PHÂN BỐ VĂN HÓA HÀN QUỐC
1
PHÂN BỐ VĂN HÓA HÀN QUỐC
1. ĐỊNH NGHĨA VĂN HÓA VÀ VĂN HÓA HÀN QUỐC
Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và hiện đại. Qua
các thế kỷ, các hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền
thống và các thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của từng dân tộc1.
Hàn Quốc là một dân tộc hiếm hoi trên thế giới mà hầu như dân cư trên lãnh thổ duy
nhất là dân tộc Hàn Quốc, dùng chung một ngôn ngữ (mặc dù cũng có vài khác biệt giữa các
vùng nhưng chưa đủ để tách thành những ngôn ngữ khác). Khác với Việt Nam có hơn 54 dân
tộc trên cả nước cùng tính phong phú về ngôn ngữ, điều này đã làm cho Hàn Quốc có một nền
văn hóa đặc trưng vừa đồng nhất vừa dị biệt và phân bố khá đồng đều trên cả nước. Nhắc đến
Hàn Quốc, ta có thể nghĩ đến hình ảnh một con bướm màu sắc sặc sỡ đang bay lượn. Từ thức
ăn, trang phục, họa tiết, điêu khắc, điệu múa…đều được chăm chút một cách cầu kì, khéo léo,
mang tính thẩm mỹ cao thể hiện một tâm hồn tinh tế và mẫn cảm của người Hàn. Văn hóa
ngày nay của Hàn Quốc là sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa hiện đại và văn hóa cổ truyền một
cách đậm nét .
2. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI VĂN HÓA HÀN QUỐC
Đề cập đến văn hóa của một dân tộc, người ta thường chú trọng những yếu tố dẫn đến
sự hình thành và biến đổi văn hóa. Đó là môi trường tự nhiên (địa hình, khí hậu, tài
nguyên…), điều kiện khác biệt về kinh tế, xã hội, chính trị trong nước (các giai đoạn lịch sử),
yếu tố tâm linh (tôn giáo) và những yếu tố bên ngoài tác động.
2.1 Môi trường tự nhiên
Hàn Quốc có diện tích 99.394 km2, kéo dài từ 38 độ - 33 độ vĩ bắc, phía Bắc giáp
Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên, phía Nam giáp eo biển Triều Tiên, phía Đông giáp
biển Nhật Bản, phía Tây giáp biển Hoàng Hải. Hàn Quốc có khí hậu ôn đới ẩm, gió mùa và
chia làm 4 mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Địa hình 70% là núi và cao nguyên chạy dọc theo
hướng Bắc Nam, trên 20% là đồng bằng, đồng bằng không lớn, nằm dọc theo bờ biển phía
Đông, phía Tây, phía Nam và theo hệ thống các con sông, gần 10% còn lại là sông hồ và thác.
Tuy địa hình Hàn Quốc không phù hợp cho phát triển nông nghiệp nhưng bán đảo này lại có
một lượng sông suối tương đối nhiều, cung cấp nguồn nước tưới tiêu dồi dào và tạo nên một
hệ thống đường thủy, thuận lợi cho sinh hoạt và hỗ trợ nông nghiệp. Đồng thời khí hậu 4 mùa
khá thuận hòa cho việc gieo trồng và canh tác nông nghiệp. Từ đây nền kinh tế nông nghiệp
lúa nước cổ truyền của Hàn Quốc nảy sinh và phát triển từ xa xưa. Vì vậy, Hàn Quốc có một
nền văn hóa nông nghiệp rất đặc thù.
1
PST TS Trần Thị Thu Lương, 2011, Định nghĩa văn hóa trong bài thế kỷ thế giới phát triển văn hóa – đang trên
tạp chí thông tin UNESCO số 1 – 1988, Đặc trưng văn hóa Hàn Quốc, NXB Tổng Hợp, Tp.Hồ Chí Minh, trang
18
2
Xuất phát từ điều đó nên có thể thấy ở Hàn Quốc các hình thức văn hóa ẩm thực, các
ngày lễ tết, lễ hội dân gian, các trò chơi dân gian,... đều mang đậm đặc thù của văn hóa nông
nghiệp.
2.2 Điều kiện về chính trị lịch sử
Hàn Quốc từ lúc lập quốc đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm với sự
hình thành và lụi tàn của nhiều vương quốc khác nhau. Mỗi vương quốc đều để lại cho Hàn
Quốc các di tích lịch sử - văn hóa rất ấn tượng, góp phần làm phong phú nền văn hóa của đất
nước này.
2.3 Yếu tố tâm linh và tôn giáo
Hàn Quốc là đất nước mà yếu tố tâm linh và tôn giáo gắn liền với đời sống của dân tộc
từ xưa đến nay. Các tín ngưỡng tôn giáo đa dạng và phong phú là kết quả sự hòa trộn của tín
ngưỡng tôn giáo bản địa và du nhập từ bên ngoài. Có thể thấy bắt đầu từ tín ngưỡng bản địa
lâu đời nhất ở Hàn Quốc là Shaman giáo (tín ngưỡng đa thần trong tự nhiên), cho đến những
tín ngưỡng được du nhập từ bên ngoài như phật giáo, tin lành, nho giáo, thiên chúa giáo... Các
yếu tố tâm linh và tôn giáo này thể hiện trong văn hóa của người Hàn Quốc rất rõ ràng từ
trang phục, điệu nhảy, điêu khắc, họa tiết....
2.4 Những ảnh hưởng từ bên ngoài
Hàn Quốc có một nên văn hóa rất đặc trưng. Tuy nhiên, nó cũng giống như các quốc
gia khác trên thế giới đều bị ảnh hưởng ít nhiều từ các nền văn hóa khác trong quá trình bị
xâm lược, tiếp nhận tôn giáo nước ngoài... Điều này giải thích cho những nét văn hóa Trung
Quốc, Nhật Bản và phương Tây thể hiện qua tôn giáo, mỹ thuật, ẩm thực…trong văn hóa Hàn
Quốc.
3. PHÂN BỐ VĂN HÓA
Nói đến phân bố văn hóa, có thể hiểu theo nhiều phương diện như phân bố văn hóa
theo thời gian, không gian hoặc theo sự kết hợp giữa thời gian và không gian… Có thể thấy
Hàn Quốc là sự đan xét những kiểu văn hóa cổ xưa và hiện đại ẩn hiện trong các kiến trúc đền
chùa, gốm sứ, trang phục… Vì vậy trong bài này chúng tôi sẽ đi theo sự phân bố văn hóa cổ
xưa – gắn với các triều đại, các yếu tố tự nhiên, dân gian và văn hóa thời hiện đại.
3.1 VĂN HÓA CỔ XƯA
Sau thế kỉ thứ nhất sau công nguyên, vùng bán đảo này là đất
của ba quốc gia: Baekje, Goguryeo và Silla. Goguryeo trải rộng trên
vùng đất hoang dã ở phía Đông Bắc Hàn Quốc và phía Tây Mãn
Châu với khí hậu khắc nghiệt và những rặng núi cao vút, những
đồng bằng rộng lớn và những con sông lớn. Trong khi đó, nước Silla
tọa lạc tại vùng đồng bằng lớn thứ hai Hàn Quốc, nơi tích tụ những
tinh hoa phong phú về vật chất và văn hóa, với kinh đô Kyungju ở
3
phía Đông Nam, phía Bắc Busan ngày nay. Phía Tây Nam là sự tồn tại của Baekje hùng mạnh
không kém. Ngoài ra còn có Gaya, một liên minh vững chắc của các quốc gia nhỏ ở phía Nam.
Tuy cuối cùng cũng bị sát nhập vào nước láng giềng Silla nhưng Gaya đã để lại những di tích
lịch sử và nét văn hóa rất thú vị.
Phân bố văn hóa theo vùng:
3.1.1 Vùng Tây Nam
Do đặc điểm địa hình nghiêng theo hướng Đông Bắc - Tây Nam nên hầu hết những
con sông trên bán đảo Triều Tiên đều đổ ra Hoàng Hải và vùng biển phía Nam; sườn phía Tây
và phía Nam bằng phẳng hơn với những vùng đồng bằng, ngoài khơi có nhiều đảo quần tụ tạo
thành những vịnh nhỏ.
Vương quốc Baekje xuất hiện vào thế kỉ thứ ba, chiếm cứ
miền Tây Nam và phát triển vượt bậc so với các tiểu quốc khác. Là
một trong những vương triều cổ xưa, kì bí nhất được nhắc đến
nhiều trong lịch sử Hàn Quốc, Baekje từng phát triển mạnh mẽ và
đạt được nhiều thành tựu rực rỡ trong kiến trúc, chính trị, kĩ thuật.
Các nghệ sĩ ở thời kì Baekje tiếp nhận nhiều ảnh hưởng của
Trung Quốc và tổng hợp chúng thành một truyền thống nghệ thuật
độc đáo. Phật giáo được truyền vào Baekje khoảng năm 384. Các
chủ đề Phật giáo có ảnh hưởng cực kì mạnh mẽ trong nghệ thuật
Baekje. Các đường nét tinh tế hình bông sen của các mái ngói, các
mẫu gạch phức tạp, các đường cong của đồ gốm, cùng các văn bia
được viết một cách lưu loát và tao nhã là những nét đặc trưng của
văn hóa Baekje. Các tác phẩm điêu khắc Phật giáo cùng các ngôi
chùa có kiến trúc tinh tế cho thấy óc sáng tạo về mặt tôn giáo của cư dân Baekje. Tại Hàn
Quốc ngày nay, các di tích từ thời Baekje thường là biểu tượng văn hóa địa phương đặc trưng
cho vùng Tây Nam.
Cũng chính vào thời kì Tam Quốc mà trang phục truyền thống Hàn Quốc – hanbok
ngày nay được định hình, bước đầu có những ảnh hưởng nhất định từ văn hóa Trung Quốc.
Người nông dân thường mặc màu trắng – đây cũng là màu biểu trưng cho tinh thần dân tộc
Hàn Quốc.
4
Tầng lớp thượng lưu mặc quần áo màu đỏ (tượng trưng cho niềm vui, sự ấm áp và
cũng là màu phổ biến), màu vàng, màu xanh và màu đen trắng. Đây là những màu sắc tượng
trưng cho năm yếu tố truyền thống trong vũ trụ học phương Đông. Mặc dù hanbok rất đa dạng
về màu sắc nhưng gam màu trắng vẫn là chủ đạo. Chất liệu được sử dụng phổ biến thời kì này
là dây gai dầu, sợi gai, lụa...
Trải qua nhiều quá trình thống nhất đất nước buổi đầu, nền văn hóa khu vực Tây Nam
cũng có những bước chuyển mình đầy sáng tạo. Biểu trưng là những hiện vật vô giá thấm
đẫm tinh thần dân tộc và thời cuộc như nghệ thuật thủ công kim loại vào thời Silla thống nhất
trong những bộ sưu tập nữ trang bằng vàng khảm ngọc trai, đồ gốm men ngọc bích với kĩ
thuật khảm dát và lớp nước men ngọc xanh mờ huyền bí vào thời kì Goryeo or Goguryeo ?/
thế kỉ VII (ngày nay là thành phố Kwangju). Xuôi theo dòng chảy lịch sử của đất nước, văn
hóa vùng Tây Nam có sự giao thoa, tiếp xúc trên diện rộng với các nền văn hóa thời kì chiến
tranh thống nhất, cũng như các nền văn hóa trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc; tiếp cận
với các tín ngưỡng đạo giáo như Khổng giáo, Lão giáo… làm tăng tính độc đáo và sáng tạo
của nền văn hóa khu vực này.
3.1.2 Vùng trung tâm
Khu vực này bao gồm hai tỉnh Chungcheongbuk-do và
Chungcheongnam-do, thuộc trung tâm miền tây của bán đảo
Triều Tiên. Vùng trung tâm tương đối rộng với những cánh
đồng lúa bát ngát được bao bọc bởi những dãy núi đá lởm
chởm.
Điều kiện tự nhiên của vùng đã góp phần đáng kể vào
sự phát triển tính cách cũng như những nét văn hóa độc đáo
của vùng. Sự phân bố văn hóa vùng được thể hiện qua các
điểm cơ bản sau:
5
Ảnh hưởng văn hóa cổ xưa thời kỳ Baekje:
- Mỹ thuật:
Nét đặc trưng nhất của nghệ thuật Baekje vẫn tồn tại cho đến
ngày nay là việc xử lý bề mặt mềm và các nụ cười nồng ấm như được
thể hiện trong hình Đức Phật Tam thế khắc trên một tảng đá tại
Seosan. Các nhà khảo cổ học khám phá ra các bộ sưu tập phong phú
vật dụng bằng vàng – trong đó có vương miện, khuyên tai, vòng đeo
cổ và thắt lưng. Các hạt vàng và sợi vàng tìm thấy trong các lăng mộ
cùng với vật dụng lộng lẫy minh chứng cho trình độ nghệ thuật vô
cùng tinh xảo của vương quốc này. Đồng thời, sự công nhận đạo Phật
chính thức trong thời kỳ Tam quốc dẫn tới sự sáng tạo nên các bức
tượng phật. Ví dụ là bức tượng Đức Phật Di Lặc (Đức Phật Tương Lai) đang ngồi thiền
định với ngón tay chạm má.
- Hội họa:
Phong cách hội họa thời Baekje còn lưu lại đến nay
được thể hiện qua các tấm lợp có phong cảnh của Baekje. Các
tác phẩm này có nét vẽ mạnh mẽ, phóng khoáng, bố cục chặt
chẽ.
Tại Hàn Quốc ngày nay, các điểm đặc trưng hội họa
truyền thống thời Baekje vẫn được giảng dạy và theo học
cùng với hội họa theo phong cách phương Tây, góp phần tạo
nên một trong các cộng đồng mỹ thuật đa năng nhất trên thế
giới.
- Bảo tàng:
Buyeo, thủ đô cuối cùng của vương quốc Baekje (18 TCN – 660 SCN), nổi bật với
bảo tàng quốc gia Buyeo, nơi lưu giữ bộ sư tập đầy đủ gồm khoảng 7.000 di vật thời kỳ
Baekje.
- Điều kiện tự nhiên mang âm hưởng văn hóa Baekje:
Sông Geumgang chảy dọc núi Gyeryongsan – nguyên là trung tâm của nền văn hóa
Baekje. Khu vực này có nhiều đồ tạo tác văn hóa độc đáo và di vật lịch sử.
3.1.3 Vùng Đông Nam
Vùng Đông Nam Hàn Quốc bao gồm ba thành phố lớn là Busan, Daegu, Ulsan và hai
tỉnh Gyeongsangbuk, Gyeongsangnam. Khu vực này trước đây là một trong tám tỉnh của
Triều Tiên (bao gồm cả Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên) có tên là Gyeongsang-do.
6
Vùng Đông Nam có ranh giới phía tây
giáp với tỉnh Jeolla và Chungcheong, phía bắc
giáp với tỉnh Gangwon, phía nam là eo biển
Triều Tiên, phía đông là biển Nhật Bản và vùng
được bao bọc bởi hai dãi núi Taebaek (Thái
Bạch) và Sobaek (Tiểu Bạch). Vùng này nằm
dọc theo lưu vực sông Nakdong, dòng sông dài
nhất Hàn Quốc chảy qua các thành phố lớn như
Daegu và Busan. Sông Nakdong bắt nguồn từ
dãy núi Taebaek chảy ra biển Nhật Bản (Đông
Hải). Sông xuất phát từ nơi giao cắt của các con
suối Cheolamcheon và Hwangjicheon ở
Dongjeom-dong, thành phố Taebaek, tỉnh
Gangwon và chảy về phía Nam của Hàn Quốc.
Giống như các vùng khác của Hàn Quốc, vùng Đông Nam được bao phủ bởi các loại
đá tiền sử như đá granit và các loại đá biến chất khác, tạo nên một nền văn hóa Hàn Quốc với
các công trình kiến trúc bằng đá, thể hiện rõ nhất ở thời kỳ vương quốc Silla (57 TCN – 935
SCN). Dọc theo phía Đông là đường bờ biển ôn hòa và môi trường biển tĩnh lặng cho phép
tàu thuyền đi lại an toàn. Đây là điều kiện lý tưởng để hình thành nên những cảng biển lớn
như cảng biển Ulsan, cảng biển Pohang, cảng biển Busan, trong đó cảng Busan hiện là cảng
lớn thứ năm thế giới. Ở vùng phía Nam của tỉnh Gyeongsangnam là đường bờ biển khúc
khuỷu với nhiều đảo và bán đảo.
Văn hóa truyền thống:
Văn hóa cổ Silla
Gyeongsangbuk ngày nay là quê hương của vương quốc cổ Silla. Kinh đô của vương
quốc chính là thành phố Gyeongju ngày nay. Nơi đây hiện lưu giữ nhiều nét truyền thống văn
hóa và các điểm khảo cổ. Chính do sự phân bố dày đặc các di sản văn hóa và kiến trúc lịch sử
mà Gyeongju còn được gọi là “Bảo tàng không tường” (Museum Without Walls). Trong đó,
các công trình kiến trúc đều được xây dựng bằng đá, mà nổi bật là chùa Seokguram (Thạch
Quật am), Bulguksa (Phật Quốc tự) hai di tích lịch sử đã được UNESCO công nhận là Di sản
văn hóa thế giới.
- Chùa Bulguksa - Phật Quốc tự hay “Ngôi chùa của nước Phật” tiêu biểu cho tầm cao ước
vọng của vương triều Silla, muốn tạo ra một thiên đường Phật trên mặt đất. Bởi lẽ, không chỉ
triều đình mà cả những người dân sống dưới triều đại Silla vàng son đều cho rằng đất nước
của mình chính là miền đất Phật. Nơi đây lưu giữ 7 bảo vật quốc gia: tháp đá Dabotap - Đa
Bảo tháp, tháp đá Seokgatap - Thích Già tháp, đôi cầu Liên Hoa và cầu Thất Bảo, đôi cầu
Thanh Vân và cầu Bạch Vân, tượng Phật thiền định, tượng phật A-di-đà và tháp xá lợi có hình
dáng như một chiếc đèn lồng bằng đá.
7
- Chùa hang Seokguram: nằm ở phía đông thành phố cổ Gyeongju, Seokguram nổi bật bởi
hình ảnh tượng Phật mang dáng vẻ bình thản nhìn ra hướng biển Đông. Bao quanh chùa là các
pho tượng La hán và Hộ pháp. Tất cả các bức tượng và mái vòm ở ngôi chùa này đều được
điêu khắc trên mặt đá granite phẳng, tạo nên một kiệt tác kiến trúc vượt thời gian. Seokguram
thể hiện lòng trung thành của người dân đối với sự linh thiêng của Phật giáo, con đường đến
Seokguram được xem như một hành trình về tinh thần đến cõi niết bàn của thời gian và không
gian.
Văn hóa Nho giáo
Vùng Đông Nam cũng là nơi chứa đựng rất nhiều di tích về truyền thống Nho giáo của
người Hàn Quốc. Thành phố Andong, Gyoengju nằm ở khu vực Gyoengsangbuk là các kho
báu của truyền thống Khổng giáo. Nơi đây có rất nhiều những ngôi nhà cổ của giới quý tộc,
đại diện là hai ngôi làng dân gian: Hahoe và Yangdong đã được UNESCO công nhận là di sản
văn hóa thế giới. Hai ngôi làng này nằm ở các đồng bằng ven biển nhỏ hẹp ở phía đông nam,
được xây dựng vào khoảng thế kỷ XIV - XV, với những gia trang, lớp học, trường dạy Nho
giáo và cả những ngôi nhà tranh mái lá, được xem như những ngôi làng lịch sử đại diện cho
tính gia tộc của Hàn Quốc. Hai ngôi làng có cách bố trí giống nhau, đều được bao bọc bởi
những ngọn núi ngợp cây rừng và nhìn ra một con sông với những cánh đồng mở rộng. Ngoài
ra, làng Hahoe còn được biết đến với một loại hình đặc biệt của vũ kịch hóa trang gọi là
Hahoe Talchum – Múa mặt nạ.
Làng Hahoe
Múa mặt nạ
Làng Yangdong
Văn hóa vật thể Gaya
Gaya là một vương quốc liên minh tồn tại trong thời gian 42 - 532 SCN, nằm ở bồn
địa Nakdong nên nét văn hóa của nền văn minh Gaya cũng mang đậm chất đồng bằng. Các
nhà khảo cổ đã khai quật được những nơi chôn cất và các đồ vật chôn kèm nằm trên các ụ đất
có niên đại từ cuối thế kỷ III và đầu thế kỷ IV tại Daeseong-dong ở Gimhae và Bokcheondong ở Busan. Đây là các khu mộ hoàng tộc của các thủ lĩnh Gaya. Rất nhiều những di vật
được tìm thấy như đồ gốm hình con vịt, tách hình sừng, gốm Gaya, mũ sắt, vương miện Gaya
và lính Gaya.
8
Gốm hình con vịt
Vương miện
Quân lính Gaya
Có thể thấy văn hóa thời Baekje, Silla, Gaya thể hiện rất đậm nét qua các vùng Tây
Nam, Trung Tâm, Đông Bắc. Tuy nhiên lại không thấy đặc trưng văn hóa thời Goguryeo. Có
thể giải thích là do Goguryeo nằm trải dài ở vùng phía Bắc (nay thuộc Bắc Triều Tiên) nên ta
không thấy nền văn hóa này phân bố ở vùng Nam Triều Tiên (Hàn Quốc).
Sau thời kỳ ba vương quốc, nổi lên là thời Choseon. Đây là thời gian cực kỳ phát triển
về kinh tế và văn hóa. Văn hóa thời kỳ này thể hiện rất rõ ở vùng Tây Bắc (Seoul và Inchoen)
và hiện nay có thể thấy những nét văn hóa thời Choseon rải rác khắp nơi tại thủ đô Seoul.
3.1.4 Vùng Tây Bắc
Vùng Tây Bắc được xem là vùng trọng tâm kinh
tế, văn hóa của Hàn Quốc. Cùng với thủ đô hoa lệ của
Hàn Quốc – Seoul thì Incheon được xem là đại diện tiêu
biểu cho vùng Tây Bắc về kinh tế lẫn văn hóa.
Seoul
Lịch sử của Seoul có thể bắt đầu vào năm 18
trước Công nguyên khi được chọn là thủ đô của Vương
quốc Baekje. Sau đó, Seoul là thủ đô của các vương triều
khác nhau, mỗi thời kì thành phố có một tên mới.
Tuy nhiên tầm quan trọng của Seoul thực sự bắt đầu trong triều đại Choseon với triết
lý Tân Nho giáo. Phật giáo và Công giáo đã bị cấm ở vùng núi và nông thôn. Đến năm 1910,
Seoul là nơi sinh sống của đủ tầng lớp từ vua, quý tộc đến nông dân và nô lệ. Tuy nhiên, dưới
sự cai trị của thực dân Nhật Bản, Seoul bị tàn phá. Cung điện bị phá hủy và văn hóa Hàn
Quốc dường như biến mất.
9
Ngày nay Seoul là một thành phố rất hiện đại với các tòa nhà chọc trời, hệ thống giao
thông tiên tiến và 10,3 triệu dân. Không chỉ đóng vai trò là thủ đô của Hàn Quốc, Seoul còn là
trung tâm của tất cả mọi lĩnh vực.
Seoul là một thành phố của các nền văn hóa khác nhau và các biến thể.
Tại Seoul, có thể tìm thấy các truyền thống văn hóa quý tộc . Người ta có thể thưởng
thức các điệu múa lễ hội truyền thống và ẩm thực cung điện hoặc trải nghiệm cuộc sống quá
khứ trong làng Hanok Bukchon. Seoul cũng được lấp đầy với không gian văn hóa trong vô số
các bộ phận của trung tâm thành phố. Daehakro và Hongdae được biết đến như không gian
văn hóa ngoài trời đại diện tại Seoul và công viên gần sông Hangang cũng được sử dụng rộng
rãi như một nền tảng văn hóa.
Làng Hanok Bukchon
Bukchon, tiếng Hán là "Thôn Bắc", đúng như cái
tên của nó, nằm phía Bắc của trung tâm Jongno và suối
Cheonggye, ở vị trí giữa cung điện Gyeongbok và
Changdeok. Bukchon Hanok là ngôi làng cổ với những
ngôi nhà truyền thống của Hàn Quốc có từ thời Choseon.
Những ngôi nhà ở làng cổ Bukchon vốn dành cho quan
lại và tầng lớp quý tộc trong xã hội phong kiến. Hanok là
một kiến trúc nhà gồm nhiều gian, được xây dựng phù
hợp với sự biến đổi của tự nhiên như: khí hậu, hướng gió giúp người Hàn Quốc vượt qua
được cả mùa đông lạnh giá. Còn vào mùa hè, tất cả gia đình cùng ngồi trên sàn của khu nhà
sinh hoạt chung và chống lại sự nóng bức nhờ hơi mát từ dưới nền nhà tỏa lên. Nhà cổ truyền
thống được xây dựng theo nguyên tắc: sau lưng là núi, trước mặt là sông nên thường được đặt
ở những vị trí rất lý tưởng. Khoảng sân giữa các khu nhà thường được dùng làm nơi sinh hoạt
chung để tổ chức các sự kiện của gia đình.
Văn hóa thời đại Choseon cũng được phản ánh rõ nét trong kiến trúc của nhà cổ truyền
thống khi mỗi khu nhà đều phân chia riêng thành các nơi dành riêng cho nữ giới và nam giới.
Ngoài ra, khu nhà còn gồm rất nhiều phòng với trọng tâm là không gian sinh hoạt của gia đình.
Phần lớn người dân thường để bàn thờ để thờ bài vị của tổ tiên ở vị trí bên trong nhà.
Cung điện Changdeokgung
Cung điện Changdeokgung là một điển hình tuyệt
vời cho kiến trúc và thiết kế cung điện của vùng Viễn
Đông, pha trộn hài hòa với cảnh quan xung quanh tại một
địa điểm đem đến điềm tốt lành.
Cung điện Changdeokgung đã có một sức ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển của việc thiết kế và quy hoạch để xây dựng cung điện và sân
vườn của Hàn Quốc, cũng như các nghệ thuật có liên quan khác trong nhiều thế kỷ. Nó phản
ánh được các giá trị kiến trúc tinh tế, hài hòa với không gian đẹp đẽ xung quanh. Khu cung
điện là một ví dụ nổi bật của kiến trúc cung điện Viễn Đông và thiết kế sân vườn, đặc biệt
10
trong cách mà những ngôi nhà được gắn kết vào nhau và hòa mình cùng khung cảnh tự nhiên,
được thay đổi để thích hợp với địa hình mà vẫn giữ được một rừng cây che phủ.
Cung điện Gyeongbokgung
Gyeongbokgung tiêu biểu cho nền nghệ thuật kiến
trúc cổ điển và là niềm tự hào của người dân Hàn Quốc. Đây
là cung điện đầu tiên của triều đại Choseon được xây dựng
vào năm 1395 bởi vua Taejo bao gồm 7.225 gian nhà.
Gyeongbokgung kết hợp hài hòa giữa bàn tay con
người và thiên nhiên, trong khuôn viên có những đại sảnh và
những khu vườn được chăm sóc công phu điển hình cho
nghệ thuật làm vườn của người Hàn Quốc. Ngày nay, nơi đây thường xuyên tổ chức các nghi
lễ diễu binh của ngự lâm quân để tái hiện quá khứ huy hoàng của các triều đại vua chúa.
Điện thờ Jongmyo
Điện thờ Jongmyo là một ví dụ nổi bật của phong cách kiến trúc điện thờ tổ tiên của
hoàng gia theo Nho giáo. Điện thờ Jongmyo còn có ý nghĩa quan trọng hơn nữa bởi nó giúp
gìn giữ một di sản văn hóa phi vật thể quan trọng dưới hình thức những nghi lễ truyền thống.
Jongmyo là điện thờ tổ tiên của hoàng gia
triều đại Choseon (1392 – 1910). Khu điện thờ
Jongmyo được đặt giữa thung lũng và bao quanh
bởi các ngọn đồi thấp. Tuy vậy, những cảnh quan
nhân tạo cũng đã được xây nên để tạo ra sự cân
bằng giữa các yếu tố tự nhiên sao cho đúng với
thuật phong thủy truyền thống Hàn Quốc.
Bản thân Jongmyo là một công trình bằng gỗ, kể cả
các khu nhà ở hai bên cánh trái và phải cũng được xây từ gỗ. Mái đầu hồi được hỗ trợ bởi
những rầm chia bằng gỗ khá đơn giản. Lối vào chính chỉ dành cho những linh hồn của các vị
tổ tiên quá cố và vì thế không ai được phép bước qua. Cổng phía đông là dành cho các vị vua
và cổng phía tây là lối vào của những nghệ nhân biểu diễn âm nhạc.
Ngôi đền thờ cúng bảy vị thần, trong đó bao gồm vị thần bảo vệ cổng cung điện, thần
bếp, thần bảo vệ đường sá, sảnh đường, các căn phòng, lối vào - lối ra và thần bảo vệ những
người đã chết vì bệnh dịch. Đền cũng là nơi thờ cúng bài vị của 83 thần dân trung thành với
các vị vua Choseon.
11
Khu Lăng mộ Hoàng gia của Hàn Quốc
Khu Lăng mộ Hoàng gia được xây dựng trong suốt năm thế kỷ, từ năm 1408 đến năm
1966. Những ngôi mộ này là nơi tôn vinh và tưởng nhớ tổ tiên, bày tỏ lòng tôn trọng trước
những thành tựu mà các bậc chí tôn hoàng gia đã đóng góp cho đất nước, khẳng định quyền
lực của hoàng gia, bảo vệ linh hồn tổ tiên khỏi quỷ dữ và không cho phép bất kì ai phá hoại.
Cảnh quan xung quanh Khu Lăng mộ
Hoàng gia Choseon được xây dựng theo những
nguyên tắc của thuật phong thủy Hàn Quốc, tạo
nên một không gian tinh tế cho truyền thống văn
hóa thờ cúng tổ tiên và những lễ nghi đi kèm.
Trong bối cảnh của nền văn hóa Nho giáo, khu
lăng mộ này đã được xây dựng hướng đến thiên
nhiên và vũ trụ, kết quả để lại là một truyền thống
tổ chức tang lễ độc đáo và mang nhiều ý nghĩa.
Khu Lăng mộ Hoàng gia Joseon còn là một ví dụ nổi bật cho kiến trúc quần thể và xây
dựng cảnh quan, qua đó thể hiện được một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của văn
hóa xây dựng mộ phần tại những ngôi mộ Hàn Quốc hay Đông Á nói chung.
Như vậy, nền văn hóa của Seoul chịu ảnh hưởng từ triều đại Choseon - thời điểm của
cải cách chính trị và kinh tế tuyệt vời và sáng tạo. Ở thời đại này, Nho giáo là hệ tư tưởng nhà
nước thông qua các ảnh hưởng văn hóa, thiết kế cung điện. Ngoài ra, thời tiết cũng có tác
động không nhỏ đến việc hình thành nền văn hóa nơi đây, điều này giải thích cho việc thiết
kế, xây dựng các cung điện ở Seoul. Đây là cơ sở của văn hóa truyền thống ngày hôm nay của
Seoul.
Incheon
Pháo đài Hwasong
Pháo đài Hwasong đã tạo nên một ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của kiến trúc
Hàn Quốc, kiến thiết kinh đô và thiết lập cảnh quan cũng như những nghệ thuật liên quan
khác trong nhiều thế kỷ. Nó là hình ảnh thu nhỏ
của đặc trưng cấu trúc pháo đài ở vùng Viễn Đông
và cũng là một cột mốc trong lịch sử kiến trúc
quân sự. Hwasong khác với pháo đài ở Trung
Quốc và Nhật Bản bởi nó là sự kết hợp tuyệt vời
để thực hiện những chức năng quân sự, chính trị
và thương mại.
Những bức tường thành khổng lồ của pháo
đài bao quanh một khu vực rộng lớn bao gồm cả
12
chân núi Paltaisan. Chúng đi theo địa hình của vùng đất thay vì đi theo một mô hình thông
thường hay mô hình đối xứng mà người ta tạo nên. Những bức tường thành ban đầu bao gồm
48 công trình phòng thủ trải dọc theo chiều dài của nó, trong đó có bốn cổng lớn, cửa cống
tháo nước, tháp quan sát, trung tâm chỉ huy, tháp phóng tên hàng loạt, pháo đài bắn súng, tháp
góc, cổng bí mật, tháp đèn hiệu, pháo đài và lô cốt. Ngoài ra, mỗi lỗ châu mai trên thành đều
có ba lỗ để bắn. Đa số những công trình này đều tồn tại đến ngày nay và còn khá nguyên vẹn.
Gốm xanh Hàn Quốc
Incheon còn nổi tiếng với gốm xanh được coi là bí ẩn nhất thế giới. Hiện nay, không ai
biết chính xác cách tạo ra nước men xanh ngọc đặc biệt ấy
Vào thời kỳ Goryeo or Goguryeo?? (918-1392) xuất hiện các đồ sứ men ngọc bích với
màu sắc rất đẹp, đặc biệt màu xanh ngọc bích, với hàng loạt các sản phẩm khác nhau, trong đó
có bình, lọ rượu, đĩa, tách, lư hương và những lọ hoa với những trang trí tinh tế được khắc,
đắp nổi hoặc dát.
Những tác phẩm men ngọc bích này được sản xuất trong thế kỷ XII và XIII với mục
đích rõ ràng là trưng bày chứ không phải sử dụng. Có thể nói đồ gốm men ngọc bích này thể
hiện khát vọng về một thế giới tâm linh vượt lên trên khỏi cuộc sống trần tục.
Cả hai thiết kế và hình dạng được sử dụng trong đồ gốm thời Goryeo or Goguryeo??
là những đại diện của các tín ngưỡng tâm linh của người dân Hàn Quốc. Những niềm tin đã
được bồi dưỡng bởi Shaman giáo và Phật giáo của thời đại.
3.2 VĂN HÓA HIỆN ĐẠI
3.2.1 Vùng Tây Bắc
Phố Tàu (Chinatown) ở Incheon
Đây là phố Tàu duy nhất còn tồn tại tới ngày nay ở Hàn Quốc. Hơn 500 Hoa kiều sinh
sống ở khu vực này vẫn giữ được những nét văn hóa Trung Hoa truyền thống. Đây là nơi vẫn
còn lưu giữ được không khí thời cổ được hình thành vào năm 1883, cùng với việc cảng
Incheon bắt đầu mở cửa. Người Trung Quốc bắt đầu vào Hàn Quốc buôn bán rất đông, chủ
yếu qua bán đảo Sơn Đông. Lúc bấy giờ, tổng dân số của Incheon vào khoảng 50.000 người
thì người Trung Quốc có tới gần 10.000 người. Khu phố Cheong Kwan bắt đầu trở nên phát
đạt nhờ các thương nhân đến từ Trung Quốc, họ đưa muối và các loại ngũ cốc vào qua cảng
Incheon và giao dịch tại đây.
Incheon Chinatown là quê hương thứ hai của người Hoa ở Hàn Quốc. Mỗi một góc
phố nơi họ sống đều mang đậm nét hình ảnh của Trung Quốc truyền thống.
13
Bên cạnh các yếu tố truyền thống thì mối quan hệ thông thương với Trung Quốc đã tác
động mạnh mẽ đến nền văn hóa cổ truyền của Incheon.
Bảng so sánh hai đặc trưng về trang phục và ẩm thực ở vùng Tây Bắc
ĐẶC TRƯNG VỀ TRANG PHỤC
ĐẶC TRƯNG VỀ ẨM THỰC
Seoul: Trang phục truyền thống Hanbok Seoul: Ẩm thực cung đình thật sự phát triển
nhưng đa dạng về màu sắc, chất liệu vải cao mạnh ở Seoul. Seoul là trung tâm kinh tế của
cấp.
Hàn Quốc, đặc biệt là ở triều đại Choseon
nên ở đây tập trunghầu hết các đặc sản ẩm
thực của các vùng miền.
Incheon: Bên cạnh Hanbok thì Incheon còn
xuất hiện thêm trang phục của người Trung
Quốc. Dưới ảnh hưởng từ chất liệu vải của
Trung Quốc, Hanbok của vùng Incheon
được may thêm 1 lớp lụa nhằm làm mát cơ
thể vào mùa nóng
Incheon: Bên cạnh những món ăn truyền
thống của người Hàn Quốc còn có văn hóa
ẩm thực Trung Hoa. Mội vài món ăn của Hàn
Quốc đã được thay đổi để phù hợp với khẩu
vị của người Hoa và ngược lại như:
Chajangmyeon - món mì trộn nước sốt đậu
đỏ nổi tiếng được người Hàn Quốc ngày nay
rất ưa chuộng cũng được khai sinh từ thời kỳ
này. Khác với Chajangmyeon mang vị ngọt
đã được thay đổi để phù hợp với khẩu vị của
người Hàn Quốc, Chajangmyeon bán ở
Incheon Chinatown có đặc trưng là vị mặn
của muối vì phần lớn Hoa kiều sống ở đây
đều đến từ vùng Sơn Đông (Trung Quốc), nơi
mọi người thích vị mặn của muối. Đây là nơi
chúng ta có thể thưởng thức các loại bánh
14
quy và bánh ngọt truyền thống của Trung
Quốc.
3.2.2 Vùng Tây Nam
Vùng phía tây có đường bờ biển khúc khuỷu, quanh co với rất nhiều đảo, bán đảo và
vũng, vịnh. Thủy triều lên tạo ra những bãi sình lầy là nguồn lợi tự nhiên vô cùng quan trọng
đối với con người, chúng không những cung cấp một ngư trường tốt mà còn đóng vai trò
không nhỏ trong việc thanh lọc ô nhiễm. Từ thời xa xưa, những vùng sình lầy này là những
cánh đồng lúa. Ngày nay, những vùng sình lầy này đã được cải tạo thành những vùng canh tác
và đang được triển khai thành dự án cải tạo lớn.
Khí hậu
Vùng Tây Nam có khí hậu tương đồng với cả nước. Tuy nhiên, vào mùa đông, gió
mùa tây bắc lạnh và khô thổi từ vùng Seberia qua Hoàng Hải tạo ra mưa cho vùng biển phía
tây.
Vào mùa hè, gió mang rất nhiều khí ẩm từ đại dương thổi vào, gây ra mưa lớn vào
tháng 6. Lượng mưa trung bình không nhỏ, vì vậy, vùng đất thấp phía Tây chiếm ưu thế về
các loài cây lá rộng.
Nhìn chung, khu vực miền Tây Nam có khí hậu ấm áp hơn so với khu vực phía Bắc.
Vào giữa tháng 4, được hưởng thời tiết êm dịu với núi và cánh đồng tràn đầy màu sắc rực rỡ
của các loài hoa dại. Đây là lúc người nông dân chuẩn bị gieo mạ cho vụ lúa hàng năm.
Thổ nhưỡng
Với đặc điểm khí hậu, cơ cấu địa chất, biển cả, sông ngòi, vùng đất phía Tây Nam Hàn
Quốc có những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển ngành nông nghiệp. Vì thế mà vùng
Tây Nam trở nên giàu có nhờ những cánh đồng lúa phì nhiêu, được gọi là vựa lúa của đất
nước. Từ đó là cơ sở hình thành nên vùng văn hóa nông nghiệp Tây Nam.
Cùng với những đồng bằng phù sa ven biển, còn có những đồng bằng lưu vực sông
ngòi, được tạo nên bởi sự xói mòn đất do dòng chảy của các con sông để lại, cũng trở thành
vùng canh tác nông nghiệp từ rất lâu đời.
Với đặc điểm khí hậu ôn đới, vào mùa đông
giá lạnh không thể thường xuyên có rau tươi, việc
bảo quản rau để dùng đã được người dân chú ý. Do
vậy, món kim chi được ra đời với những hương vị
và nguyên liệu đặc trưng vùng miền và trở thành
món ăn quốc hồn quốc túy của dân tộc. Bên cạnh đó,
vùng địa hình Hàn Quốc ba mặt đều giáp biển nên
15
trong đời sống ẩm thực của người Hàn Quốc còn có rong biển, nguồn thức ăn nhiều protein.
Từ lúc hình thành xã hội buổi sơ khai, đến thời kì ngành nông nghiệp xuất hiện và trở
thành loại hình kinh tế chủ yếu, còn xuất hiện thêm nhiều biểu hiện văn hóa. Đó là những hoạt
động làng xã, hệ thống lễ tết dân gian - tập trung vào các mục đích cầu nông, cầu ngư, cầu
bình an, may mắn, tạ ơn tổ tiên, tạ ơn thần linh như Tết Nguyên đán – Seollal, Tết Đoan Ngọ Dano, Tết Trung thu – ChuSeok, Tết Đông chí – Dongji…
Các trò chơi dân gian trong lễ tết cũng mang đậm chất nông nghiệp, nông thôn, nhằm
củng cố mối quan hệ gia đình, làng xã. Ngoài mục đích vui chơi, giải trí, các trò chơi còn
chứa đựng những tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp như: trò chơi bập bênh, kéo
co, đấu vật, giả làm bò, giả làm rùa….
Sự hòa hợp màu sắc của thiên nhiên được con người áp dụng vào trang phục lễ hội,
trong các món ăn, trong hội họa… Đó là những màu sắc chan hòa tươi thắm của núi sông, hoa
lá, cây cỏ trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.
Trên nền tảng văn hóa nông nghiệp đó, ta thấy rất rõ nền văn hóa truyền thống của
Hàn Quốc thấm đẫm tính nhân văn: trọng tình nghĩa, hòa hợp với thiên nhiên, mẫn cảm và
tinh tế.
Thành phố Chonju thuộc tỉnh Jeolla bắc là thành phố đứng thứ bảy của Hàn Quốc, là
thủ phủ cuối cùng của Baekje, nơi khởi nguồn của triều Choseon với 500 năm rực rỡ. Chonju
là nơi làm ra giấy Hanchi, là quê hương của những thanh âm, nổi tiếng với món bibimpab –
cơm trộn rau và thịt băm và cũng là vùng đất có văn hóa ẩm thực phát triển.
16
Kwangju, thành phố đứng thứ năm của
Hàn Quốc, là thành phố chính của tỉnh
Jeollanam. Đây là trung tâm hành chính, kinh tế
và giáo dục của tỉnh qua hàng thế kỉ. Viện bảo
tàng Quốc gia Kwangju hiện còn lưu giữ những
hiện vật thuộc các triều Tống và Nguyên của
Trung Quốc. Thêm vào đó là những di tích thời
tiền sử ở khu vực Kwangju, những di vật thuộc
vương triều Baekje, những hiện vật khảo cổ học,
những tác phẩm hội họa, cùng những tác phẩm
nghệ thuật khác, cũng được trưng bày ở đây.
Namwon là thành phố hàng tỉnh duyên dáng và cũng là cửa ngõ ra vào vườn quốc gia
núi Chiri. Thành phố này nổi tiếng với tòa nhà Chunhyang, mang tên một thiếu nữ tài sắc
tuyệt trần và là nơi xuất phát thể loại hát truyền thống của Hàn Quốc - Pansori Chunhyang.
Vùng Namwon cũng nổi tiếng với món chuotang (súp cá đen).
Núi Chiri vốn là vườn quốc gia đầu tiên của Hàn Quốc, là ngọn núi cao thứ hai sau núi
Halla ở Jeju, lan tỏa ra ba tỉnh Jeolla nam, Jeolla bắc và Kyongsang nam. Với cảnh quan được
thiên nhiên ban tặng, núi Chiri thực sự là một bức tranh phong cảnh tráng lệ. Dưới chân núi
có nhiều ngôi chùa thờ Phật, trong đó có chùa Hwaomsa, cùng rất nhiều di tích của quá khứ.
Có nhiều báu vật được lưu giữ trong chùa Hwaomsa, trong đó có Kakwangjon - kiến trúc gỗ
tiêu biểu của Hàn Quốc và Taeungjon - nổi tiếng bởi cấu trúc lắp mộng, không dùng đinh.
Chùa Chonggwang nằm ở phía Tây Nam là một trong những ngôi chùa lớn nhất ở Hàn
Quốc, được xây dựng vào thời Silla, ngôi chùa đã trở thành trung tâm Thiền phái vào thế kỉ
VII.
Chùa Unjusa nằm cách thị trấn Hwasunup 30km về phía Tây Nam được xây dựng vào
thời kỳ Silla Thống nhất (676 - 935), có 80 tòa kiến trúc và 80 pho tượng Phật còn sót lại từ
1.000 pho tượng Phật và 1.000 tòa kiến trúc thuộc ngôi chùa xưa kia. Theo thuyết địa chất địa tầng truyền thống, để loại bỏ được những vụ sụt lở do cấu tạo lòng đất không cân đối của
bán đảo Triều Tiên mà 1.000 pho tượng Phật và 1.000 ngôi nhà đã được dựng lên ở vùng Tây
Nam này.
Thành phố cảng Mokpo nằm ở góc Tây Nam của bán đảo được biết đến là nơi có
những món hải sản ngon nức tiếng, cảnh quan thiên nhiên tuyệt mỹ. Vào năm 1897, Mokpo là
nơi đầu tiên của tỉnh Jeolla mở cửa để văn hóa bên ngoài du nhập vào. Nền văn minh hiện đại
được du nhập đã làm thay đổi thành phố vốn yên tĩnh thoát ra khỏi xã hội truyền thống Hàn
Quốc. Là nơi tập trung tất cả những sản vật phong phú của tỉnh Jeolla nam, Mokpo có 8 bảo
tàng và triển lãm như Quán văn học Mokpo, Nhà văn hóa nghệ thuật, Bảo tàng lịch sử nhân
dân. Trong đó, phải kể đến Viện nghiên cứu tài sản văn hóa hải dương Quốc gia, là trung tâm
nghiên cứu văn hóa hải dương duy nhất ở Hàn Quốc.
17
3.2.3 Vùng phía Nam
Đảo Jeju (hay còn gọi là Jejudo) là hòn đảo lớn nhất Hàn Quốc và cũng là tỉnh nhỏ
nhất của đất nước này. Hòn đảo có diện tích bề mặt 1.846km2. Nhờ nằm cách đất liền 130km
nên đảo Jeju chịu ảnh hưởng bởi khối khí đại dương: mùa hè thì mát, mùa đông thì ấm. Nhiệt
độ cao nhất trong những tháng hè không quá 33°C, và không dưới 10°C vào mùa đông, dân số
khoảng trên 500.000 người.
-
Ba thứ nhiều nhất trên đảo là: Gió, đá và phụ nữ
Ba thứ không có trên đảo là: Ăn trộm, ăn mày và cửa lớn
Đặc trưng văn hóa
Do sự cô lập tương đối của hòn đảo, người dân của Jeju đã phát triển một nền văn hóa và
ngôn ngữ khác biệt so với những người của đại lục Hàn Quốc. Jeju là nhà của hàng ngàn
truyền thuyết địa phương.
Đá
Đảo Jeju được hình thành do nham thạch
của núi lửa Halla, một ngon núi lửa đã ngừng
hoạt động từ rất lâu. Halla là ngọn núi thiêng, cội
nguồn của Jeju, có truyền thuyết về sự sống của
thượng đế. Đá ở đây có mặt trong đời sống của
người dân, . Ở Jeju, đá có mặt ở khắp mọi nơi và
là đặc trưng của hòn đảo này. Đá được mang ra
xây nhà, đắp thành cổng và tường bao quanh nhà, đá được mang ra làm cột mốc phân cách
giữa làng này làng kia, được đắp thành những bờ ngăn cách thửa ruộng, thửa đất... Có thể nói,
mọi văn hóa của Jeju đều gắn liền với đá. (Ảnh: Vách đá Jesangjeolli có cấu trúc đặc biệt,
được ví như một đài tưởng niệm văn hóa của Hàn Quốc)
Một số bức tường đá được xây dựng để
bảo vệ chống lại quân xâm lược Nhật Bản trong
suốt triều đại Joseon và là bậc tam cấp ở các bến
cảng ở Jeju. Doldam (bức tường đá) thay đổi
khác nhau trong cách thức xây dựng, hình dạng,
địa điểm và mục đích. Thường thấy nhất là
batdam (hoặc batdoldam), dùng như một ranh
giới để giải quyết tranh chấp giữa các nước láng
giềng về đất đai. Nó cũng đóng vai trò quan trọng của việc giữ đất nông nghiệp.
Có lẽ các tạo tác văn hóa khác biệt và phổ biến nhất là Dol Hareubang (đá ông/ tổ
phụ), được chạm khắc từ một khối đá bazan. Đây được xem là vị thần bảo vệ làng. Tượng đá
Dongjaseok là một vị thần bảo vệ linh hồn. Để trục xuất linh hồn ma quỷ và những điều
không may mắn, người dân đảo Jeju xây dựng geoukdae và tháp đá cùng các đền đá trong núi
và thung lũng. Có thể nói, đá là một phần đời sống tôn giáo của cư dân đảo, bảo vệ cuộc sống.
của họ và chăm sóc các linh hồn.
18
Năm tượng đá bazan cao từ 60 đến 65 cm với
từng khuôn mặt biểu hiện sắc thái riêng ở phía
trước của ngôi đền Hwacheon, nằm ở
Hoecheon-dong, thành phố Jeju. Có nhiều giải
thích khác nhau về các bức tượng này: có thể là
một trong nhiều bức tượng Phật hay một vị thần
duy nhất của 18.000 vị thần tồn tại lâu đời trên
đảo Jeju.
Một tạo tác khác từ đá là bangsatap, một dạng tháp tròn nhỏ làm bằng nhiều đá, được
tin là có thể bảo vệ người trong làng và đem đến may mắn cho họ. Bangsatap cũng là một
minh chứng cho đức tin ở đảo Jeju. Nếu đặt gạo vào trong các bangsatap thể hiện ước muốn
kiếm được nhiều tiền thì việc đặt một nồi sắt vào các tháp đá này thể hiện hi vọng vượt qua
một thảm họa hoặc chiến tranh.
Đá trở thành quà lưu niệm đặc trưng. Những bức tượng bán thân Dol Hareubang - Tổ
phụ của Hàn Quốc được tạc bằng đá nâu xám hoặc đen, đủ kích cỡ. Người bản xứ tin rằng, ai
muốn có con trai cứ đem Tổ phụ về thờ và sờ vào mũi. Đá còn được biến thành các con giáp
và vật trang trí. Rải rác có những cột đá xếp chồng thành hình tháp chuông để du khách đi
ngang nhét các viên sỏi vào cầu may, cầu an cho bản thân và gia đình.
Ở Jeju, đá có ở khắp mọi nơi, cả dưới biển và trong đất. Đá, ngăn xếp đá và bức tượng
đá là bằng chứng sống về thời gian khó khăn mà người Jeju đã trải qua. Đá, một phần thiết
yếu văn hóa Jeju có lẽ là đại diện tốt nhất cuộc sống buồn nhưng đầy hy vọng.
Gió
Jeju là một hòn đảo nên đón rất nhiều gió. Cả đá và gió đều phổ biến và có ảnh hưởng
đến cuộc sống người dân Jeju cũng như nền văn minh của họ theo nhiều cách.
Các ngư dân đặc biệt xem trọng gió. Gió là một chủ thể gây nên sự sợ hãi và sợ hãi có
thể quyết định cuộc sống và cái chết. Người Jeju xem bão như sự tức giận của thần và do đó
đặt rất nhiều nỗ lực để làm hài lòng thần. Đó là lý do tại sao người Jeju chân thành thờ
19
Yeongdeong, vị thần chịu trách nhiệm cho sự an toàn và thu hoạch trên biển. Thậm chí ngày
nay, nghi thức trừ tà Yeondeung vẫn còn được tổ chức vào mỗi tháng hai tại các làng ven biển.
Phụ nữ
Trong một nền văn hóa mà Khổng giáo giữ một ảnh hưởng to lớn, người phụ nữ Hàn Quốc
giữ một vai trò khiêm tốn trong xã hội. Họ làm việc nhà, chăm sóc chồng, nuôi dạy con cái và vai
trò trụ cột kinh tế chính thuộc về người chồng. Thế nhưng, phụ nữ của đảo Jeju không như thế - họ
chính là chủ nhân của nền kinh tế đang ngày không ngừng phát triển của hòn đảo xinh đẹp này.
Ở Jeju, phụ nữ nhiều hơn đàn ông. Họ có tính cách mạnh mẽ, độc lập, đảm trách nhiều
công việc nặng nhọc nhưng vẫn chu toàn thiên chức làm mẹ và nội trợ. Tượng đá phụ nữ "oằn lưng
cõng nước" xuất hiện nhiều trên đảo là ghi nhận sự hy sinh lặng thầm của họ.
Kinh tế của hòn đảo này chủ yếu là: nông nghiệp, ngư nghiệp và du lịch và 70% lao động
trong các ngành này là phụ nữ. Điều này không chỉ thuộc về hiện tại, nó bắt nguồn từ xa xưa, khi
những người đàn ông đi biển và nhiều người không trở về. Khi đó, người phụ nữ ở nhà phải nuôi
con, chăm sóc cha mẹ già. Họ cũng tự mình đi đánh cá, trồng trọt, chăn nuôi gia súc để bảo đảm
cuộc sống của gia đình. Dần dần, sức mạnh sinh tồn đó đã tạo nên ý thức về lao động, ý thức làm
chủ gia đình, làm trụ cột kinh tế của người phụ nữ. Phần đông người phụ nữ ở đây đã nhận lấy vai
trò làm đàn ông, thế nên người Jeju mới có câu:
Vợ anh đánh cá ngoài khơi,
Anh thời ngồi mát thảnh thơi uống trà
Một khía cạnh khác biệt của Jeju là các cấu
trúc gia đình mẫu hệ , đặc biệt là ở Udo và Mara,
nhưng cũng tồn tại trong phần còn lại của tỉnh.
Các haenyo (hải nữ), thường là người đứng đầu
của gia đình, bởi vì họ kiểm soát thu nhập. Không
phải những “nàng tiên cá” với dáng vóc mỹ miều,
haenyo trẻ nhất ở đây nay đã ngoài 50.
Dù sự xuất hiện của những haenyo xung
đột với văn hóa Nho giáo, vốn xem phụ nữ ở hàng thấp hơn, haenyo đã giữ một địa vị đặc biệt
trong xã hội Jeju. Từng bị ngăn cản dưới thời phong kiến với lý do không được phô bày cơ thể
dưới nước, đến nay người ta vẫn nhắc đến “dấu ấn haenyo”. Đó là do họ đã đấu tranh thành công,
trở thành trụ cột trong nhiều hộ gia đình, đạt được quyền tự chủ, độc lập kinh tế, đặc biệt mạnh mẽ
trong những năm 1970. Cho đến hôm nay, những gì các haenyo mặc lên người vẫn chỉ là những
thiết bị lặn cơ bản: bộ đồ lặn biển đen bóng, một lưới đánh cá có gắn phao trắng... Bí quyết sức
khoẻ của các haenyo được lý giải họ chăm chỉ cầu nguyện thượng đế vào lúc tia nắng đầu tiên
xuất hiện trên đỉnh Seongsan Ilchulbong - đỉnh Bình Minh.
Nhưng haenyo đang dần mất đi. Theo số liệu của Tổng cục Du lịch Hàn Quốc, vào những
năm 1960 có khoảng 30.000 haenyo lặn hằng ngày tại đảo Jeju. Sau hơn bốn thập niên, con số còn
20
khoảng vài nghìn người, 2/3 trong đó đã trên 60 tuổi. Haenyo đang ngày càng già đi và không có
thế hệ kế cận do phụ nữ trẻ phần đông muốn lên thành phố hoặc muốn làm một công việc bình
thường.
Làng dân tộc Soengup
Làng dân tộc Soengup từng là thủ phủ của bộ tộc Cheongeui – Hyeon giai đoạn từ 1410 –
1914.
Làng Soengup là bảo tàng sống ngoài trời của Jeju, từ cách học hành đến sinh hoạt, là nơi
lưu giữ những nét văn hóa dân gian độc đáo. Điều thú vị là làng vẫn có ngư dân sinh sống bình
thường mà không phá vỡ nét đẹp cổ xưa. Để Jeju được như hôm nay, Chính phủ Hàn Quốc đã có
nhiều chính sách ưu đãi và khuyến khích mọi người bảo tồn văn hóa. Nhà nước miễn phí tiền học,
giảm tiền điện nước cho dân đảo, đào tạo nghiệp vụ du lịch cho chủ nhà, hỗ trợ các đoàn làm
phim... Gần đây là miễn visa cho du khách đến Jeju. Jeju còn có nhiều điểm hẹn kỳ thú như: Bảo
tàng Gấu bông Teddy với lịch sử hơn 100 năm xuất hiện; Công viên Love Land - chỉ dành cho du
khách trên 18 tuổi, trưng bày hình ảnh, giới thiệu về giới tính và nghệ thuật tình dục...
Ngôi nhà lá của ngư dân được phục dựng và ngôi nhà cổ đặc trưng của người Hàn Quốc với mái ngói âm dương.
Dưới những tán cây lưu niên là hàng trăm kiểu nhà truyền thống của các tầng lớp xã hội
khác nhau dưới triều đại Choseon: tầng lớp thượng lưu (quan chức nhà nước, trong hoàng tộc…),
tầng lớp trung lưu (địa chủ, ngư dân, nông dân…) và tầng lớp dưới (thợ săn, con hát, vũ công, đồ
tể…). Những ngôi nhà nho nhỏ, tường xây bằng đá đen sẵn có ở Jeju là những nham thạch nhờ sự
phun trào của núi lửa, mái lợp bằng tranh dầy trông giống như những chiếc nấm khổng lồ. Còn có
trường học và đền thờ tôn giáo với mái lợp ngói đen cao vút. Những khuôn viên nho nhỏ được
quây quanh bằng hàng rào đá với mấy nóc nhà tranh cho thấy sự quây quần của các gia đình nông
dân Hàn Quốc giống như ở làng quê Việt Nam. Trong các nhà còn giữ lại một số dụng cụ trong
sinh hoạt gia đình mà người dân bản địa sử dụng từ bao thế hệ trước. Xung quanh là những công
trình phụ trợ: nhà bếp, chuồng nuôi gia súc, gia cầm, vườn rau, chum vại của những nông dân
nghèo.
- Xem thêm -