Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nvthpt24. phương pháp tiếp cận tác phẩm thơ tự do trong nhà trường thpt từ góc đ...

Tài liệu Nvthpt24. phương pháp tiếp cận tác phẩm thơ tự do trong nhà trường thpt từ góc độ đặc trưng thể loại.

.DOC
23
71
138

Mô tả:

Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT CHUYÊN LAM SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NĂM HỌC 2011 - 2012 Tên đề tài: PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN TÁC PHẨM THƠ TỰ DO TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT TỪ GÓC ĐỘ ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI. Họ và tên: Nguyễn Thị Thư Chức vụ: Giáo viên Bộ môn: Ngữ văn Đơn vị: Trường THPT chuyên Lam Sơn Thanh Hóa, tháng 5 năm 2012 1 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] PHẦN MỘT: ĐẶT VẤN VỀ 1.1. Lí do chọn đề tài Dạy học tiếp nhận tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại là một trong những yêu cầu cơ bản của chương trình Ngữ văn THPT hiện nay. Khác với chương trình văn học THPT trước đó, sắp xếp vị trí các tác phẩm văn học theo trình tự thời gian, chương trình Ngữ văn THPT hiện nay được biên soạn theo tiêu chí cung cấp một cái nhìn đầy đủ, toàn diện về sự phong phú, đa dạng của thể loại văn học. Các tác phẩm thường được sắp xếp theo nhóm thể loại văn học, bao gồm các thể loại truyện ngắn, thơ trữ tình, kịch, tùy bút, văn chính luận, phê bình văn học… Đặc trưng thể loại văn học trở thành điểm tựa, đồng thời cũng là cái đích hướng tới trong quá trình tiếp cận, khám phá thế giới nghệ thuật của mỗi tác phẩm. Trong chương trình giảng dạy văn học ở bậc THPT, thơ tự do chiếm một vị trí quan trọng. Những sáng tác thơ của văn học Việt Nam hiện đại ở thế kỉ XX trong chương trình Ngữ văn THPT hầu hết là các tác phẩm thơ tự do. Hơn thế đó đều là những tác phẩm xuất sắc, tiêu biểu của từng thời kì văn học. Quá trình hình thành, phát triển của thơ tự do là một trong những biểu hiện của sự vận động, phát triển của nền văn học dân tộc. Qua việc tiếp nhận các tác phẩm thơ tự do, học sinh không chỉ có dịp nâng cao nhận thức thẩm mĩ, làm phong phú hơn cho đời sống tâm hồn mà còn nâng cao nhận thức về các thời đại văn học đã qua. Do vậy, việc khám phá, phân tích tác phẩm thơ tự do, ngoài việc chú ý đặc trưng thi pháp thơ trữ tình, học sinh cần được trang bị những hiểu biết về thơ tự do cũng như những định hướng cần thiết trong việc tiếp cận, phân tích thể thơ này. Phân tích, khám phá tác phẩm văn học theo đặc trưng thi pháp thể loại có thể coi là một con đường đưa người học thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Việc tìm hiểu tác phẩm thơ tự do cũng vậy. Tuy nhiên trong thực tế, những hiểu biết về thơ tự do còn cực kì sơ sài, hứng thú thẩm mĩ của 2 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] học sinh về thơ tự do còn rất mơ hồ,, hời hợt. Ngay thuật ngữ “Thơ tự do” cũng chưa được hiểu, được cắt nghĩa một cách rõ ràng, quan niệm về thơ tự do cũng chưa hoàn toàn thống nhất. Vì vậy người học chưa thể tìm được mạch dẫn cho hứng thú học tập, khám phá tác phẩm. Năng lực cảm hiểu thơ tự do nói riêng và thơ nói chung là khả năng phát hiện ra cái hay của tác phẩm. Để có thể phân tích, cắt nghĩa, bình giá một tác phẩm thơ, trước hết giáo viên phải làm chủ được thi pháp thể loại đồng thời cảm hiểu được cái hay của tác phẩm ấy. Nhưng thường là vẻ đẹp của tác phẩm không lộ rõ mà thường ẩn khuất trong ngôn ngữ, nhịp điệu, hình ảnh, trong những khoảng trắng của thơ. Thực tế nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc lựa chọn cái hay, nét độc đáo, “điểm sáng thẩm mĩ” của tác phẩm thơ tự do để hướng dẫn học sinh phân tích, cắt nghĩa. Vì những lí do trên, trong chuyên đề nhỏ này chúng tôi muốn đề xuất một số phương pháp cơ bản trong việc tiếp cận, phân tích tác phẩm thơ tự do dựa trên những hiểu biết về đặc trưng thi pháp của thể loại để góp một phần nhỏ tạo nên hiệu quả cao hơn trong việc giảng dạy và học tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thong. 1.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu, tổng kết lí luận và thực tiễn - Phương pháp tổng hợp và thống kê - Phương pháp đối sánh - Phương pháp thực nghiệm sư phạm PHẦN HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận của đề tài 1.2. Thơ tự do và đặc trưng thi pháp thơ tự do 3 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] 1.2.1. Khái niệm thơ tự do Dựa vào những tiêu chí và mục đích nghiên cứu, người ta có thể chia thành các thể loại văn học khác nhau. Đối với thơ “Dựa vào thể luật, có thể chia ra thơ cách luật và thơ tự do”và “Đứng về mặt thi pháp, thơ Việt Nam xưa nay phân chia một cách tổng quát thành hai loại lớn: thơ cách luật và thơ tự do” Thơ cách luật được hiểu là những bài thơ làm theo những thể thức ổn định, cố định về mặt thi pháp. Thơ cách luật Việt Nam có hai nguồn: thơ cổ điển Trung Quốc (thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn…) và thơ dân gian Việt Nam (lục bát, song thất lục bát, hát giặm…). Còn thơ tự do, thật ra không phải là thơ hoàn toàn phủ định mọi luật lệ của thơ, nhưng đã có sự phá cách về hình thức đúng như tên gọi của nó dưới sự chi phối của cảm xúc thơ. Nhà nghiên cứu Trần Thanh Đạm từng nhận định: “Gọi là thơ tự do vì nó bao gồm các loại thơ không theo một thể thức ổn định, cố định nào cả. Số chữ trong từng câu, số câu trong từng bài, cách hiệp vần, cách ngắt nhịp hoàn toàn phóng khoáng, tùy theo nội dung bài thơ và chủ định của nhà thơ.Việc nhận diện, tìm hiểu thơ tự do luôn được đặt trong thế đối sánh với thơ cách luật. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thơ tự do là “hình thức cơ bản của thơ, phân biệt với thơ cách luật ở chỗ không bị ràng buộc vào các quy tắc nhất định về số câu, số chữ, niêm đối,…Thơ tự do là thơ phân dòng nhưng không theo thể thức nhất định”. Nhà thơ Mã Giang Lân cũng quan niệm: “Thơ tự do chủ yếu nói đến cấu trúc hình dáng của nó, số chữ trong câu không hạn định, có thể một chữ đến mười chữ hoặc nhiều hơn. Số câu trong khổ thơ cũng không hạn định, có thể là một câu đến nhiều câu. Và gieo vần cũng rất linh động rất tự do, có khi không có vần, chỉ có nhịp” Từ những quan niệm trên, có thể đưa ra một định nghĩa thống nhất về thể thơ tự do như sau: Thơ tự do được đặt trong thế đối lập với thơ cách luật, hoàn toàn không bị ràng buộc bởi một quy tắc nhất định nào về số chữ trong câu, số câu trong bài cũng như về niêm, đối, vần, nhịp… 4 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] 1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của thơ tự do trong văn học Việt Nam 1.2.2.1. Thơ tự do trong phong trào Thơ mới Phong trào Thơ mới (1932 – 1945) là một cuộc cải cách về hình thức nghệ thuật thơ, tức là về thi pháp, là một bước chuyển mình phá vỡ những ràng buộc, những phép tắc của thơ cũ, đồng thời cũng khởi xướng, đề xuất các thể thức thơ mới, trong đó có thơ tự do. Mặc dù không phải là thành viên của phong trào thơ mới nhưng trong thơ Tản Đà đã bắt đầu manh nha những dấu hiệu của thơ tự do khi thơ ông có bước chuyển mình từ thơ trữ tình điệu ngâm sang thơ trữ tình điệu nói. Người được coi là khởi đầu cho phong trào thơ mới là Phan Khôi cũng đã cho ra đời những câu thơ không hạn định về số câu, số chữ, không ràng buộc về cách gieo vần, ngắt dòng, ngắt nhịp… trong bài thơ Tình già. Sự hình thành và phát triển của thơ tự do không chỉ là sự đổi mới về hình thức nghệ thuật thơ, về thi pháp thơ mà nguồn mạch sâu thẳm là ở sự đổi mới về nội dung cảm xúc, về thi hứng trước đời sống của một cái tôi hoàn toàn mới. Thơ mới là một sự phóng túng trong hình thức biểu hiện, trong đó có thể thơ tự do song so với số chữ vẫn còn hạn định của câu Thơ mới thì phong trào thơ này vẫn chưa hoàn toàn thoát mình ra khỏi những ràng buộc. Có những cách chia Thơ mới theo các thể thơ 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ và thơ tự do, thơ lục bát…Cách chia này chủ yếu dựa vào hình dáng bài thơ, số chữ trên một dòng thơ. Nhưng theo chúng tôi, các thể thơ 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ nếu khôn theo niêm luật thì vẫn là thơ tự do. Theo cách gọi của Nguyễn Phan Cảnh, những bài thơ 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ trong thơ mới là thơ tự do có cốt 5, 6, 7 chữ. Hay như Xuân Diệu gọi là thơ tự do không hoàn toàn. Như vậy thơ tự do có thể chia làm hai dạng: thơ tự do hoàn toàn và thơ tự do không hoàn toàn. Những bài thơ có cốt 5, 6, 7 chữ nhưng không tuân theo niệm luật, đối, vần thì được gọi là những bài thơ tự do không hoàn toàn. Chẳng hạn như Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu… 1.2.2.2. Thơ tự do trong các giai đoạn văn học sau 1945 5 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] Chính sự xuất hiện của thể thơ tự do trong phong trào Thơ mới kéo theo sự ra đời của hàng loạt các cây bút thử sức với thể thơ này trong thơ kháng chiến trong các thời kì chống Pháp và chống Mĩ. Các nhà thơ đã mạnh dạn đưa thể thơ này đến với đời sống tiếp nhận của công chúng với quan niệm thống nhất thơ tự do cởi bỏ hết những ràng buộc để thơ ca đạt được đến đỉnh cao của sự thăng hoa. Có thể thấy đến giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám, thơ tự do có điều kiện để phát triển với nhiều hình thức đa dạng và tiến tới tự do hoàn toàn, thể hiện ở dạng thức tổng hợp nhiều thể loại, câu thơ ngắt dòng giữa câu theo hình bậc thang, không viết hoa đầu dòng bài thơ đan xen nhiều thể loại khác nhau như 7 chữ, 4 chữ, lục bát. Đặc biệt ở giai đoạn chống Mỹ, thơ tự do nở rộ với nhiều cách lựa chọn hình ảnh táo bạo, mới lạ và nhiều cách sử dụng tiết tấu linh hoạt: Bốn phương trời sương sa Tiếng chuông chùa ngân nga… Trời lặng êm Nghe rèm Tiếng chuông Rơi Thảnh thơi Êm đềm (Tiếng chuông chùa – Nguyễn Vĩ) 6 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] Với khả năng dung nạp nhiều suy tưởng, nhiều trạng thái cảm xúc sôi nổi trước bao nhiêu biến cố nóng bỏng của cuộc chiến đấu, thơ tự do thích hợp với những vấn đề giàu tính trí tuệ, tính chính luận; đồng thời cũng thể hiện bao quát nhất nguồn cảm xúc tràn đầy của chủ thể trước hiện thực chiến tranh. Sự biến động của đời sống xã hội, đời sống văn học tất yếu tác động đến tư tưởng và hình thức thơ ca. Đây là xu hướng tự do hóa hình thức của thơ trẻ 1965 – 1975. Tuy đã xuất hiện rải rác trong nền thơ cách mạng, song phải nói đến giai đoạn này, thơ tự do mới trở thành sự lựa chọn phổ biến của các cây bút trẻ. Sau 1975, bên cạnh thể thơ lục bát thì thơ tự do không hoàn toàn và thơ tự do hoàn toàn đã trở nên phổ biến. Các nhà thơ dường như đều có chung một suy nghĩ là không muốn làm thơ theo lối cũ, tìm đến thể thơ tự do để chống lại nguy cơ sáo mòn về ngôn ngữ, khuôn mẫu về nhạc điệu, thỏa mãn nhu cầu thể hiện cảm xúc trước hiện thực cuộc sống đa dạng, phong phú, phức tạp của đời thường sau chiến tranh. Nhà thơ Ngô Quân Miện đã miêu tả thơ tự do giai đoạn này như sau: “Đó là loại thơ có cấu trúc không đều đặn, nghĩa là về cơ bản không theo luật vần, không theo luật bằng trắc, có số âm tiết không đều nhau trong một câu. Còn nhịp thơ, những chỗ ngắt hơi, những tiết tấu cũng không theo một quy định có sẵn. Nhưng tất cả những cái không đều đặn ấy đều tùy theo cái hơi thở nóng hổi, cái sức mạnh của cảm xúc, của ý, của chí, của sức mạnh bên trong của thơ quyết định chỗ này có vần, chỗ kia không, chỗ này câu dài, chỗ kia câu ngắn, chỗ này nhịp khoan, chỗ kia nhịp gấp, chỗ này bằng, chỗ kia trắc,…để cho những cái xô lệch, những cái vênh, những cái nhấp nhô, có dụng ý ấy tập trung vào thành một cấu trúc nhất quán, một nhạc điệu tâm hồn riêng tùy theo tâm trạng của nhà thơ.” Chúng tôi muốn mượn lời nhận định của Tiến sĩ Phạm Quốc Ca để thay cho lời lí giải về sự xuất hiện, hình thành và phát triển của thơ tự do trong tiến trình thơ Việt Nam “Thể thơ không chỉ gắn với nghệ thuật ngôn từ mà còn xem như là biểu hiện của quan niệm thẩm mĩ đối với đời sống. Ý thức về một xã hội 7 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] khuôn phép, mực thước thời trung đại được phản ánh trong thơ cách luật. Ý thức về con người cá nhân và sự vận động, thay đổi của xã hội thể hiện trong hình thức thơ tự do” “ Lòng rộng quá chẳng chịu khung nào hết Chân tự do đạp phăng cả hàng rào” ( Xuân Diệu) 1.2.3. Đặc trưng thi pháp thơ tự do 1.2.3.1. Đặc trưng cơ bản của khái niệm “tự do” Để nhận diện về đặc điểm thơ tự do trước hết ở hình thức kết cấu, chúng ta phải luôn đặt nó trong mối tương quan đối xứng với thơ cách luật để làm rõ các yếu tố: số chữ trong câu, số câu trong khổ thơ, vần thơ và nhịp thơ… Về dòng thơ, nếu như thơ cách luật hạn định về số câu trong bài, số chữ trong câu thơ thì thơ tự do, mỗi câu thơ không nhất thiết ứng với một dòng thơ mà có thể ngắt thành nhiều dòng. Mỗi dòng thơ có thể dài ngắn không xác định. Hiện tượng vắt dòng chỉ xuất hiện trong thơ hiện đại. Có thể xem đây là những khoảng trắng đầy tâm trạng của cái tôi. Nhịp điệu thơ chính là nhịp điệu tình cảm. Kiểu kết cấu này mở độ lắng cho mạch cảm xúc, tạo những nốt lặng của hồn thơ. Viết về cái chết và bi kịch của cuộc đời Lor – ca, nỗi bàng hoàng, đau xót của Thanh Thảo cũng như dồn cả vào chỗ vắt dòng của câu thơ: Tây Ban Nha hát nghêu ngao bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ Lor-ca bị điệu về bãi bắn 8 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] chàng đi như người mộng du (Đàn ghi ta của Lor-ca - Thanh Thảo) Về cấu tạo, thơ tự do có thể có câu dài ngắn khác nhau, mạch thơ có thể liên tục hoặc ngắt ra nhiều đoạn ngắn, khổ thơ có thể không cần thống nhất và hạn định về số câu. Với đặc điểm này, thơ tự do có khả năng vận động, khai thác những đề tài rộng lớn của cuộc sống. Kết cấu bài thơ tự do hoàn toàn chịu sự chi phối bởi dòng chảy cảm xúc của nhà thơ. Thơ tự do có thể không cần gieo vần hoặc nếu gieo vần thì cũng rất phóng túng không theo quy luật nhất định. Có thể gieo vần liên tiếp hoặc gián cách, vần ôm…Nói về vần trong thơ tự do, nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã nhận định: “Vần là một lợi khí đắc lực cho sự truyền cảm nhưng không phải hết vần là hết thơ, khi làm thơ, thái độ của người làm là ghi đúng cảm xúc. Nếu cảm xúc gặp được vần thì rất hay. Nhưng khi nó gò bó thì hãy vượt lên nó đã. Hình thức nghệ thuật (các luật bằng trắc) phải tự thân nó. Khi gạt luật bên ngoài đi phải có luật bên trong rất mạnh” Thơ tự do dù linh hoạt, cởi mở nhưng không chấp nhận sự tùy tiện, tự do cũng phải có kỉ luật của riêng mình. Xuân Diệu từng nói “tự do không có nghĩa là thích làm gì thì làm”, và theo Nguyễn Đình Thi thì tính chất tự do của các yếu tố hình thức bên ngoài luôn chịu sự chi phối của “luật bên trong rất mạnh”. Luật bên trong ấy chính là cái logic nội tại của tâm hồn, của tâm trạng cảm xúc thơ vậy. Nhịp điệu trong thơ tự do cũng vậy, nó không ngắt nhịp đều đặn từ lớp vỏ ngôn ngữ bên ngoài như thơ cổ điển mà theo một kỉ luật bên trong đó là cảm xúc. Tính chất tự do trong thơ tự do và tính sinh động của hình thức nhằm diễn tả trung thực nội dung cảm xúc mà không bị lệ thuộc vào khuôn khổ của luật lệ thơ. Về hình thức, thơ tự do phải giữ được sự hài hòa trong nhịp điệu. 9 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] Nhịp điệu ở đây chủ yếu dựa vào tiết tấu ở các mạch thơ, ở sự phối hợp các giai điệu trong thơ để tạo ra chất nhạc ngân lên từ bên trong câu thơ. Sự hài hòa của nhịp điệu trong thơ tự do thường thể hiện trong kết cấu nghệ thuật phù hợp với nhịp điệu cảm xúc. Cảm xúc nào, nhịp điệu ấy. Như vậy, có thể hiểu đặc trưng bản chất của khái niệm “tự do” trong thơ tự do là sự phá vỡ các quy phạm cổ điển để hình thành một quy phạm mới, quy phạm tuân theo mạch cảm xúc. 1.2.3.2. Cái tôi trữ tình trong thơ tự do Cái tôi trữ tình là cách cảm nhận của chủ thể trước hiện thực, là cách tổ chức điểm nhìn của chủ thể trữ tình, đồng thời cũng là tổ chức sự vận động cảm xúc cũng như tổ chức các phương tiện biểu đạt để xây dựng hình tượng trữ tình. Như vậy cái tôi trữ tình là sản phẩm tinh thần thơ ca, thông qua việc tổ chức các phương tiện trữ tình. Thơ tự do chẳng những nói được những gân guốc của cuộc đời thường nhật mà còn đề cập đến nhiều chiều cuộc sống thật thấm thía. Với điểm nhìn đa dạng ở những ngổn ngang, góc cạnh của hiện thực chiến tranh; với những phức tạp của mạch cảm xúc, tư tưởng; với chồng chất trăn trở về được - mất, sống - còn; với sự giằng xé giữa vinh quang – mất mát, thơ tự do là hình thức phóng khoáng nhất để cái tôi trữ tình dịch chuyển điểm nhìn trên nhiều bình diện. Để khắc sâu diện mạo của cái tôi trữ tình với những suy tư, trải nghiệm đa chiều, tích hợp nhiều vấn đề trong nội tại thể thơ luôn là thế mạnh bởi thơ tự do ít bị ràng buộc nhất về mặt vần điệu, về sự hạn định câu và cho tác giả có điều kiện diễn tả đối tượng một cách thích hợp nhất. Thơ tự do xem ra là hình thức sát hợp nhất với nhu cầu của các cây bút trẻ trong việc cất dựng chân dung tinh thần của chủ thể trữ tình. Những vấn đề nhức nhối nhất của hiện thực, những phân tích lí giải của chủ thể về bộn bề sự kiện e không vừa vặn trong những thể thơ truyền thống, niêm luật chặt chẽ và hạn định về dung lượng. Sự gò bó của các thể thơ đó sẽ khuôn hẹp khả năng biểu 10 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] hiện cái tôi trữ tình trong thơ trẻ với xu hướng đưa chất bộn bề, trần trụi của đời sống vào thơ. Thơ tự do mang màu sắc của cái tôi tự do không có nghĩa là nhà thơ tự do viết, tự do bộc lộ những gì mình mong muốn. Cái tôi trữ tình trong thơ tự do là cái tôi không khép mình trong khuôn sáo cũ, cái tôi viết, thể hiện trong thơ một đời sống hiện thực sinh động, phong phú, đáp ứng nhu cầu cảm xúc của người thưởng thức. 1.2.3.3. Cấu trúc thế giới hình tượng trong thơ tự do Hình tượng nghệ thuật là phương thức để nhà thơ nhận thức và phản ánh đời sống. Trong sáng tác văn học, hình tượng là toàn bộ thế giới khách quan được nhà thơ chắt lọc, phản ánh vào tác phẩm của mình. Để xây dựng hình tượng trong thơ, nhà thơ phải đi từ chi tiết, hình ảnh của cuộc sống đến tứ thơ, ngôn ngữ thơ. Cấu trúc hình tượng trong thơ tự do đặc biệt chú ý đến tứ thơ. Giữa tứ thơ và thể thơ có một mối quan hệ mật thiết. Nhà thơ Huy Cận có lần viết: “Không phải tứ thơ nào cũng có thể khuôn vào bất cứ hình thức thể loại nào. Trong đời làm thơ của tôi, tôi phải thay áo mấy lần cho thơ, phải đổi thể loại thì tứ thơ mới hiện ra được”. Như vậy tứ thơ phải đầu thai đúng thể loại thì mới làm sống dậy thế giới hình tượng thơ. Là một thể thơ mang đậm cảm xúc chủ quan, trong thơ tự do, tứ thơ bao giờ cũng được nảy sinh trên cơ sở cảm xúc và có chức năng biểu hiện cảm xúc ấy qua hình ảnh, ngôn ngữ nghệ thuật. Do vậy, tiếp cận tác phẩm thơ tự do là cần phải xác định tứ thơ và sự vận động của hình tượng thơ, có như vậy mới có thể chiếm lĩnh được toàn bộ bài thơ trong tính chỉnh thể của nó. 1.2.3.4. Nhịp điệu Thơ là một thể loại thể hiện nhịp điệu tâm hồn và nhịp điệu cuộc sống một cách hữu hiệu nhất. Nhịp điệu cuộc sống là cơ sở để khơi gợi nhịp điệu 11 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] cảm xúc trong tâm hồn nhà thơ. Thường khi nói đến nhịp điệu thơ, chúng ta thường nghĩ tới cách tổ chức câu thơ đoạn thơ, tiết tấu, âm thanh… trong bài thơ. Tuy nhiên nhịp điệu không thuần túy chỉ là hình thức ngắt nhịp ngôn từ có tính chất hình thức mà còn là nhịp điệu của cảm xúc, nhịp điệu bên trong của tâm hồn nhà thơ. Thơ tự do tạo điều kiện nhiều nhất để thơ có vẻ riêng về nhịp điệu. Vẻ riêng trong nhịp điệu của thơ tự do có sự hòa điệu giữa yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan, do vậy nó vừa là nhịp điệu của hình thức bên ngoài, vừa là nhịp điệu bên trong, là nhịp điệu của cảm xúc, của những rung động của nhà thơ trước bức tranh đời sống. Do vậy, nhịp điệu trong thơ tự do không có sự định tính trước như trong thơ cách luật mà luôn có sự co giãn theo cảm xúc chủ quan của nhà thơ. 1.2.3.5. Ngôn ngữ thơ tự do Ngôn ngữ là nơi kí thác của hình tượng thơ. Ngôn ngữ thơ là một kiểu cấu tạo đặc biệt của ngôn ngữ văn học. Ngôn ngữ thơ tự do và ngôn ngữ thơ cách luật đều là ngôn ngữ nghệ thuật, nhưng điểm khác nhau là ở chỗ, nếu ngôn ngữ thơ cách luật là ngôn ngữ phải tuân theo vần luật, thanh bằng trắc thì ngôn ngữ thơ tự do gần hơn với ngôn ngữ, lời nói của đời thường, ngôn ngữ văn xuôi. Có nghĩa là ngôn ngữ thơ tự do mang vẻ đẹp giản dị, chân chất, mang hơi thở của đời sống. Điều này xuất phát từ chỗ thơ tự do luôn có xu hướng đi gần về với cuộc sống. Tuy nhiên ngôn ngữ thơ tự do gần gũi chứ không phải là ngôn ngữ đời thường, bởi đó là thứ ngôn ngữ đã được chắt lọc, được kết tinh từ cuộc sống, là thứ ngôn ngữ được viết ra từ độ chín của cảm xúc. Do vậy nó luôn đòi hỏi phải có độ căng của cảm xúc, chứa đựng những âm vang của sự sống. Thơ tự do không phải là một hình thức định trước trong quá trình sáng tác mà đó là sự tìm đến tất yếu khi tâm hồn nhà thơ đạt đến độ nhuần chín, ở đó độc giả như được trải lòng trong những trạng thái cảm xúc tế vi của người nghệ 12 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] sĩ. Không chỉ tự do trong hình thức câu thơ, thể thơ này còn kéo dài biên độ của đoạn thơ, bài thơ. Đó là khi cái tôi có nhu cầu bộc bạch đến cạn cùng nguồn cảm xúc thẩm mĩ, khi tiếng nói bức bối của chủ thể trữ tình gần như không thể kiềm nén. 2. Thực trạng của vấn đề 2.1.Vị trí của thơ tự do trong chương trình giảng dạy Chương trình Ngữ văn THPT đã có sự định hướng cho học sinh những hiểu biết cơ bản về thơ tự do với việc đưa vào một số tác phẩm tự do hoàn toàn, đặc biệt là trong sách giáo khoa Ngữ văn 12. Mục Tri thức đọc – hiểu trong sách giáo khoa Ngữ văn 12, chương trình nâng cao đã đưa ra định nghĩa khá rõ ràng về thơ tự do: “Thơ tự do có hình thức phân biệt với thơ cách luật, không bị giảng buộc vào quy tắc cố định về số câu, số chữ, niêm, luật, đối, vần…. Thơ tự do là thơ hợp thể, xen phối các đoạn thơ làm theo các thể khác nhau hoặc hoàn toàn tự do. ..”. Đây là một sự định hướng cần thiết và hết sức cơ bản đối với học sinh. Tuy nhiên theo quan niệm này, học sinh sẽ hiểu chỉ những bài thơ tự do hoàn toàn mới được gọi là thơ tự do. Theo quan niệm của chúng tôi, thơ tự do bao gồm hai dạng thơ tự do không hoàn toàn và tự do hoàn toàn. Do vậy thơ tự do đã xuất hiện khá nhiều và chiếm một số lượng đáng kể ngay từ chương trình giảng dạy đọc hiểu tác phẩm văn học ở lớp 11. Có thể thống kê cụ thể như sau: Lớp 11: Chương trình cơ bản 1. Tiết 77: Hầu trời (Tản Đà) 2. Tiết 78: Vội vàng (Xuân Diệu) 3. Tiết 80: Tràng giang (Huy Cận) 13 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] 4. Tiết 83: Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) 5. Tiết 86: Từ ấy (Tố Hữu) 6. Tiết 88: Đọc thêm: Nhớ đồng (Tố Hữu) Chiều Xuân (Anh Thơ) Lớp 12: Chương trình cơ bản 1. Tiết 19,20: Tây tiến (Quang Dũng) 2. Tiết 28, 29: Đất nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm) Đọc thêm: Đất nước (Nguyễn Đình Thi) 3. Tiết 34, 35: Đọc thêm: - Dọn về làng - Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên) - Đò Lèn (Nguyễn Duy) 4. Tiết 37: Sóng (Xuân Quỳnh) 5. Tiết 39: Đàn ghi ta của Lorca (Thanh Thảo) Như vậy có thể nhận thấy thơ tự do đã phủ toàn bộ chương trình giảng dạy thơ ở học kì II, lớp 11 và chương trình lớp 12 trong bộ sách giáo khoa cơ bản. Hiệu quả của những tiết dạy về thơ tự do trong chương trình có ý nghĩa quyết định trong chất lượng lĩnh hội tri thức đọc hiểu văn bản văn học của học sinh. Để có một kết quả tốt trong mỗi tiết giảng dạy nói riêng cũng như cả quá trình dạy học nói chung, giáo viên cần hiểu và lựa chọn phương pháp hướng dẫn học sinh tiếp cận tác phẩm theo những đặc trưng của thể thơ tự do. Chỉ có 14 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] như vậy cả thầy và trò mới dễ dàng tìm được con đường khám phá, bước vào thế giới nghệ thuật của mỗi tác phẩm thơ. 2.2. Đối với giáo viên Tác phẩm thơ tự do được lựa chọn giảng dạy trong chương trình phổ thông đều là những tác phẩm văn học xuất sắc của từng thời kì văn học, đồng thời thể hiện những cá tính sáng tạo độc đáo của mỗi nhà thơ. Do vậy những tác phẩm thơ tự do đều trở thành những đối tượng luôn khơi gợi hứng thú khám phá, chiếm lĩnh đối với giáo viên ngữ văn – những bạn đọc trung thành và đam mê văn chương. Tuy nhiên để truyền cho học sinh niềm đam mê và sự hiểu biết của mình về những sáng tác thơ tự do thì không chỉ có cảm hứng mà con cần phải có những phương pháp tối ưu. Có như vậy thì việc giảng dạy của giáo viên mới có hiệu quả. Trong thực tế giảng dạy tác phẩm thơ tự do, giáo viên vẫn chưa trang bị đầy đủ những hiểu biết căn bản về đặc trưng thể loại, chưa có một điểm tựa vững vàng cho việc cảm nhận, phân tích tác phẩm dựa trên những hiểu biết ấy. Từ đó cũng chưa có sự lựa chọn phương pháp giảng dạy có hiệu quả. 2.3. Đối với học sinh Việc học và tiếp nhận kiến thức ngữ văn đối với học sinh THPT đã không còn trở thành một hứng thú học tập. Đây là một thực trạng đáng lo ngại trong xã hội hiện đại, khi mà cuộc sống có nhiều mối quan tâm tưởng như là thiết thực hơn văn chương. Khi đã không còn hứng thú học tập thì khả năng độc lập và sáng tạo trong việc học văn cũng không còn nữa. Đối với việc tìm hiểu, phân tích tác phẩm thơ tự do trong chương trình Ngữ văn THPT, một thể loại đòi hỏi sự chủ động, linh hoạt của người học thì điều này còn đáng buồn hơn. 15 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] Tuy nhiên không phải là không còn những học sinh đam mê văn chương. Vẫn có nhiều học sinh say mê học văn, tìm thấy hứng thú trong việc tiếp cận, khám phá những tác phẩm văn chương có giá trị. Và thơ tự do cũng không nằm ngoài vùng quan tâm ấy. Tuy nhiên các em chưa hiểu rõ về đặc trưng thể loại, chưa nắm được con đường đi vào thế giới nghệ thuật của mỗi bài thơ. Việc phân tích, chiếm lĩnh tác phẩm thơ tự do đối với các em còn là một khó khăn. 3. Phương pháp giảng dạy thơ tự do trong chương trình Ngữ văn THPT 3.1. Khơi gợi hứng thú đối với tác phẩm thơ tự do Việc đầu tiên của sự lựa chọn phương pháp tiếp cận không chỉ là hiểu về thơ tự do ở dạng lí thuyết mà quan trọng là phải thấy được sức hấp dẫn, vẻ đẹp của thơ tự do, khơi gợi được hứng thú tìm hiểu, khám phá của học sinh đối với những tác phẩm được học. Mỗi thể loại văn học đều có những đặc trưng riêng về thi pháp. Sự phát triển đổi mới của mỗi thể loại cũng chính là sự đổi mới về thi pháp. Trên chặng đường phát triển, thơ tự do một mặt vẫn dung chứa hệ thống thi pháp thơ cổ điển, mặt khác lại mở ra hệ thống thi pháp mới. Thi pháp thơ tự do không chỉ phong phú ở yếu tố hình thức mới mẻ, kiểu thi nhân mới mà còn ở nhãn quan hướng ngoại. Phá vỡ những ràng buộc về hình thức thơ, thơ tự do đã vận động và tìm cho mình một hình thức phù hợp để chuyển tải nội dung, năng lượng cảm xúc, tránh khỏi con đường mòn của hình thức thơ cổ điển. Nếu như trong thơ cổ điển, hình thức bài thơ được coi là một cấu trúc khép kín, ngôn từ được sắp xếp theo quy phạm có sẵn thì cấu trúc bài thơ tự do lại là cấu trúc mở, luôn có xu hướng vận động theo dòng cảm xúc của nhà thơ. Điều này thể hiện trong việc bài thơ được chia nhiều khổ, nhiều đoạn, khái niệm dòng thơ, câu thơ bị phá vỡ. Ngôn ngữ thơ chuyển từ câu thơ điệu ngâm sang câu thơ điệu nói. 16 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] Nghĩa là câu thơ không đặt ra yêu cầu sắc điệu bằng trắc mà xuất phát từ cảm quan của nhà thơ trước cuộc sống đang diễn ra hang ngày. Câu thơ điệu nói có thể khi đọc lên không có độ lan truyền bên ngoài cảm giác âm vận nhưng có độ lan truyền, giao thoa bên trong tâm tưởng. Cảm nhận câu thơ điệu nói, bạn đọc không chỉ nghe mà còn phải trải nghiệm: Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và mây, và cỏ rạng… Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi! (Vội vàng – Xuân Diệu) Đọc đoạn thơ trên mà không lắng nghe được cái khẩu khí, hơi thở của Xuân Diệu khi đối diện với sự sống, không nhận ra vẻ vội vàng, cuống quýt của thi sĩ khi muốn tận hưởng đến vô biên, tuyệt đích vẻ đẹp của cuộc đời thì vẫn chưa hiểu thấu được thông điệp được gửi gắm qua mỗi dòng thơ. Sự xuất hiện liên tiếp của liên từ “và”, dấu phẩy trong một dòng thơ, kết thúc lại là dấu chấm lửng…chính là những dấu hiệu của một câu thơ hiện đại. Mọi yếu tố cách tân đều chỉ nhằm thể hiện dòng cảm xúc dâng trào của một hồn thơ quá ư ham hố và tha thiết với sự sống ở Xuân Diệu. 17 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] Sự phong phú của thi pháp thơ tự do còn là ở kiểu nhà thơ mới. Kiểu thi nhân trong thơ tự do xuất hiện với tư cách là chủ thể nhìn đời, cảm nhận thế giới khách quan với mọi giác quan và ý thức cá nhân cao độ. Chính điều này đã tạo ra nhãn quan hướng ngoại cho thơ tự do. Có nghĩa là thơ tự do phản ánh cuộc sống một cách cụ thể, hơn, sắc bén hơn. Thơ tự do còn mang đến cho người đọc một cái nhìn đầy đủ, đa dạng về phong cách nghệ thuật, về hình tượng tác giả. Bởi thơ tự do là nơi mà nhà thơ được phát huy tận độ cá tính sáng tạo của mình. Mỗi sáng tác là một cách nhìn, cách cảm nhận riêng về cuộc sống, con người, được biểu hiện bằng một tiếng nói, một giọng điệu riêng. Xuân Diệu nhìn đời bằng con mắt thời gian, Huy Cận lại cảm nhận thế giới bằng cảm quan không gian vũ trụ… Chính sự độc đáo, không trộn lẫn trong phong cách nghệ thuật, trong cá tính sáng tạo trong các tác phẩm thơ tự do đã tạo sức hấp dẫn, hứng thú tìm hiểu, khám phá thơ tự do đối với người đọc nói chung cũng như học sinh nói riêng. 3.2. Phương pháp tiếp cận tác phẩm thơ tự do 3.2.1. Đọc diễn cảm, đọc sáng tạo Đây là khâu đầu tiên trong quá trình tiếp cận, chiếm lĩnh tác phẩm. Đọc trước hết để cảm nhận tiết tấu âm thanh, nhịp điệu, giọng điệu của bài thơ. Trong thơ tự do, do tiết tấu không theo một điệu ổn định như thơ cách luật mà thay đổi theo mạch cảm xúc. Do vậy đọc thơ tự do phảm cảm nhận được nhịp điệu cảm xúc, bám theo mạch tâm trạng của chủ thể trữ tình trong bài thơ. Nghĩa là người đọc thơ tự do không thể hờ hững đứng ngoài tác phẩm mà phải sống cùng cảm xúc trong thơ. 3.2.2.Tìm hiểu phong cách nghệ thuật và cá tính sáng tạo của nhà thơ Trong thơ tự do, phong cách và cá tính sáng tạo của tác giả được thể hiện khá rõ và chi phối mạnh mẽ hình thức, nội dung của tác phẩm. Hiểu được đặc 18 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] điểm phong cách và cá tính sáng tạo của nhà thơ chính là một con đường để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của bài thơ. 3.2.3. Tìm hiểu hoàn cảnh cảm hứng và tín hiệu thẩm mĩ của tác phẩm Phương pháp tiếp cận truyền thống đối với một tác phẩm văn học là tìm hiểu hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, bố cục, chủ dề tác phẩm. Với thơ tự do, ta cũng có thể áp dụng phương pháp trên nhưng đặc biệt chú ý tới hoàn cảnh cảm hứng khi nhà thơ sáng tác tác phẩm. Bởi chính hoàn cảnh ấy cho ta hiểu trạng huống cảm xúc của chủ thể chữ tình trong tác phẩm. Có thể tìm hiểu hoàn cảnh ấy cảm hứng ấy qua những tư liệu ngoài văn bản (lời tâm sự của nhà thơ) hoặc có thể căn cứ vào chính văn bản thơ. Hàn Mặc Tử sáng tác Đây thôn Vĩ Dạ trong hoàn cảnh đang bị cách biệt với cuộc sống bên ngoài, đang khao khát trở về cuộc sống ấy trong khi cái chết đang đến gần. Cho nên chỉ cần một sự kiện là nhận được bức bưu ảnh của Hoàng Cúc, người con gái Tử thầm yêu cũng đủ “đánh động” cả thế giới tâm hồn niềm khao khát ấy trong Tử. Đó là hoàn cảnh mà ta biết được thông qua tư liệu. Nhưng với bài thơ Tây tiến thì chỉ cần đọc hai câu thơ đầu, ta cũng có thể sống cùng với nhà thơ trong nỗi nhớ tha thiết về binh đoàn cũ sau một thời gian đã xa: Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ( Tây tiến – Quang Dũng) Khi căn cứ vào chính văn bản để tìm hiểu hoàn cảnh cảm hứng của nhà thơ là căn cứ vào chính ngôn ngữ, những tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm. Khi đọc văn bản, sống với mạch cảm xúc thơ, đồng thời cũng là lúc phát hiện ra những tín hiệu thẩm mĩ, những “mắt thơ”, để từ đó mở cách cửa bước vào thế giới nghệ thuật của tác phầm. Với phương pháp này, người đọc sẽ không bị rơi vào tình trạng võ đoán, những quan điểm xã hội học dung tục. 19 Liên hệ số ĐT: 0946.734.736 hoặc Email: [email protected] 3.3. Phương pháp phân tích thơ tự do 3.3.1. Khám phá kết cấu của tác phẩm Kết cấu tác phẩm thơ tự do được hình thành dựa sự chi phối của mạch cảm xúc và ý tưởng sáng tạo của tác giả. Mỗi bài thơ có một kiểu kết cấu độc đáo, không lặp lại. Để nhận ra kết cấu trong thơ tự do, không thể căn cứ vào sự liên kết bề mặt mà phải nhìn thấy mối liên hệ bên trong. Đôi khi kết cấu bề mặt là sự đứt nối, rời rạc nhưng thực ra nó được kết nối một cách chặt chẽ bởi dòng cảm xúc bên trong, bởi mạch tâm trạng mà nếu không nhập vào nó, người đọc sẽ không thể nhận ra và cảm thấu. Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo là những ví dụ tiêu biểu. Việc nhận ra kết cấu tác phẩm thơ tự do có thể thực hiện ngay ở khâu đọc tác phẩm. Bởi đây chính là lúc mà giáo viên có thể hướng dẫn học sinh có một cái nhìn bao quát về chỉnh thể tác phẩm, hình thành những định hướng ban đầu cho việc phân tích tác phẩm. Vì vậy khi tổ chức hoạt động đọc cho học sinh, giáo viên cần hướng học sinh vào việc tìm hiều giọng điệu, tình cảm, cảm xúc của nhà thơ có thể nhận ra kết cấu tác phẩm thơ tự do. 3.3.2. Tìm hiểu sự sáng tạo của ngôn từ Sau bước khái quát hóa về kết cấu tác phẩm, tìm hiểu sự sáng tạo của ngôn từ chính là bước phân tích chi tiết tác phẩm. Ngôn ngữ thơ tự do là ngôn ngữ có khả năng sáng tạo về nhiều mặt. Nó mở rộng câu thơ, đi vào chiều sâu của bài thơ bằng kết cấu mới, cú pháp mới, từ ngữ mới, nhịp điệu mới…Do vậy việc phân tích ngôn ngữ thơ tự do đòi hỏi một sự linh hoạt, nhạy cảm ở người học để nhận ra những sắc thái biểu hiện độc đáo của nó. Các em phải biết lắng nghe sau lớp vỏ ngôn từ những chiều sâu của cảm xúc và âm vang của cuộc sống mà nó biểu hiện. 3.3.3. Khái quát tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất