, một tỷ lệ lớn hơn của dân số độ tuổi trên 65 dẫn đến chi tiêu công cao hơn ở mỗi
cấp của chính phủ cho thấy phân khúc này của dân số có quyền lực chính trị để yêu cầu
một số phân bổ kinh phí cụ thể. Một tỷ lệ thất nghiệp cao hơn cũng dẫn đến một quy mô
chính phủ tổng hợp lớn hơn. Khi các thông số liên quan đến mật độ dân số rất có ý nghĩa
và nghịch biến thì điều này hàm ý có sự tồn tại của nền kinh tế trong tỷ lệ cung cấp hàng
hóa công. Hơn nữa, chúng tôi nhận thấy rằng, khi hệ số của biến SELF rất có ý nghĩa, nó
có một ảnh hưởng tiêu cực với quy mô của chính phủ. Các quốc gia có tỷ lệ cao hơn lao
động tự do trong lực lượng lao động có khả năng bị trốn thuế và do đó có mức độ chi tiêu
công thấp hơn. Chúng tôi cũng tìm thấy một dấu hiệu tiêu cực của biến OPEN cho thấy sự
mở cửa gây nên cạnh tranh nước ngoài và làm gia tăng những hạn chế về khả năng của
các chính phủ trong việc áp đặt các loại thuế, so với các nước láng giềng của họ (Ferris và
West 1996). Cuối cùng, chỉ có trong mô hình hồi quy trung ương thì một xu hướng bậc
hai có ý nghĩa mới được phát hiện, chỉ ra rằng chi tiêu công của trung ương giảm xuống
trong thời gian của chúng tôi nghiên cứu nhưng sau đó chững lại.
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 17
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
Theo lời khuyên, chúng tôi sử dụng một phương pháp đo lường mở rộng của chính
phủ, ví dụ như, chỉ số tự do kinh tế của Viện Fraser. Quy mô chính phủ theo nghĩa rộng
nhất bao gồm thuế/chi tiêu, các quy định, giao dịch không chính thống và chính sách tiền
tệ, hầu hết trong số đó không được phản ánh trong ngân sách tài chính cho bất kỳ mức độ
nào. Chỉ số tự do kinh tế thế giới đo lường mức độ mà các chính sách và các tổ chức của
các quốc gia trong việc ủng hộ tự do kinh tế. Những nền tảng của tự do kinh tế là sự lựa
chọn cá nhân, trao đổi tự nguyện, tự do cạnh tranh, và bảo mật của tài sản thuộc sở hữu tư
nhân. Bốn mươi hai biến được sử dụng để xây dựng một chỉ số tóm tắt và để đo lường
mức độ tự do kinh tế trong năm lĩnh vực chính: (1) quy mô của chính phủ 7 , (2) cơ cấu
pháp lý và an ninh của quyền sở hữu, (3) truy cập vào tiền tín dụng, (4) tự do thương mại
quốc tế, và (5) quy định về tín dụng, lao động và kinh doanh (Gwartney và Lawson 2008).
Cụ thể hơn, các nước có tỷ lệ thấp của chi tiêu chính phủ trong tổng số chi tiêu chính phủ,
khu vực doanh nghiệp nhà nước nhỏ hơn, và thuế suất cận biên thấp hơn được xếp hạng
cao nhất trong khu vực này. Chỉ số này có sẵn cho các năm 1970, 1975, 1980, 1985,
1990, 1995, và 2000 -20068 . Chúng tôi trình bày các kết quả ước lượng trong cột 7 và 8.
Như trong các dự đoán trước đây, chúng ta có thể thấy rằng chỉ số tự do kinh tế chỉ
thay đổi chậm theo thời gian. Chúng tôi tìm thấy một hệ số tích cực nhưng không có ý
nghĩa liên quan đến chỉ số tự do kinh tế bình quân gia quyền của các nước láng giềng (sử
dụng cả hai phương pháp lấy trọng số). Nó có thể khó khăn cho chính phủ trong việc bắt
chước nhau sử dụng chỉ số tổng hợp này dựa trên 42 biến. Phương pháp đo lường mở
rộng hơn này của chính phủ mang lại kết quả tương tự cho các tác động của việc phân cấp
quản lý thuế. Chúng tôi thấy rằng phân cấp quản lý thuế có tác động tích cực và có ý
nghĩa về tự do kinh tế. Tuy nhiên, sự mất cân bằng theo chiều dọc không có tác động
đáng kể vào chỉ số. Cuối cùng, các biến kiểm soát là không bao giờ có ý nghĩa.
Bốn thành phần trong quy mô của chính phủ cho thấy mức độ mà các nước dựa vào tiến trình chính trị để phân bổ
nguồn lực, và hàng hóa và dịch vụ. Tiêu dùng của chính phủ như một phần của tổng tiêu dùng, chi chuyển nhượng
và các khoản trợ cấp như một phần của GDP, là những chỉ số phản ánh quy mô của chính phủ. Thành phần thứ ba đo
lường mức độ mà các nước sử dụng khu vực tư hơn là các doanh nghiệp nhà nước để sản xuất hàng hóa và dịch vụ,.
Thành phần thứ tư được dựa trên trần tỷ lệ thuế thu nhập cận biên hoặc trần tỷ lệ thuế thu nhập và lương cận biên và
ngưỡng thu nhập mà các tỷ lệ này áp dụng (Gwartney và Lawson 2008).
7
8
Các quan sát mất đi đã bị biến đổi trục
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 18
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
5. Những động lực ngắn hạn và dài hạn
Tác giả kiểm nghiệm những động lực trong ngắn hạn và dài hạn của mối liên quan
giữa sự phân quyền và quy mô của khu vực công thông qua sử dụng khái quát đơn ECM
9
được ước tính bởi ước lượng LSDVC. Trước hết tác giả cần kiểm tra sự cố định của các
biến. Sau đó, nếu các biến này được tích hợp theo I (1) tác giả tiến hành các kiểm định sự
hội tụ bảng Pedroni để kiểm tra trạng thái cân bằng dài hạn giữa các biến.
5.1. Kết quả sơ bộ: Bảng đơn vị gốc và sự hội tụ
Trước tiên tác giả thực hiện kiểm tra bảng đơn vị gốc của Im-Shn-Pesaran cho mỗi
biến để kiểm tra sự cố định của chúng. Nếu các biến được tích hợp theo I (1), tác giả tiến
hành các kiểm định sự hội tụ bảng Pedroni để xem có trạng thái cân bằng dài hạn giữa các
biến hay không. (Xem Pedroni 1996, 1999, 2000, 2004). Từ kiểm định Im-Shn-Pesaran,
tất cả các biến là cố định khác nhau bởi vì lý thuyết đơn vị gốc từ chối tất cả các biến
khác. Trong khi các biến về chi tiêu công và sự phân quyền là không cố định thì các biến
điều khiển và chỉ số Fraser là không đổi về mức độ và sự khác biệt. Như một hệ quả, các
biến phân quyền và chi tiêu được tích hợp theo I (1) trong khi các biến điều khiển và chỉ
số Fraser được tích hợp bởi I (0).
Tác giả thực hiện kiểm định sự hội tụ bảng Pedroni cho mỗi cặp của các biến I (1).
Sau khi áp dụng kiểm định sự hội tụ, tác giả không thể chấp nhận “giả thuyết không” rằng
không có sự hội tụ giữa chi tiêu công và phân quyền. Bước kế tiếp là ước lượng mối quan
hệ dài hạn với FMOLS. Bảng 3 giới thiệu bảng ước lượng xác định theo nhóm của của
mối quan hệ trạng thái cân bằng dài hạn giữa sự phân quyền và quy mô của khu vực công
trong giai đoạn 1972 – 2004. Bảng ước lượng trung bình xác định nhóm với không có và
có biến giả thời gian. Biến giả thời gian được đưa vào trong hồi quy để tìm ra bất kỳ sự
nhiễu loạn nào ảnh hưởng đến những yếu tố khác trong bảng. Tác giả chỉ thảo luận những
kết quả với biến giả thời gian, nghĩa là những cú sốc chung các nước gặp phải có liên
quan với nhau.
Cách tiếp cận này để phân tích các động lực ngắn hạn và dài hạn bằng cách sử dụng dữ liệu bảng phù hợp với
nghiên cứu của Bond et al. (1997, 1999), Mairesse et al.(1999), Yasar et al. (2006)
9
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 19
Môn: Tài chính công
GVHD: GS.TS. Sử Đình Thành
Sự co giãn của chi tiêu công địa phương với sự tự quản về thuế (TDEC) chỉ ra dấu
hiệu tích cực được mong đợi và là có ý nghĩa to lớn. Hơn nữa, kết quả này đúng cho tổng
chi tiêu công và chi tiêu trung ương. Về dài hạn, tự chủ thuế sẽ làm giảm chi tiêu trung
ương, tăng chi tiêu địa phương ở mức độ lớn hơn. Hệ quả là dẫn đến sự gia tăng trong
tổng chi tiêu công.
Khi xem xét ước lượng trung bình nhóm, sự co giãn của chi tiêu công ở các mức độ
địa phương, trung ương và tổng thể với sự mất cân đối theo chiều dọc (VI) là có nghĩa và
đồng biến. Tuy nhiên, có những sự khác biệt lớn giữa sự co giãn từng quốc gia tại mỗi
mức độ.
Bảng 3: Ước lượng về sự hội tụ Vectơ
Kiểm định t-student trong ngoặc, các biến đưa về logarit.* Mức ý nghĩa 10%; **Mức ý nghĩa 5%; *** Mức ý nghĩa
1%.
5.2. Hiệu ứng của sự phân quyền trong ngắn hạn và dài hạn
ECM dựa vào giả định rằng nền kinh tế có thể tự điều chỉnh theo thời gian. Tác giả
bắt đầu với mô hình tự hồi quy phân phối trễ:
Trong đó:
Nhóm thực hiện: nhóm 5
Trang 20
- Xem thêm -