Nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam
Bùi Thị Hương
Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật dân sự; Mã số: 60 38 30
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Cừ
Năm bảo vệ: 2011
Abstract: Phân tích để hiểu rõ bản chất pháp lý và tính nhân đạo của chế định nuôi
con nuôi trong pháp luật Việt Nam, đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với pháp luật
các nước và pháp luật quốc tế. Khảo sát và đánh giá thực tiễn áp dụng chế định nuôi
con nuôi, qua đó phát hiện những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng và thực
hiện pháp luật nuôi con nuôi. Nghiên cứu cơ chế bảo đảm việc thực thi pháp luật nuôi
con nuôi ở Việt Nam.
Keywords: Luật dân sự; Pháp luật Việt Nam; Con nuôi
Content
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội xảy ra phổ biến ở tất cả các quốc gia trên thế giới và
được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật của các nước trên cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế
và mục đích xã hội của mỗi quốc gia.
Ở nước ta, nuôi con nuôi là một vấn đề mang tính nhân đạo, được Đảng và nhà nước quan
tâm sâu sắc. Trong hoàn cảnh đất nước còn phải chịu những di chứng nặng nề của chiến
tranh, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, mức thu nhập của nhân dân còn thấp,
nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cần có mái ấm gia đình… thì vấn đề nuôi con nuôi càng
trở nên cấp thiết trong đời sống xã hội.
Bên cạnh ý nghĩa tạo mái ấm gia đình cho trẻ em, việc nuôi con nuôi còn góp phần đáp
ứng nhu cầu chính đáng của vợ chồng nhận con nuôi, đặc biệt là những cặp vợ chồng vô sinh,
hiếm muộn, phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, sống đơn thân…
Pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi ở nước ta được hình thành từ khá sớm và
trong những năm qua đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm thực hiện quyền của trẻ em
được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình; động viên khơi dậy tinh
thần nhân đạo, nhân văn của con người Việt Nam; giữ gìn và phát huy truyền thống tương
thân tương ái, lá lành đùm lá rách trong nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, hệ
thống pháp luật này vẫn còn bộc lộ những hạn chế và bất cập nhất định.
Để khắc phục những sự chồng chéo, tản mát của hệ thống các văn bản pháp luật về nuôi
con nuôi, nhằm đề ra các quy định phù hợp nhất với giai đoạn phát triển mới của đất nước để
nâng cao hơn nữa số lượng trẻ em được nhận làm con nuôi mà vẫn đảm bảo được mục đích, ý
nghĩa của hoạt động mang tính xã hội sâu sắc này, ngày 17/6/2010 Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII kỳ họp thứ 7 đã ban hành Luật Nuôi con nuôi số
52/2010/QH12.
Sự ra đời của một đạo luật riêng về nuôi con nuôi đã tạo ra được khung pháp lý thống
nhất, ổn định, có giá trị áp dụng lâu dài, thu hút được sự quan tâm, ủng hộ và giúp đỡ của toàn
xã hội đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em, nâng cao trách nhiệm của tất
cả các ngành, các cấp, cơ quan, tổ chức và xã hội trong việc bảo đảm quyền của trẻ em. Điều
đó đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc, thiết thực của Đảng, Nhà nước đối với công tác bảo vệ trẻ
em, nhất là những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, tạo cơ sở để Chính phủ ban hành và thực hiện các
chính sách, biện pháp nhằm khuyến khích, động viên và tăng cường trách nhiệm của toàn xã hội
trong việc giúp đỡ những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt để các em được chăm sóc, nu«i dìng và
giáo dục trong môi trường gia đình, hòa nhập với cộng đồng và có điều kiện phát triển thành
người có ích cho xã hội. Luật Nuôi con nuôi n¨m 2010 chính là cơ sở pháp lý đồng bộ nhằm đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng của các cặp vợ chồng trong nước mong muốn có con nuôi; bảo
vệ quyền và lợi ích của cha mẹ nuôi, giúp họ ổn định tư tưởng và yên tâm trong việc nuôi
dưỡng, chăm sóc con nuôi như con đẻ. Bên cạnh đó, việc ban hành Luật Nuôi con nuôi còn
thể hiện sự tôn trọng các cam kết quốc tế của nhà nước ta khi tham gia công ước quốc tế về
quyền trẻ em, tôn trọng và bảo đảm các quyền trẻ em, bảo đảm việc nuôi con nuôi được tiến
hành trên nguyên tắc nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Để tìm hiểu kỹ hơn vấn đề nuôi con nuôi, đặc biệt từ khi có Luật Nuôi con nuôi n¨m 2010
ra đời để qua đó có thể so sánh, phân tích và thấy được những điểm mới, tính ưu việt của đạo
luật này; đồng thời đề ra những cơ chế đảm bảo và biện pháp đưa pháp luËt nu«i con nu«i vào
đời sống xã hội, tác giả đã chọn đề tài "Nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam" để nghiên
cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nuôi con nuôi là đối tượng quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Dưới góc độ khoa
học pháp lý, vấn đề này cũng được nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau, kể cả ở trong nước
và nước ngoài. Tại Việt Nam, những năm gần đây, nghiên cứu về pháp luật nuôi con nuôi có
khá nhiều, có số lượng tương đối phong phú. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp trong
chương trình hợp tác với UNICEF đã biên soạn một chuyên đề Thông tin pháp lý về: "Chế
định nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam và quốc tế" (năm 1998). Cuốn sách đã giới thiệu
khái quát về chế định nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam, nêu thực trạng về nuôi con
nuôi tại một số địa phương và giới thiệu về pháp luật nuôi con nuôi của một số nước. Tác giả
Nguyễn Công Khanh biên soạn cuốn "Hỏi đáp về pháp luật nuôi con nuôi" (Nhà xuất bản Tư
pháp, năm 2004). Bên cạnh đó còn một số bài viết đăng trên các báo và tạp chí chuyên ngành.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Vân có bài: "Chế định nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000" trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (tháng 2 năm 2001). Tác giả Nguyễn
Phương Lan có bài "Bản chất của việc nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam" (Tạp chí Luật
học số 2 năm 2005), bài "Cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về chấm dứt nuôi con
nuôi và hủy việc nuôi con nuôi" (Tạp chí tòa án nhân dân số 24 năm 2005) và bài "Cơ sở của
việc quy định hình thức nuôi con nuôi trọn vẹn" (Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8 năm
2005)… Tác giả Ngô Thị Hường có bài "Về chế định nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000" (Tạp chí Luật học số 3 năm 2001). Bài viết phân tích và nêu một số
khiếm khuyết, bất cập trong các quy định về nuôi con nuôi của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000. Năm 2009, Tạp chí Dân chủ và pháp luật xuất bản riêng một số chuyên đề "Pháp
luật về nuôi con nuôi" bao gồm bài viết của các tác giả: Nguyễn Công Khanh, Bùi Thị Thu
Hằng, Hằng Thu, Nguyễn Phương Lan, Nguyễn Thăng Long… về các tồn tại, bất cập và các
giải pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi.
Bên cạnh đó, nhiều cuộc hội thảo khoa học ở những cấp độ khác nhau cũng được tổ chức.
Năm 2005, Viện Khoa học pháp lý và Cục Con nuôi quốc tế đã thực hiện đề tài nghiên cứu
khoa học cấp bộ với nhan đề: "Hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
trước yêu cầu gia nhập Công ước La Hay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh
vực nuôi con nuôi quốc tế".
2
Tháng 3/2007, tác giả Nguyễn Phương Lan đã bảo vệ Luận án tiến sĩ với đề tài "Cơ sở lý
luận và thực tiễn của chế định pháp lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam" tại Trường Đại học Luật
Hà Nội. Có thể nói luận án này là công trình khoa học có tính chuyên sâu, nghiên cứu tương
đối hệ thống và toàn diện pháp luật về nuôi con nuôi ở nước ta giai đoạn trước khi có Luật
Nuôi con nuôi ra đời.
Với tình hình nghiên cứu chung đó, việc nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
nuôi con nuôi là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu các quy định về nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam giai đoạn trước khi
Luật Nuôi con nuôi 2010 ra đời.
Nghiên cứu pháp luật một số nước về nuôi con nuôi.
Nghiên cứu chế định nuôi con nuôi trong pháp luật hiện hành của Việt Nam.
Nghiên cứu thực trạng thực hiện việc nuôi con nuôi, áp dụng pháp luật nuôi con nuôi và
giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ nuôi con nuôi.
Tìm hiểu thực trạng quản lý nhà nước về nuôi con nuôi.
Kiến giải một số vấn đề nhằm hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi ở Việt Nam hiện
nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu đề tài:
Làm sáng tỏ tính ưu việt và những hạn chế, bất cập của chế định nuôi con nuôi trong hệ
thống pháp luật Việt Nam; tìm ra những điểm còn hạn chế trong pháp luật hiện hành và trong
quá trình thi hành, áp dụng các quy định về nuôi con nuôi; đề xuất ý kiến nhằm hoàn thiện chế
định nuôi con nuôi và đảm bảo hiệu quả của việc thi hành, áp dụng chế định nuôi con nuôi trong
thực tiễn.
- Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài:
Phân tích để hiểu rõ bản chất pháp lý và tính nhân đạo của chế định nuôi con nuôi trong
pháp luật Việt Nam.
Nghiên cứu một cách tổng thể pháp luật nuôi con nuôi ở nước ta trong quá trình lập pháp,
đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với pháp luật các nước và pháp luật quốc tế; phát hiện
những bất cập, hạn chế, khiếm khuyết của các quy định về nuôi con nuôi, từ đó có cơ sở
hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi.
Khảo sát và đánh giá thực tiễn áp dụng chế định nuôi con nuôi, qua đó phát hiện những
vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng và thực hiện pháp luật nuôi con nuôi.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở đó, đề tài được nghiên cứu
bằng các phương pháp cụ thể là phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, kết hợp với các
phương pháp khác như phương pháp lịch sử, thống kê…
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Góp phần đánh giá, khắc phục và hoàn thiện hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi của Nhà
nước ta thông qua các lĩnh vực xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật trên thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi.
Chương 2: Thực trạng việc điều chỉnh pháp luật nuôi con nuôi ở Việt Nam.
Chương 3: Cơ chế bảo đảm việc thực thi pháp luật nuôi con nuôi.
3
Ch-¬ng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NUÔI CON NUÔI
1.1. Khái niệm nuôi con nuôi
Nuôi con nuôi là một khái niệm đã được quy định tại Điều 67 của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000. Đến Luật Nuôi con nuôi số 52/2010/QH12 tại khoản 1, Điều 3 vẫn tiếp tục kế
thừa khái niệm đó nhằm kiến tạo một hệ thống các thuật ngữ pháp lý về nuôi con nuôi, chứ
không nhằm đưa ra một cách hiểu khác về chế định nuôi con nuôi ở Việt Nam.
Theo đó, "nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ, con gi÷a ngêi nhËn nu«i con
nu«i vµ ng-êi ®-îc nhËn lµm con nu«i". Kh¸i niÖm nu«i con nu«i cã thÓ ®-îc xem xÐt d-íi
nhiÒu gãc ®é: sinh häc, x· héi vµ ph¸p lý. Trong ®ã, d-íi gãc ®é ph¸p lý, nu«i con nu«i lµ
viÖc x¸c lËp quan hÖ cha, mÑ vµ con gi÷a ng-êi nhËn nu«i con nu«i vµ ng-êi ®-îc lµm con
nu«i, dùa trªn ý chÝ chñ quan cña c¸c chñ thÓ tham gia quan hÖ nu«i con nu«i vµ ®-îc sù c«ng
nhËn cña c¸c c¬ quan nhµ n-íc cã thÈm quyÒn theo quy ®Þnh cña ph¸p luËt.
Chñ thÓ chÝnh trong quan hÖ nu«i con nu«i lµ ng-êi nhËn con nu«i vµ ng-êi ®-îc nhËn
lµm con nu«i.
Điều 14 Luật Nuôi con nuôi n¨m 2010 đã kế thừa quy định của Điều 69, Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000 trong viÖc quy ®Þnh ®iÒu kiÖn cña người nhận con nuôi. Theo ®ã,
ngêi nhËn con nu«i phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
nuôi chưa thành niên; có tư cách đạo đức tốt; không phải là người đang bị hạn chế quyền của
cha, mẹ đối với con chưa thành niên, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị kết
án nhưng chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng,
con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành
niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ
em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những điều trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Người được nhận làm con con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi. Quy định này là phù hợp với
độ tuổi của trẻ em được quy định trong Luật chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em năm 2005,
Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Sau khi đã hoàn tất các thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, kể từ thời
điểm giao nhận con nuôi, cha mÑ nu«i vµ con nuôi có đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý gi÷a
cha mÑ vµ con theo luËt ®Þnh. Cụ thể là, cha mẹ nuôi có nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục, yêu thương, đại diện cho con nuôi trước pháp luật, quản lý tài sản của con
nuôi, bồi thường thiệt hại do con nuôi chưa thành niên gây ra; con nuôi có trách nhiệm yêu
quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ nuôi, lắng nghe những lời khuyên bảo ®óng
đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình, chăm sóc nuôi dưỡng cha
mẹ.
Con nuôi có thể được thay đổi tên và thay đổi họ theo họ của cha, mẹ nuôi nếu cha, mẹ
nuôi có yêu cầu. Quy định này nhằm đảm bảo sự hòa nhập thực sự và toàn diện của con nuôi
vào gia đình cha, mẹ nuôi.
1.1.1. Nuôi con nuôi trong nước
Nuôi con nuôi trong nước là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau thường
trú ở Việt Nam.
Các nội dung liên quan đến vấn đề nuôi con nuôi trong nước được quy định tại chương 2
Luật Nuôi con nuôi n¨m 2010 vµ môc 1 ch-¬ng 2 NghÞ ®Þnh sè 19/2011/N§-CP ngµy
21/3/2011 cña ChÝnh phñ vÒ viÖc híng dÉn LuËt Nuôi con nuôi n¨m 2010, bao gồm các
quy định về điều kiện đối với người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi; quyền
4
và nghĩa vụ phát sinh từ việc nuôi con nuôi, thẩm quyền giải quyết và đăng ký nuôi con nuôi,
chấm dứt việc nuôi con nuôi.
1.1.2. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt
Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài.
Về nguyên tắc, người xin nhận con nuôi phải thường trú ở những nước là thành viên của
điều ước quốc tế hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam và đáp ứng đủ các điều kiện nuôi con
nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010. Điều đáng lưu ý là trẻ em Việt Nam chỉ được giải
quyết cho làm con nuôi người nước ngoài khi đã thực hiện các biện pháp tìm gia đình thay thế
nhưng vẫn không được nhận làm con nuôi trong nước, nghĩa là pháp luật hiện hành của Việt
Nam vẫn ưu tiên tìm mái ấm trong nước cho trẻ em. Cụ thể, tại điểm c, khoản 1, Điều 32 Luật
Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: tài liệu chứng minh đã thực hiện việc tìm gia đình thay thế
trong nước cho trẻ em theo quy định tại khoản 2 Điều 15 của Luật Nuôi con nuôi nhưng
không thành là một tài liệu bắt buộc phải có trong hồ sơ của người được giới thiệu làm con
nuôi nước ngoài.
Như vậy, giữa khái niệm nuôi con nuôi trong nước và khái niệm nuôi con nuôi yếu tố
nước ngoài có sự khác nhau rõ rệt. Việc công dân trong nước nhận trẻ em thường trú trong
nước hoặc có quốc tịch của nước đó được coi là hiện tượng nuôi con nuôi trong nước; còn
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi có sự chuyển trẻ em được nhận làm
con nuôi qua biên giới giữa các nước khác nhau. Trong chừng mực nhất định thì khái niệm
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài và nuôi con nuôi quốc tế là tương đồng nhau; chỉ khác là
việc nuôi quốc tế là phạm vi điều chỉnh của Công ước Lahay năm 1993.
1.2. Vµi nÐt khái quát sự phát triển của pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi
Trước khi có Luật Nuôi con nuôi năm 2010 ra đời, trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
vấn đề nuôi con nuôi đã được quy định từ đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp,
đến Bộ luật, Luật, Nghị định, Nghị quyết, Thông tư… với các nội dung quy định đầy đủ về
nguyên tắc, điều kiện, trình tự, thủ tục cho, nhận con nuôi… bên cạnh đó còn có các Hiệp
định hợp tác về nuôi con nuôi với một số nước trên thế giới.
Sau C¸ch m¹ng th¸ng T¸m, vÊn ®Ò nu«i con nu«i ®· ®-îc quy ®Þnh ngay trong LuËt
H«n nh©n vµ gia ®×nh ®Çu tiªn cña n-íc ta, vµ ngµy cµng trë thµnh mét chÕ ®Þnh ph¸p lý
quan träng trong hÖ thèng ph¸p luËt h«n nh©n vµ gia ®×nh cña n-íc ta. Sù ph¸t triÓn cña
chÕ ®Þnh nu«i con nu«i thÓ hiÖn quan ®iÓm cña nhµ n-íc ta trong viÖc b¶o vÖ vµ ch¨m
sãc c¸c quyÒn c¬ b¶n cña trÎ em, trong ®ã cã quyÒn ®-îc nhËn lµm con nu«i. Nh- vËy, cã
thÓ nhËn ®Þnh r»ng, chÕ ®Þnh nu«i con nu«i chiÕm mét vÞ trÝ quan träng trong hÖ thèng
ph¸p luËt ViÖt Nam.
Ch-¬ng 2
THỰC TRẠNG VIỆC ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT
VÕ NUÔI CON NUÔI Ở VIỆT NAM
2.1. Trước khi Luật Nuôi con nuôi năm 2010 ra đời
Các văn bản pháp luật về nuôi con nuôi của Việt Nam ban hành giai đoạn trước khi có Luật
Nuôi con nuôi n¨m 2010 ra đời đã góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ nuôi
con nuôi tại Việt Nam, bảo đảm tinh thần nhân đạo, với mục đích là tìm cho trẻ em không nơi
nương tựa một mái ấm gia đình thay thế, bước đầu đã tôn trọng nguyên tắc ưu tiên cho nhận con
nuôi trong nước, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài chỉ là biện pháp cuối cùng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình thực hiện các quy định pháp
luật về nuôi con nuôi còn có những hạn chế, bất cập, tồn tại cần khắc phục.
5
2.1.1. Một số kết quả đạt được
Nhìn chung, các văn bản pháp luật về nuôi con nuôi trong thời gian qua đã phát huy hiệu
lực, hiệu quả và đã phản ánh một bức tranh toàn cảnh mang đúng sắc thái về pháp Luật Nuôi
con nuôi ở Việt Nam, với mục đích hết sức nhân đạo là tìm mái ấm gia đình cho trẻ em không
nơi nương tựa. Và theo phương châm là ưu tiên cho nhận con nuôi trong nước, việc cho nhận
con nuôi nước ngoài là giải pháp cuối cùng. Các tiêu chí pháp luật đối với trẻ em được cho
nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, trình tự, thủ tục và các giấy tờ liên quan đến hồ sơ
nhận con nuôi, các tổ chức, văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam, phí, lệ phí đều được
vận dụng, áp dụng rất nghiêm túc, chặt chẽ và đảm bảo tính minh bạch về thủ tục pháp lý
cũng như minh bạch về tài chính liên quan. Như vậy, về mặt khách quan, chủ quan cho thấy
pháp luật về nuôi con nuôi đã góp phần tích cực trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho người
nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi và các cơ quan chức năng tiếp cận, vận dụng
các quy định pháp luật này để hoàn tất các thủ tục pháp lý đối với việc nhận con nuôi trong
nước và quốc tế.
2.1.2. Những hạn chế, bất cập, tồn tại cần khắc phục
Bªn c¹nh nh÷ng kết quả đạt được nói trên, trong quá trình thực hiện các quy định pháp
luật về nuôi con nu«i còn gặp phải những hạn chế, bất cập, tồn tại cần khắc phục sau đây:
Thứ nhất, do các văn bản pháp luật về nuôi con nuôi chưa được quy định có hệ thống, đầy
đủ, toàn diện và thống nhất trong một văn bản, do đó việc kết nối các quy định trong nhiều
văn bản khác nhau rất khó vận dụng hài hòa để giải quyết vụ việc cụ thể.
Thứ hai, các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi của Việt Nam với các nước thì có một số
Hiệp định đã hết thời hạn thực hiện.
Thứ ba, nhận thức của người dân đối với pháp luật về nuôi con nuôi chưa đầy đủ, nghiêm
túc, do đó, khi có phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý khác bên cạnh quan hệ nuôi con
nuôi thì họ lại tìm đến các cơ quan tư pháp để xin được làm thủ tục đăng ký công nhận việc
nuôi con nuôi, trong khi đó pháp luật về nuôi con nuôi cũng chưa thể dự liệu được hết các
trường hợp có thể phát sinh để kịp thời điều chỉnh giải quyết.
Thứ tư, vi phạm pháp luật về nuôi con nuôi đang được xem như là một hiện tượng phổ
biến, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh. Nh÷ng vi phạm pháp luật về nuôi con nuôi kÐo
theo sù vi phạm pháp luật về hộ tịch vµ c¸c lÜnh vùc kh¸c.
Thứ năm, cơ chế phối hợp thực hiện giữa các Bộ, ban, ngành liên quan đến giải quyết
việc nuôi con nuôi trong thời gian qua chưa có sự phân công rõ ràng về trách nhiệm đầu mối
chủ trì, phối hợp trong từng mảng công việc dẫn đến mắc trong khâu quản lý, kiểm tra, thanh
tra và giám sát việc nuôi con nuôi nhằm mục đích trục lợi đã phát sinh.
Thứ sáu, c«ng t¸c tuyên truyền pháp luật về nuôi con nuôi chưa được quan tâm, chú trọng
và thực hiện có hiệu quả trong nhân dân, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, miền núi, khu vực
có tỉnh giáp biên, huyện giáp biên và xã giáp biên.
Thứ bảy, cơ chế giải quyết vấn đề nuôi con nuôi quốc tế ở Việt Nam hiện nay tuy đã có
những thay đổi căn bản, tiệm cận với cơ chế quốc tế trong lĩnh vực này, song vẫn có những
tồn tại, bất cập cần được khắc phục, nh: cha b¶o ®¶m viÖc u tiªn nu«i con nu«i trong níc,
cßn t×nh tr¹ng lµm sai lÖch nguån gèc trÎ em, ch-a cã sù qu¶n lý chÆt chÏ ®èi víi v¨n phßng
nu«i con nu«i n-íc ngoµi, ch-a cã sù minh b¹ch ho¸ ®èi víi c¸c kho¶n hç trî nh©n ®¹o...
2.2. Sự hình thành, những điểm mới vµ nh÷ng ®iÓm cßn h¹n chÕ của Luật Nuôi
con nuôi năm 2010
2.2.1. Sự hình thành LuËt Nuôi con nuôi
Do hệ thống các quy định hiện hành về nuôi con nuôi của Việt Nam được quy định tản
mạn ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau (Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Hôn nhân và gia
6
đình năm 2000 vµ c¸c NghÞ ®Þnh, Th«ng t híng dÉn). V× vËy, việc ban hành và thực hiện
các quy định liên quan đến trẻ em không có sự thống nhất, còn chồng chéo, khó áp dụng.
Sự tản mạn, thiếu rõ ràng, không chặt chẽ và thống nhất của hệ thống pháp luật đã tạo cơ
hội cho những c¸ nh©n vµ tæ chøc trung gian lợi dụng cơ chế nhằm mục đích trục lợi, không
vì mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em. Khiến cho việc thực thi trên thực tế là rất khó
khăn. Có thể trẻ em vẫn được nhận làm con nuôi nhưng mục đích nhận nuôi con nuôi không
rõ ràng, có sự che đậy mục đích mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi đăng ký việc nuôi
con nuôi không thể phát hiện ra.
Bªn c¹nh ®ã, c¸c quy định hiện hành chưa tạo ra sự liên thông về quản lý nuôi con nuôi
trong nước và nuôi con nuôi quốc tế, chưa có sự quản lý thống nhất, phân cấp quản lý còn bất
hợp lý. Một số quy định được ban hành nhưng khó khả thi, vì không phản ánh đúng thực
trạng về các vấn đề của Việt Nam.
Để tạo ra hệ thống các quy định pháp luật thông suốt giữa nuôi con nuôi trong nước và
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; nâng cao hiệu quả áp dụng của những quy định liên quan
đến một số thủ tục giải quyết nuôi con nuôi; tạo ra cơ chế phối hợp, kiểm tra, giám sát việc
nuôi con nuôi của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực này, Bộ Tư pháp đã
chủ trì xây dựng, trình Quốc hội về việc ban hành Luật Nuôi con nuôi và được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17/6/2010 và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011.
2.2.2. Những điểm mới của Luật Nuôi con nuôi năm 2010
So với các quy định hiện hành về nuôi con nuôi, Luật Nuôi con nuôi năm 2010 có một số
điểm mới cơ bản sau:
Thứ nhất, Luật đã pháp điển hóa một cách đồng bộ các vấn đề về nuôi con nuôi trong
nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài với quan điểm xuyên suốt là tăng cường việc
nuôi con nuôi trong nước đối với trẻ em; việc cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài chỉ là giải
pháp cuối cùng.
Thứ hai, về cách thức lấy ý kiến cho trẻ em làm con nuôi. Pháp luật hiện hành chỉ quy
định trong hồ sơ xin nhận con nuôi phải có giấy đồng ý cho trẻ em làm con nuôi của những
người có liên quan (cha mẹ đẻ, người giám hộ), nên thực tế cho thấy nhiều khi giấy đồng ý
này chỉ là một thủ tục hình thức, không phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng của người đưa ra
sự đồng ý đó. Để khắc phục điểm này, nhằm tôn trọng và bảo đảm quyền thể hiện ý chí của
những người có liên quan, đặc biệt là quyền lựa chọn của trẻ em, Điều 20, 21 Luật Nuôi con
nuôi năm 2010 đã có những quy định nhằm đổi mới cách thức lấy ý kiến đối với việc cho trẻ
em làm con nuôi.
Thứ ba, về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi. Ngoài hệ quả chấm dứt nghĩa vụ cấp
dưỡng của cha mẹ đẻ đối với con đã cho làm con nuôi (kế thừa khoản 3 Điều 61 Luật Hôn
nhân và gia đình n¨m 2010), Luật Nuôi con nuôi n¨m 2010 cßn quy định trừ trường hợp cha
mẹ đẻ, người giám hộ của trẻ em với cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, thì kể từ thời điểm việc
nuôi con nuôi được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cha mẹ đẻ không còn quyền
nuôi dưỡng, nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục, đại diện, quản lý và định đoạt tài sản riêng (nếu
có) đối với con đã cho làm con nuôi. Bởi thực tế, đây là những quyền và nghĩa vụ mà một khi
đã cho con đi làm con nuôi và con nuôi sống cùng với cha mẹ nuôi, thì cha mẹ đẻ không thể
có điều kiện thực hiện. Mặt khác, để tránh xảy ra tranh chấp trong việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ của cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi đối cới con đã cho làm con nuôi thì việc quy định chấm dứt
một số quyền, nghĩa vụ pháp lý của cha mẹ đẻ đối với con đã cho làm con nuôi như quy định
tại khoản 4 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 là cần thiết.
Thứ tư, là sự đổi mới cách thức giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài. §ể khắc
phục tình trạng việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước người nước ngoài do các cơ sở
nuôi dưỡng trẻ em thực hiện, cơ sở nuôi dưỡng vừa tiếp nhận trẻ em, vừa tiếp nhận các khoản
7
hỗ trợ nhân đạo của tổ chức, cá nhân nước ngoài và trực tiếp giới thiệu trẻ em làm con nuôi
được quy định trong các văn bản pháp luật trước đó, Luật Nuôi con nuôi n¨m 2010 đã quy
định việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài sẽ được thực hiện thông qua Hội
đồng tư vấn giới thiệu trẻ em làm con nuôi. Quy định như vậy vừa bảo đảm sự tách bạch giữa
việc tiếp nhận trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng với việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, vừa bảo
đảm chặt chẽ và đề cao trách nhiệm của các cơ quan, ban, ngành địa phương trong việc tìm
gia đình thay thế cho trẻ em.
Thứ năm, về trình tự, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại khu vực biên
giới:
Trước đó, khoản 1 Điều 71 Nghị định 68/2002/NĐ-CP chỉ quy định trường hợp "công
dân của nước láng giềng thường trú ở khu vực biên giới tại Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam
thường trú ở khu vực biên giới làm con nuôi". Hiện tại, Điều 22 Nghị định 19/2011/NĐ-CP
quy định thêm một trường hợp, đó là "công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới
nhận trẻ em của nước láng giềng cư trú ở khu vực biên giới làm con nuôi". Với quy định này
thì việc điều chỉnh vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại khu vực biên giới sẽ trở nên
đầy đủ và toàn diện hơn.
Thứ sáu, về cách giải quyết vấn đề nuôi con nuôi thực tế
Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, về nguyên tắc, những trường hợp nhận nuôi
con nuôi diễn ra trước ngày 01/01/2001, nếu chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, dù là bao lâu đi nữa cũng không được công nhận có giá trị pháp lý (trừ một số trường
hợp ngoại lệ nhận nuôi con nuôi giữa đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng sâu,
vùng xa theo Nghị định 32/2002/NĐ-CP). Đồng thời, mọi trường hợp nuôi con nuôi sau ngày
01/01/2001 mà không đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền đều không có giá trị pháp lý. Như
vậy, hầu hết các quan hệ nuôi con nuôi thực tế đều không được pháp luật chấp nhận mặc dù
quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi đã hình thành trên thực tế, các bên có đủ điều kiện luật định
và đã có sự chăm sóc, đối xử với nhau trong tình cảm cha mẹ và con. Những quy định này là
chưa hợp lý vì không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ nuôi con
nuôi. Vấn đề này đã được Luật Nuụi con nuụi năm 2010 điều chỉnh. Luật quy định việc nuôi
con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trước ngày Luật có hiệu lực (ngày 01/01/2011) thì sẽ được đăng ký trong thời hạn 05
năm, nếu các bên đáp ứng đủ điều kiện tại khoản 1 Điều 50. Như vậy, Luật Nuụi con nuụi
năm 2010 mở rộng rất nhiều về đối tượng so với quy định trước đây. Luật cho phép tất cả các
trường hợp nuôi con nuôi thực tế trên cả nước đáp ứng đủ điều kiện được đăng ký xác lập
quan hệ pháp lý giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Bên cạnh đó, các trường hợp nhận nuôi con
nuôi trên thực tế tại khu vực biên giới cũng có thể được đăng ký theo khoản 2 Điều 23 Nghị
định số 19/2011/NĐ-CP.
Luật Nuụi con nuụi năm 2010 đã quy định thống nhất điều kiện nuôi con nuôi thực tế,
cách giải quyết vấn đề nuôi con nuôi thực tế cũng thấu tình đạt lý, bảo vệ quyền và lợi ích của
các bên trong trường hợp quan hệ nuôi con nuôi phát sinh trên thực tiễn.
Thứ bảy, vấn đề chấm dứt nuôi con nuôi.
Luật Nuụi con nuụi năm 2010 quy định rõ nếu các chủ thể có hành vi như lợi dụng việc
nuôi con nuôi để trục lợi, giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi... thì đây sẽ là một
trong các căn cứ để chấm dứt việc nuôi con nuôi.. Cách quy định cụ thể như vậy đã tạo điều
kiện thuận lợi cho việc áp dụng chính xác điều luật trên thực tế.
Người có quyền yêu cầu toà án chấm dứt việc nuôi con nuôi, Luật Nuụi con nuụi năm
2010 đã sửa đổi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, không quy định thẩm quyền của Viện
kiểm sát đối với việc yêu cầu toà án chấm dứt việc nuôi con nuôi. Bên cạnh đó, ủy ban bảo vệ
và chăm sóc trẻ em trên thực tế cũng đã được chia tách, sáp nhập vào Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội với tên mới là Cục bảo trợ trẻ em. Vì vậy, Luật cũng thay đổi và quy định
8
chung cơ quan có quyền yêu cầu là Cơ quan lao động, thương binh và xã hội. Như vậy, Luật
Nuụi con nuụi năm 2010 có sự điều chỉnh về mặt thẩm quyền để đảm bảo sự thống nhất giữa
các ngành luật và sự nhất quán giữa pháp luật và thực tế.
Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi: Luật Nuụi con nuụi năm 2010 có quy
định thêm một vấn đề: "Trường hợp con nuôi được giao cho cha mẹ đẻ thì các quyền, nghĩa
vụ của cha mẹ đẻ đã chấm dứt theo quy định tại khoản 4 Điều 24 của Luật này được khôi
phục" (Điều 27 Luật Nuụi con nuụi). Khi xác lập quan hệ nuôi con nuôi, nếu cha mẹ nuôi và
cha mẹ đẻ không có thoả thuận gì thì quyền và nghĩa vụ theo Điều 24 của cha mẹ đẻ sẽ chấm
dứt, hoặc cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi cũng có thể thoả thuận chấm dứt một trong số các quyền
và nghĩa vụ này. Bởi vậy, Luật đã quy định khi quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt thì các quyền
và nghĩa vụ trước đây của cha mẹ đẻ và con đẻ sẽ tự động được khôi phục.
Tóm lại, Luật Nuôi con nuôi năm 2010 ra đời đã khắc phục cơ bản những vấn đề khó
khăn, bất cập trong hệ thống văn bản pháp luật về nuôi con nuôi của Việt Nam; cải cách một
bước về lập pháp các quy định pháp luật về nuôi con nuôi; bảo đảm tính công khai, minh bạch
trong quản lý, điều hành; minh bạch hóa các nguồn tài chính liên quan đến hoạt động nuôi con
nuôi; tăng cường vai trò của Cơ quan con nuôi Trung ương (Bộ Tư pháp); tăng cường trách
nhiệm, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý, tác nghiệp việc nuôi con
nuôi, cụ thể giữa cơ quan tư pháp, cơ quan bảo trợ xã hội, cơ quan công an…
Sự ra đời của Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đã mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt về mặt xã
hội, tâm lý xã hội; thông qua các quy định mới, chặt chẽ và nghiêm khắc, nghiêm túc trấn
chỉnh hiện tượng lợi dụng quy định pháp luật hiện hành còn quá dễ dàng để thực hiện các
hành vi trục lợi. Các quy định mới của Luật Nuôi con nuôi n¨m 2010 giúp lành mạnh hóa hoạt
động nuôi con nuôi vì lợi ích tốt nhất của trẻ.
Tạo sự gắn kết giữa nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi quốc tế. Luật Nuôi con
nuôi n¨m 2010 không chỉ quy định về vấn đề nuôi con nuôi quốc tế mà còn quy định cả vấn
đề nuôi con nuôi trong nước, có sự gắn kết hữu cơ giữa nuôi con nuôi trong nước và nuôi con
nuôi quốc tế, trong đó vấn đề nuôi con nuôi trong nước được chú trọng, hướng đến mục tiêu
thu xếp mái ấm trong nước cho trẻ em, nuôi con nuôi nước ngoài chỉ là biện pháp bất đắc dĩ
cuối cùng khi không thể thu xếp được mái ấm cho trẻ trong nước.
2.2.3 Từ khi Luật Nuôi con nuôi năm 2010 có hiệu lực
2.2.3.1 Những tác động tích cực từ việc ban hành Luật Nuụi con nuụi năm 2010
Sau khi Luật Nuụi con nuụi năm 2010 được ban hành và có hiệu lực, các nội dung liên
quan đến việc nuôi con nuôi được điều chỉnh chủ yếu bởi Luật Nuụi con nuụi năm 2010 và
Nghị định số 19/2011/NĐ-CP. Hệ thống văn bản mới này sẽ giúp cho việc tiếp cận, áp dụng
các quy định về nuôi con nuôi được dễ dàng và thống nhất.
Luật Nuụi con nuụi năm 2010 đã có sự pháp điển hoá các quy định của pháp luật trước
đây thông qua việc vẫn kế thừa các quy định hợp lý trước đó.
Bên cạnh đó, Luật đã có sự sửa đổi những vấn đề còn hạn chế, đồng thời bổ sung những
quy định mới, phù hợp hơn. Luật có sửa đổi về độ tuổi của người được nhận nuôi cho phù hợp
với quy định của các ngành luật khác; các quy định về phí, lệ phí đăng ký nuôi con nuôi cũng
được Luật điều chỉnh cụ thể, tạo điều kiện cho sự minh bạch về tài chính; về hệ quả pháp lý:
Luật công nhận thêm các hệ quả phát sinh từ sự thoả thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi,
quy định cụ thể mối quan hệ pháp lý giữa các chủ thể trong quan hệ giữa các chủ thể trong
quan hệ giữa các bên, tạo điều kiện cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Ngoài ra, Luật đã thống nhất các quy định về vấn đề nuôi con nuôi trong nước và nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài, tạo nên sự gắn kết giữa hai vấn đề trên. Sự pháp điển hoá này sẽ
loại bỏ những hạn chế của chế định nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000,
đồng thời tạo ra các quy phạm mới hoàn thiện hơn, giúp cho việc điều chỉnh quan hệ nuôi con
nuôi hợp lý hơn, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi.
9
Luật Nuụi con nuụi năm 2010 đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý cho việc gia nhập Công
ước Lahay năm 1993. Những nguyên tắc, mục đích nuôi con nuôi được quy định trong Luật là
phù hợp với mục tiêu của Công ước Lahay năm 1993, đó là đảm bảo cho trẻ được "lớn lên
trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và cảm thông".
2.2.3.2. Những hạn chế cần sửa đổi, bổ sung của Luật Nuụi con nuụi năm 2010
Thứ nhất, Luật vẫn chưa đề cập đến vấn đề huỷ việc nuôi con nuôi, mặc dù tình trạng vi
phạm các điều kiện nuôi con nuôi xảy ra khá nhiều trên thực tế.
Thứ hai, vấn đề nuôi con nuôi thực tế trong Luật cũng chỉ mang tính chất tạm thời, chưa
đề ra được các phương án cụ thể để giải quyết triệt để tình trạng này.
Thứ ba, về điều kiện của người được nhận làm con nuôi.
Điều 4 Luật Nuụi con nuụi năm 2010 quy định nguyên tắc: tôn trọng quyền trẻ em được
sống trong môi trường gia đình gốc. Theo nguyên tắc này, chỉ khi cha mẹ đẻ không còn khả
năng nuôi dưỡng, giáo dục thì mới có thể cho trẻ em làm con nuôi. Tuy nhiên, nguyên tắc này
lại không được cụ thể hoá trong các quy định về điều kiện của người được nhận nuôi. Sự
thiếu sót này có thể tạo ra kẽ hở dẫn tới tình trạng mặc dù cha mẹ đẻ vẫn có đủ điều kiện nuôi
dưỡng nhưng vẫn cho trẻ em làm con nuôi. Như vậy, việc nuôi con nuôi được tiến hành
không vì lợi ích của trẻ em, không đảm bảo cho trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi
trường gia đình gốc.
Thứ tư, về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi và chấm dứt nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài.
Luật Nuụi con nuụi năm 2010 không có quy định nào về hệ quả pháp lý của việc nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài. Nội dung này chỉ được quy định tại Điều 24 thuộc chương 2 Nuôi con nuôi trong nước. Vấn đề đặt ra là Điều 24 có thể được áp dụng cho các trường hợp
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài không?
Không thể áp dụng Điều 24 cho mọi trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Vì
một quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài sẽ chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp
luật khác nhau, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài cũng không phải ngoại lệ. Vì vậy,
cần phải xây dựng và ban hành các quy phạm xung đột trong các văn bản hướng dẫn Luật Nuụi
con nuụi để điều chỉnh về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Về việc chấm dứt nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Trong Luật Nuụi con nuụi năm
2010 chỉ đề cập đến căn cứ, hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi ở trong nước mà không
quy định về chấm dứt nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Cũng tương tự như trên, pháp luật
các nước trên thế giới cũng có những quy định khác nhau về chấm dứt nuôi con nuôi.
Chương 3
CƠ CHẾ BẢO ĐẢM VIỆC THỰC THI PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI
3.1. Các biện pháp nhằm hạn chế tối đa tình trạng lợi dụng việc nuôi con nuôi trong
nước để hưởng chính sách đãi ngộ
Qua đánh giá về thực trạng quy định của pháp luật, vi phạm pháp luật trong giải quyết
việc cho, nhận nuôi con nuôi đối với gia đình chính sách, người có công, có thể đưa ra một số
giải pháp trước mắt như sau:
Một là, cần phải rà soát, kiểm tra, đánh giá về việc giải quyết cho, nhận nuôi con nuôi đối
với gia đình chính sách, người có công với cách mạng trên phạm vi toàn quốc.
Hai là, thống kê số liệu đã giải quyết, trong đó phân loại trường hợp giải quyết đúng quy
định pháp luật; trường hợp giải quyết không đúng quy định pháp luật. Đối với trường hợp giải
quyết không đúng quy định pháp luật phải phân loại vi phạm, làm rõ tính chất, mức độ của
hành vi vi phạm pháp luật và nguyên nhân của sự vi phạm đó.
10
Ba là, phải tính đến hệ quả pháp lý của việc vi phạm pháp luật trong việc giải quyết cho,
nhận nuôi con nuôi đối với gia đình chính sách, người có công với cách mạng nhằm mục đích
ngăn ngừa và kịp thời chấn chỉnh vi phạm pháp luật này tiếp tục phát sinh.
Bốn là, phải nâng cao trách nhiệm phối kết hợp của các cơ quan, ban ngành có liên quan
đến việc giải quyết cho, nhận nuôi con nuôi đối với gia đình chính sách, người có công với
cách mạng, trong phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ quan này phải có chỉ đạo sát sao,
hướng dẫn kịp thời đối với những việc mà thực tiễn giải quyết đang vướng mắc, chưa có
hướng giải quyết.
Năm là, tăng cường công tác nghiệp vụ cho các cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn nhằm
nâng cao năng lực, nghiệp vụ, góp phần đẩy mạnh hiệu quả giải quyết cho, nhận nuôi con
nuôi trong nước nói chung và giải quyết cho, nhận nuôi con nuôi đối với gia đình chính sách,
người có công với cách mạng nói riêng, tránh gia tăng việc lạm dụng này trong thực tiễn giải
quyết.
Sáu là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, bằng nhiều hình thức phong
phú, đa dạng trong nhân dân, đặc biệt nhân dân thuộc vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng hải
đảo, các đồng bào dân tộc... góp phần nâng cao nhận thức, ý thức thực hiện pháp luật về nuôi
con nuôi.
Bảy là, mở rộng địa bàn trợ giúp pháp lý nhằm cung cấp, hỗ trợ thêm thông tin về pháp
luật nu«i con nu«i trong nhân dân.
Bên cạnh các giải pháp mang tính trước mắt, cã thÓ ¸p dông một số giải pháp mang tính
lâu dài như sau:
Hoàn thiện đồng bộ, thống nhất các quy định về việc cho, nhận nuôi con nuôi đối với gia
đình chính sách, người có công với cách mạng trên cơ sở hướng dẫn chi tiết quy định tại
khoản 5, Điều 13 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 về việc nghiêm cấm hành vi lợi dụng việc
làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để
hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước.
Cần có sự tham gia của các cơ quan, ban ngành có liên quan việc xây dựng, ban hành văn
bản pháp luật liên quan đến vấn đề giải quyết cho, nhận nuôi con nuôi đối với gia đình chính
sách, người có công với cách mạng, tránh quy định thiếu thống nhất, đồng bộ và không sát
với thực tế giải quyết.
§ảm bảo cơ chế phối hợp chặt chẽ, kịp thời trong quản lý, giải quyết và xử lý các trường
hợp lạm dụng việc cho, nhận nuôi con nuôi để hưởng chế độ, chính sách.
Cá thể hóa trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết
cho, nhận nuôi con nuôi đối với gia đình chính sách, người có công với cách mạng nhằm gắn
trách nhiệm của người đó vào quá trình giải quyết để hạn chế vi phạm pháp luật phát sinh.
Tổ chức tổng kết, định kỳ kiểm tra, rà soát, đánh giá về tình hình công tác quản lý, giải
quyết việc cho, nhận nuôi con nuôi đối với gia đình chính sách, người có công với cách mạng;
rút kinh nghiệm, đề xuất phương án kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý, giải
quyết việc cho, nhận nuôi con nuôi trên thực tế.
3.2. Giải quyết cơ bản các vấn đề còn tồn tại trong cơ chế giải quyết vấn đề nuôi con
nuôi thực tế
Thực tế cho thấy, hiện nay phát sinh khá nhiều yêu cầu giải quyết các quan hệ về nhân
thân và tài sản giữa người nhận nuôi con nuôi với người được nhận nuôi, mà việc nhận nuôi
đó chưa được công nhận của cơ quan có thẩm quyền và chưa được ghi vào sổ hộ tịch, mặc dù
quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên đã tồn tại trên thực tế trong thời gian dài. Việc cần có một
giải pháp có tính khả thi để giải quyết tình trạng này là một yêu cầu khách quan và cấp thiết, cần
được pháp luật quan tâm điều chỉnh. Giải quyết vấn đề nuôi con nuôi thực tế có thể được điều
chỉnh bằng một văn bản pháp luật riêng biệt, có thể bằng Nghị quyết của Quốc hội về việc thi
11
hành Luật Nuôi con nuôi, tương tự như cách giải quyết đối với các trường hợp nam nữ chung
sống với nhau như vợ chồng trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực.
3.3. Giải quyết cơ bản các vấn đề còn tồn tại trong cơ chế giải quyết vấn đề nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài
Để có thể khắc phục được những bất cập về cơ chế giải quyết vấn đề nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài, cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn Luật Nuôi con nuôi n¨m 2010 về vấn đề
này, trong đó chú trọng quy định một số nội dung để giải quyết được những vấn đề cơ bản
nh: cải tiến trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi quốc tế; tăng cường cơ chế phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước; ban hành Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về một số biện
pháp tăng cường quản lý việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài; thực hiện
đề án tăng cường công tác quản lý Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam...
3.4 Theo dõi tình hình phát triển của trẻ em được cho làm con nuôi và tăng cường
đảm bảo quyền của trẻ em được sống trong gia đình
3.5 Các biện pháp để bảo đảm việc thực thi Luật Nuụi con nuụi năm 2010
Cần nâng cao nhận thức cho cán bộ, nhân dân về vấn đề nuôi con nuôi; tăng cường công
tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định về nuôi con nuôi; có những biện pháp cụ
thể để quản lý nguồn hỗ trợ nhân đạo trong lĩnh vực nuôi con nuôi; tập trung nguồn lực thông
qua hình thức quỹ, có thể dưới tên gọi "Quỹ hỗ trợ nuôi con nuôi"...
3.6. Tin học hoá quản lý nhà nước trong lĩnh vực nuôi con nuôi
Song song với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi, các cơ quan
có thẩm quyền cần khẩn trương xây dựng các dự án thí điểm ứng dụng công nghệ thông tin
vào công tác quản lý nhà nước. Ví dụ: dự án thí điểm xây dựng cơ sở dữ liệu về trẻ em thuộc
diện cho làm con nuôi nước ngoài tại cơ sở nuôi dưỡng hay dự án xây dựng phần mềm xử lý
hồ sơ con nuôi tại Cục con nuôi...
Kết luận
Việc cho nhận con nuôi là hiện tượng xã hội đã xuất hiện từ rất lâu trong xã hội Việt Nam
nhằm thiết lập mối quan hệ gắn bó giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con
nuôi trong quan hệ cha mẹ và con.
Khi được điều chỉnh bằng pháp luật, việc cho nhận con nuôi phải tuân thủ theo các quy
định của pháp luật. Vì vậy, nuôi con nuôi là một chế định pháp lý trong hệ thống pháp luật
Việt Nam.
Trải nghiệm và đồng hành cùng sự phát triển của xã hội trong mỗi thời kỳ, các quy định
của pháp luật về nuôi con nuôi ngày càng được phát triển và hoàn thiện, mang tính hệ thống
và điều chỉnh hiệu quả hơn.
Trên cơ sở sự phân tích, đánh giá một cách khái quát những mặt tác động tích cực cùng
những điểm còn hạn chế của hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi của nước ta, đồng thời có sự so
sánh với pháp luật của một số nước về vấn đề này; kết hợp với việc kiến nghị và nêu ra một số cơ
chế, giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả điều chỉnh của hệ thống pháp luật
về nuôi con nuôi. Tác giả cho rằng, nếu áp dụng phương pháp kế thừa và phát triển có chọn lọc
các quy phạm pháp luật hợp lý, tiến bộ, có tính nhân văn trong các văn bản pháp luật trước đó,
đồng thời có ý thức nghiêm túc trong việc triển khai và chỉ đạo thực hiện Luật Nuụi con nuụi năm
2010, chắc chắn vấn đề nuôi con nuôi sẽ được được chỉnh hiệu quả và mang lại những ý nghĩa tốt
đẹp đúng như bản chất vốn có của nó, nhằm đảm bảo cho trẻ em được nuôi dưỡng và lớn lên
trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và cảm thông để phát
triển hài hoà và toàn diện về thể chất và nhân cách.
12
Luật Nuụi con nuụi năm 2010 được hy vọng sẽ là một bước tiến triển tốt đẹp nhằm đảm
bảo hơn nữa quyền và lợi ích của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, giúp trẻ em được sống trong
một mái ấm đích thực và trọn vẹn.
References
1. Bộ Lao động, thương binh và Xã hội (2005), Đề án chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi
nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em bị nhiễm
HIV, AIDS dựa vào cộng đồng giai đoạn 2005-2010, Hà Nội.
2. Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Tư pháp (2005), Hội thảo pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức về nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp (2006), Thông tư số 08/TT-BTP ngày 08/12 hướng dẫn thực hiện một số quy
định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp (2009), Báo cáo đánh giá tác động của dự thảo Luật Nuôi con nuôi 2010, Hà
Nội.
6. Bộ Tư pháp (2009), Báo cáo tổng kết 5 năm (2003 - 2008) thi hành pháp luật về nuôi con
nuôi, Hà Nội.
7. Hà Đình Bốn (2009), "Tăng cường bảo đảm quyền trẻ em được sống trong gia đình", Dân
chủ và pháp luật, (Số chuyên đề pháp luật về nuôi con nuôi), tr. 42-49.
8. Chính phủ (2002), Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3 quy định việc áp dụng Luật
Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Hà Nội.
9. Chính phủ (2002), Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7 quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài, Hà Nội.
10. Chính phủ (2005), Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12 về đăng ký và quản lý hộ
tịch, Hà Nội.
11. Chính phủ (2006), Nghị định số 54/2006/NĐ-CP ngày 26/5 về hướng dẫn thi hành một số
điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005, Hà Nội.
12. Chính phủ (2006), Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7 về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài,
Hà Nội.
13. Chính phủ (2006), Thông tư số 08/2006/TT-BTP ngày 08/12 của Chính phủ hướng dẫn
thực hiện một số quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, Hà Nội.
14. Chính phủ (2011), Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3 quy định chi tiết một số điều
của Luật Nuôi con nuôi, Hà Nội.
15. Cục Con nuôi - Bộ Tư pháp (2009), Báo cáo rà soát quy định pháp luật hiện hành về
nuôi con nuôi, Hà Nội.
16. Vũ Kim Dung và Nguyễn Thăng Long (2009), "Quản lý nguồn hỗ trợ nhân đạo trong lĩnh
vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài - Thực trạng và giải pháp", Dân chủ và pháp
luật, (Số chuyên đề pháp luật về nuôi con nuôi), tr. 178-183.
17. Bùi Thị Thu Hằng (2009), "Vài nét khái quát pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi", Dân
chủ và pháp luật, (Số chuyên đề pháp luật về nuôi con nuôi), tr. 31-41.
13
18. Lê Thị Ngọc Hoa (2009), "Những tồn tại trong cơ chế giải quyết vấn đề con nuôi quốc tế
và giải pháp khắc phục", Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề pháp luật về nuôi con nuôi),
tr. 50-64.
19. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Trung tâm nghiên cứu quyền con người và
Viện Thông tin khoa học (2002), Văn kiện quốc tế về quyền con người, Hà Nội.
20. Nguyễn Phương Lan (2009), "Nuôi con nuôi thực tế - Thực trạng và giải pháp", Dân chủ
và pháp luật, (Số chuyên đề pháp luật về nuôi con nuôi), tr. 81-94.
21. Nguyễn Long (2009), "Tin học hoá quản lý nhà nước trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài", Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề pháp luật về nuôi con nuôi), tr. 189191.
22. Nhà Pháp luật Việt - Pháp (1998), Bộ luật dân sự của nước Cộng hoà Pháp, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
23. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
24. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
25. Quốc hội (2004), Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, Hà Nội.
26. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
27. Quốc hội (2008), Luật quốc tịch Việt Nam, Hà Nội.
28. Quốc hội (2010), Luật Nuôi con nuôi, Hà Nội.
29. Hằng Thu (2009), "Tình hình lợi dụng việc nuôi con nuôi trong nước để hưởng chính
sách đãi ngộ - Thực trạng và giải pháp", Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề pháp luật
về nuôi con nuôi), tr. 65-71.
30. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Hoàn thiện chế định nuôi con nuôi trong pháp luật
Việt Nam, Đề tài khoa học cấp trường.
31. ủy ban Thường vụ Quốc hội (2005), Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, Hà
Nội.
32. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2004), Luật Nuôi con nuôi của Trung Quốc, (Tài
liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
33. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2004), Công ước Lahay ngày 29/5/1993 về bảo vệ
trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà
Nội.
34. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài trước yêu cầu gia nhập Công ước Lahay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp
tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
14
- Xem thêm -