Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Luyện thi Đại học - Cao đẳng NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ NĂM ĐẦU SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM (1945 – 1946)...

Tài liệu NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ NĂM ĐẦU SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM (1945 – 1946)

.DOC
12
672
86

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT NGUYỄN DUY THÌ CHUYÊN ĐỀ: NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ NĂM ĐẦU SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM (1945 – 1946) Họ và tên : Tạ Thị Thanh Huyền Chức vụ : Giáo viên Năm học: 2013 - 2014 1 A. MỤC TIÊU CHUYÊN ĐỀ -1. Kiến thức - Biết được những thuận lợi và khó khăn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau Cách mạng tháng Tám 1945. - Nêu và phân tích được những biện pháp trước mắt và lâu dài của chính quyền cách mạng trong việc giải quyết những khó khăn (về xây dựng chính quyền non trẻ, diệt giặc đói, giặc dốt, tài chính và tàn dư của xã hội cũ để lại). - Hiểu rõ những chủ trương, sách lược của Đảng và Chính phủ cách mạng trong việc đối phó với quân Trung Hoa Dân quốc, bọn phản cách mạng và thực dân Pháp từ sau ngày Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước ngày 19/12/1946. 2. Kĩ năng - Rèn luyện kĩ năng phân tích đề, trả lời câu hỏi, làm bài thi đại học. - Rèn luyện kĩ năng phân tích, so sánh, nhận định, đánh giá các sự kiện, nhân vật lịch sử liên,… quan đến tình hình Việt Nam ở năm đầu sau Cách mạng tháng Tám 1945 (Ví dụ: Vì sao nói nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay khi mới ra đời đã ở vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”?). 3. Thái độ, tư tưởng - Bồi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, tự hào dân tộc, trung thành và tin tưởng vào sự lãnh đạo tài tình của Đảng. - Lên án những hành động phá hoại, xâm lược của kẻ thù, sự phản bội Tổ quốc của bọn phản cách mạng. 4. Đối tượng - Đối tượng của chuyên đề: Học sinh lớp 12 - Số tiết: 4 tiết B. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ 1: Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám năm 1945 a. Bối cảnh quốc tế - Sau chiến tranh thế giới II thì hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành, phong trào giải phóng dân tộc đang dâng cao ở nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc. Phong trào đấu tranh vì hoà bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản. Đó là những nhân tố quan trọng, có tác dụng cổ vũ động viên nhân dân ta tiếp tục sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn khó khăn mới. 2 - Với bản chất phản động thì bọn đế quốc ra sức chống phá phong trào cách mạng, tìm mọi cách để chiếm lại những thuộc địa đã mất và tranh giành thuộc địa lẫn nhau. Việt Nam cũng là một trong những đối tượng tranh giành của chúng. b. Bối cảnh trong nước *Khó khăn do ngoại xâm và nội phản: - Chỉ 10 ngày sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, quân đội của các nước Đồng minh đã lần lượt kéo vào nước ta. + Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc ồ ạt vào Hà Nội và hầu khắp các tỉnh. Núp dưới danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, quân Tưởng nuôi dã tâm: tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng lập ra chính quyền phản động làm tay sai cho chúng. Vì vậy, khi kéo vào nước ta chúng kéo theo bọn tay sai thuộc các tổ chức: Việt Nam quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách). Dựa vào quân Trung Hoa dân quốc, bon tay sai đã dựng chính quyền phản động ở một số nơi như: Yên Bái, Vĩnh Yên, Móng Cái. Hàng ngày chúng gây ra những vụ cướp bóc, giết người, kích động quần chúng chống lại chính quyền cách mạng. + Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, cũng dưới danh nghĩa Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật, quân đội của đế quốc Anh đã dọn đường cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Đông Dương. - Lợi dụng tình hình trên, các lực lượng phản động ở Miền Nam như Đại Việt, Tơrốtxkít, bọn phản động trong các giáo phái cũng ngóc đầu dậy làm tay sai cho Pháp, ra sức chống phá cách mạng. + Trên đất nước ta lúc đó còn 6 vạn quân Nhật. Trong khi chờ giải giáp, một bộ phận đã thực hiện lệnh của đế quốc Anh cầm súng chống lại lực lượng ta, tạo điều kiện cho Pháp mở rộng chiếm đóng. * Khó khăn về kinh tế – tài chính + Nền kinh tế nước ta chủ yếu là nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Chính sách cướp bóc, vơ vét của Pháp, Nhật đã dẫn tới nạn đói cuối 1944 đầu 1945 vẫn chưa được khắc phục. Tiếp đó, nạn lụt tháng 8/1945 làm vỡ đê 9 tỉnh Bắc Bộ, sau đó lại hạn hán kéo dài, làm cho 50% diện tích đất không cày cấy được. Sản xuất công nghiệp đình đốn, hàng hoá khan hiếm, giá cả tăng vọt. Nạn đói mới đang đe doạ nghiêm trọng đến đời sống nhân dân. 3 + Ngân sách của Trung ương chỉ còn 1.230.000đ, trong đó một nửa là rách nát không lưu hành được. Nhà nước lại chưa kiểm soát được ngân hàng Đông Dương. Trong khi đó bọn Trung Hoa dân quốc tung tiền “quan kim”, “quốc tệ” đã mất giá ra thị trường càng làm cho nền tài chính thêm rối loạn. * Về văn hoá - giáo dục Các di sản văn hoá lạc hậu của chế độ thực dân, phong kiến để lại rất nặng nề: trên 90% dân số mù chữ, các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút... còn rất phổ biến.  Khó khăn của ta lúc này là rất lớn nó trực tiếp đe doạ sự tồn vong của chính quyền cách mạng, chưa bao giờ đất nước ta đứng trước nhiều khó khăn như vậy, vận mệnh đất nước như “Ngàn cân treo sợi tóc” * Thuận lợi: - Nhân dân lao động đã giành được quyền làm chủ và bước đầu được hưởng những quyền lợi do chính quyền cách mạng đem lại nên vô cùng phấn khởi và gắn bó với chế độ mới. - Đảng ta đã nắm được chính quyền trong cả nước, trở thành một đảng lãnh đạo hợp pháp. Có lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn vững tay lái đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua sóng gió thác ghềnh. 2: Chủ trương và biện pháp của Đảng nhằm giải quyết những khó khăn đặt ra sau cách mạng tháng Tám a. Xây dựng và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân - Việc xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân có đủ cơ sở pháp lý để thực hiện chính sách đối nội, đối ngoại, khắc phục những khó khăn là một việc hết sức cần thiết. + Chỉ 1 tuần sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Chính phủ lâm thời đã công bố lệnh tổng tuyển cử trong cả nước và 20/9/1945, ra sắc lệnh thành lập Uỷ ban dự thảo hiến pháp. + Ngày 6/1/1946, vượt qua mọi hành động chống phá của kẻ thù, hơn 90% cử tri trong cả nước đã đi bầu cử, bầu ra cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước là Quốc hội. Trên phạm vi cả nước đã bầu được 333 đại biểu vào Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. + Ngày 2/3/1946, tại phiên họp đầu tiên ở Hà Nội, Quốc hội đã thông qua danh sách Chính phủ chính thức do Hồ Chí Minh đứng đầu, lập ra Ban dự thảo hiến pháp. Cuối 1946, hiến pháp đầu tiên của nước ta được Quốc hội thông qua. + Tiếp đó, ở khắp các địa phương từ tỉnh đến xã ở Trung Bộ và Bắc Bộ đều tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Uỷ ban hành chính 4 các cấp cũng được thành lập. Bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân bước đầu được củng cố và kiện toàn. - ý nghĩa: + Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp là một đòn giáng mạnh mẽ vào âm mưu chia rẽ, lật đổ và xâm lược của đế quốc và tay sai. + Nâng cao uy tín của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trên trường quốc tế. + Khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, ý thức làm chủ và nghĩa vụ của mỗi người công dân đối với nhà nước cách mạng. + Tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc của một nhà nước cách mạng để thực hiện nhiệm vụ đối nội, đối ngoại trong thời kỳ mới đầy trông gai thử thách. + Biểu dương sức mạnh và ý chí sắt đá của khối đoàn kết toàn dân, khẳng định sự tín nhiệm tuyệt đối của nhân dân ta đối với Mặt trận Việt Minh và Hồ Chí Minh. b. Giải quyết những khó khăn về kinh tế : - Thanh toán nạn đói: bằng 2 biện pháp trước mắt và lâu dài. + Biện pháp trước mắt: Dựa vào dân (tiết kiệm và quyên góp) thực hiện nhường cơm xẻ áo. Nghe theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và noi gương Người: “Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn 3 bữa, đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”, đồng bào cả nước đều lập các hũ gạo tiết kiệm và không dùng gạo, ngô để nấu rượu. Truyền thống đồng cam, cộng khổ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau của đồng bào được khơi dậy mạnh mẽ. Nhiều nơi đồng bào còn tổ chức “ngày đồng tâm” để có thêm gạo cứu đói. Chính phủ tích cực điều hoà thóc gạo giữa các địa phương và ra sắc lệnh nghiêm trị những kẻ đầu cơ tích trữ thóc gạo. + Về lâu dài: Phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất, lấy ngắn nuôi dài. Hồ Chí Minh đã kêu gọi “ Tăng gia sản xuất ! Tăng gia sản xuất ngay ! tăng gia sản xuất nữa !”, thực hiện khẩu hiệu “Tấc đất tấc vàng!”. Hưởng ứng phong trào này từ thành thị đến nông thôn đâu đâu cũng ra sức sản xuất. Diện tích đất hoang được đưa vào sử dụng, đê bị vỡ đã được khôi phục. Chính phủ còn tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc, Việt gian chia cho nhân dân nghèo, chia lại ruộng công, ra thông tư giảm tô 25%, bãi bỏ các thứ thuế vô lý. Nhờ có biện pháp khắc phục trên, sản xuất nông nghiệp được nhanh chóng khôi phục. Nạn đói bị đẩy lùi. + Kết quả: Nạn đói được đẩy lùi, nhân dân phấn khởi và tin vào chính quyền cách mạng. c. Khắc phục khó khăn về tài chính: + Biện pháp trước mắt: Chính phủ kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân. Hưởng ứng xây dựng "Quỹ độc lập" và phong trào “Tuần lễ vàng” do Chính phủ phát 5 động, đồng bào cả nước hăng hái đóng góp tiền, vàng ủng hộ chính quyền cách mạng. Chỉ trong thời gian ngắn, đồng bào cả nước đã tự nguyện đóng góp được 370 kg vàng và 20 triệu bạc. + Biện pháp lâu dài: Nhà nước chủ trương ổn định nền tài chính, phát hành tiền mới và tổ chức thu thuế. Ngày 31/1/1946, Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam và đến ngày 23/11/1946, Quốc Hội đã quyết định lưu hành tiền Việt Nam và tẩy chay tiền Ngân hàng Đông Dương phát hành. + Kết quả: Đã xóa nạn mù chữ cho hơn 2,5 triệu người, nhân dân thực hiện nếp sống văn hóa mới. c. Giải quyết những vấn đề về văn hoá: + Biện pháp trước mắt: Tổ chức các lớp bình dân học vụ để xóa mù chữ cho dân. Ngày 8/9/1945 Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập cơ quan Bình dân học vụ và kêu gọi toàn dân tham gia phong trào xoá nạn mù chữ. Đến đầu 3/1946, riêng ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có gần 3 vạn lớp học với 81 vạn học viên. + Biện pháp lâu dài: Các trường tiểu học và trung học được xây dựng ở nhiều nơi. Nội dung và phương pháp giáo dục bước đầu được đổi mới theo hướng dân tộc và dân chủ. + Kết quả: Đến năm 1946, Nhà nước căn bản cân bằng thu – chi.  Với những kết quả đạt được đã bước đầu khắc phục những khó khăn của nước ta sau cách mạng tháng Tám, tạo cơ sở tiền đề để nhân dân ta bước vào cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài trong những năm tiếp theo. 3: Chủ trương của Đảng và Chính Phủ đối với quân Trung Hoa Dân Quốc và bọn phản cách mạng ở miền Bắc như thế nào từ ngày 2/9/1945 đến trước ngày 6/3/1946 như thế nào. * Chủ trương của Đảng - Kẻ thù của cách mạng nước ta lúc này là đế quốc và tay sai. Chúng chia làm hai khối, phía Bắc có Mỹ - quân Trung Hoa dân quốc và tay sai, phía Nam có Anh - Pháp và tay sai. Giữa hai khối có mâu thuẫn về mặt quyền lợi nhưng nó thống nhất với nhau trong âm mưu chống phá cách mạng. Lực lượng của kẻ thù lúc này đông và mạnh, trong đó Pháp là kẻ thù chủ yếu. Do đó trên cơ sở nắm vững nguyên tắc chiến lược, Đảng đã mềm dẻo trong sách lược, biết phân hóa kẻ thù để đánh đuổi chúng. -Từ 2/9/1945 đến 6/3/1946, ta tạm thời hoà hoãn tránh xung đột với quân Trung Hoa Dân Quốc. Để tập trung lực lượng đánh Pháp đang xâm lược Miền Nam, chủ trương thực hiện chủ trương hết sức tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù trong cùng một lúc, nhà nước ta thực hiện sách lược hoà hoãn, tránh xung đột, giao thiệp thân thiện, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chính trị với Tưởng một cách khôn khéo. 6 * Biện pháp đối phó - Thực hiện chủ trương trên, các cuộc mít tinh, biểu tình được tổ chức, tập hợp hàng nghìn người mang theo băng cờ, khẩu hiệu: "nước Việt Nam của người Việt Nam", "ủng hộ chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà", "ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh"... - Để hạn chế đến mức thấp nhất sự phá hoại của quân Trung Hoa dân quốc và tay sai, Đảng và Chính phủ ta đã nhân nhượng cho chúng một số quyền lợi về kinh tế, chính trị như: Nhận tiêu tiền “ quan kim” và “quốc tế”, cung cấp một phần lương thực cho chúng và để cho tay sai của Tưởng nắm một số chức vụ trong chính phủ: Phó chủ tịch nước Nguyễn Hải Thần, 4 ghế bộ trưởng (ngoại giao, kinh tế, canh nông và xã hội) và chấp nhận bổ sung thêm 70 ghế vào Quốc hội cho chúng. - Đảng tuyên bố “tự giải tán”, nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật. - Bên cạnh chủ trương nhân nhượng với quân Trung Hoa dân quốc và tay sai, đối với các tổ chức phản cách mạng, tay sai của quân Trung Hoa dân quốc (Việt Quốc, Việt Cách), chính quyền cách mạng dựa vào quần chúng kiên quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại của chúng. Những kẻ phá hoại có đủ bằng chứng đều bị trừng trị theo pháp luật. Chính phủ còn ban hành một số sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách mạng như 5/9/1945 ra sắc lệnh giải tán "Đại Việt quốc gia xã hội đảng" và "Đại Việt quốc dân đảng" là những đảng phản động, tay sai của Nhật; sắc lệnh ngày 12/9/1945 cho an trí những người nguy hiểm cho nền dân chủ cộng hoà Việt Nam; sắc lệnh lập toà án quân sự trừng trị bọn phản cách mạng...  Vì sao phải nhân nhượng với quân Trung Hoa dân quốc và tay sai ? Chủ trương nhân nhượng với Tưởng và tay sai của chúng là cần thiết trong lúc này vì chúng là kẻ thù cách mạng nhưng lại mang danh nghĩa Đồng Minh. Hơn nữa lực lượng cách mạng lúc này còn non trẻ, chính quyền cách mạng còn trứng nước, lực lượng vũ trang đang trong quá trình hình thành phải tập trung để đánh kẻ thù chủ yếu. Đặc biệt lúc này chính phủ ta đang đứng trước tình thế hiểm nghèo là đương đầu với nhiều khó khăn, nhiều kẻ thù cho nên nhân nhượng với Tưởng là đúng đắn. Việc thực hiện sách lược trên đây đã hạn chế và vô hiệu hoá đến mức thấp nhất các hoạt động chống phá của quân Tưởng và tay sai làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Chính quyền cách mạng càng tăng thêm uy tín trong đấu tranh. 4: Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ chống thực dân Pháp xâm lược + Ngay khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, thực dân Pháp đã lập kế hoạch quay lại xâm lược Việt Nam. Ngày 2/9/1945, khi nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức mít tinh, thực dân Pháp đã lấp trong nhà thờ bắn vào đoàn biểu tình làm cho 47 người chết và nhiều người bị thương. Đêm ngày 22 rạng ngày 23/9/1945, được sự giúp đỡ của Anh, thực dân Pháp đánh 7 úp trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ 2. + Từ 23/ 9/1945 Xứ uỷ và Uỷ ban nhân dân Nam bộ đã họp và quyết định phát động nhân dân Nam Bộ đứng dậy kháng chiến. Quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn anh dũng đánh trả bọn xâm lược bằng mọi hình thức và mọi thứ vũ khí như triệt nguồn tiếp tế của địch ở trong thành phố, tổng bãi công, bãi thị, bãi khoá, dựng chướng ngại vật và chiến luỹ trên khắp đường phố. Các cơ sở kinh tế, kho tàng bị phá huỷ, điện, nước bị cắt. Các chiến sĩ lực lượng vũ trang của ta đột nhập sân bay Tân Sơn Nhất, đốt cháy tàu Pháp vừa cập bến Sài Gòn, phá khám lớn...Quân Pháp sống trong một thành phố bị bao vây, không điện nước, không nguồn tiếp tế và luôn bị quân dân ta tập kích, tiêu hao, tiêu diệt. Đầu tháng10/1945, quân Pháp được tăng viện đã đánh phá vòng vây xung quanh Sài Gòn đánh chiếm các tỉnh Nam bộ, Nam Trung Bộ. Cuộc kháng chiến của ta gặp rất nhiều khó khăn. Cuối 10/1945, Hội nghị Xứ uỷ Nam Bộ mở rộng cũng đã họp rút kinh nghiệm, chấn chỉnh tổ chức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng cơ sở bí mật trong vùng địch tạm chiếm, khôi phục chính quyền ở những nơi bị tan vỡ. + Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chí Minh cũng phát động phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến, đồng thời chuẩn bị đối phó với âm mưu của Pháp mở rộng chiến tranh ra cả nước. Hàng vạn thanh niên nô nức lên đường nhập ngũ. Cả nước chi viện về mọi mặt cho Miền Nam, tổ chức nam tiến. Các đơn vị nam tiến từ Hà Nội, căn cứ địa Việt Bắc...đã tấp nập vào Nam đánh giặc cứu nước.  Cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân Miền Nam đã ngăn chặn từng bước tiến công của địch, hạn chế âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của chúng, phát triển chiến tranh du kích, giữ vững và mở rộng lực lượng, tích luỹ được những kinh nghiệm chiến đấu góp phần bảo vệ củng cố chính quyền cách mạng. Tạo điều kiện cho cả nước chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc kháng chiến toàn quốc về sau. 5: Chủ trương sách lược của Đảng và Chính Phủ đối với thực dân Pháp từ ngày 6/3/1946 đến trước ngày 19/12/1946. * Từ 6/3/1946 đến 19/12/1946: Đảng và Chính Phủ là tạm hoà hoãn với thực dân Pháp để đẩy Tưởng và tay sai ra khỏi đất nước, tranh thủ thời gian hoà bình chuản bị lực lượng kháng chiến. - Hiệp ước Hoa - Pháp (28/2/1946) (Hoàn cảnh dẫn đến việc ký kết Hiệp định sơ bộ 6/3/1946) 8 + Hoàn cảnh: Sau khi chiếm đóng các đô thị ở Nam Bộ và cực nam Trung Bộ, thực dân Pháp chuẩn bị tiến quân ra miền Bắc. Nhưng với lực lượng hiện có (3,5 vạn), trong khi chưa bình định xong Nam bộ, nếu đưa quân ra Bắc không những phải đương đầu với lực lượng kháng chiến của nhân dân miền Bắc Việt Nam mà còn vấp phải trở ngại là quân Tưởng. Tình hình đó buộc Pháp phải dùng thủ đoạn chính trị là điều đình với Tưởng để thay thế Tưởng chiếm đóng miền Bắc Việt Nam. Tưởng giới Thạch lúc này đang cần tập trung lực lượng đối phó với phong trào cách mạng của nhân dân Trung Quốc do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Vì những lý do trên, Pháp và Tưởng đã ký với nhau Hiệp ước Hoa – Pháp vào ngày 28/2/1946. + Nội dung: Pháp nhường cho Tưởng một số quyền lợi về kinh tế - chính trị như: Trả lại tô giới của Pháp trên đất Trung Quốc cho Tưởng, cho Tưởng được vận chuyển hàng hoá qua cảng Hải Phòng vào Hoa Nam không phải đóng thuế, Pháp bán cho Tưởng đoạn đường sắt từ Hồ Kiều đến Côn Minh ( thuộc tuyến đường sắt Hà Nội - Vân Nam) Tưởng nhường cho quân đội Pháp quyền thay thế chiếm đóng miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp phát xít Nhật. Như vậy, Hiệp ước Hoa - Pháp đã đặt nhân dân Việt Nam trước hai giải pháp là cầm vũ khí chống thực dân Pháp ngay khi chúng đưa quân ra miền Bắc hoặc là chủ động đàm phán ngay với Pháp, tạm hoà hoãn với chúng để nhanh chóng gạt 20 vạn quân Tưởng về nước và tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng để bước vào cuộc chiến tranh với Pháp sau này. Đứng trước tình hình đó Đảng và Chính phủ ta đã quyết định chọn giải pháp hoà hoãn với Pháp. - Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 + Chiều 6/3/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ ta ký với đại diện của chính phủ Pháp là Xanhtơni bản Hiệp định sơ bộ đặt cơ sở cho một cuộc đàm phán để đi đến một hiệp ước chính thức. + Nội dung: Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng nằm trong khối Liên hiệp Pháp. Chính phủ Việt Nam thoả thuận cho 15.000 quân Pháp được vào miền Bắc thay quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, số quân này sẽ rút dần trong thời hạn 5 năm. 9 Hai bên thực hiện ngừng bắn ngay ở Nam Bộ, tạo không khí thuận lợi cho việc mở cuộc đàm phán chính thức ở Pari. - Tạm ước 14/9/1946: + Sau Hiệp định sơ bộ, ta đã thực hiện nghiêm chỉnh mọi quy định đã được ký kết. Nhưng về phía Pháp, cúng vẫn tiếp tục gây xung đột vũ trang ở Nam Bộ, thành lập chính phủ Nam Kỳ tự trị nhằm tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. Tuy nhiên do sự đấu tranh kiên quyết của ta, cuộc đàm phán chính thức giữa ta và Pháp vẫn được tổ chức tại Phôngtennơblô (Pháp). Cuộc đàm phán kéo dài hơn hai tháng, cuối cùng thất bại. Quan hệ Việt - Pháp ngày càng căng thẳng và có nguy cơ xảy ra chiến tranh. + Trước tình hình trên, nhằm kéo dài thêm thời gian hoà hoãn để củng cố, xây dựng lực lượng và tỏ rõ thiện chí của ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đó đang là thượng khách của nước Pháp đã ký với chính phủ Pháp bản Tạm ước ngày 14/9/1946 tiếp tục nhượng bộ cho Pháp một số quyền lợi kinh tế - văn hoá ở Việt Nam. * Ý nghĩa của những biện pháp trên  Bằng việc ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và tạm ước 14/9/1946, chúng ta đã đập tan âm mưu của đế quốc Pháp trong việc câu kết với Tưởng để chống lại ta. Không còn lý do ở lại Việt Nam, 20 vạn quân Tưởng phải rút về nước. Bọn tay sai mất hết chỗ dựa cũng phải chạy theo quân Tưởng.  Tranh thủ thời gian hoà bình để xây dựng và củng cố lực lượng, chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp.  Có được những thắng lợi trên là do toàn thể nhân dân Việt Nam đã đoàn kết chặt chẽ chiến đấu dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng. C. LUYỆN ĐỀ Câu 1. Chủ trương, sách lược của Đảng và Chính phủ ta đối với Pháp và quân Trung Hoa Dân Quốc trong hai thời kỳ trước và sau ngày 6/3/1946 có gì khác nhau? Ta đạt được những thắng lợi gì qua việc ký với Pháp Hiệp định sơ bộ (6/3/1946)? Câu 2. Phân tích chính sách đối ngoại "Mềm dẻo về sách lược, cứng rắn về nguyên tắc" của Đảng và Chinhs phủ cách mạng từ sau ngày 2/ 9/ 1945 đến ngày 19/ 12/ 1946. Câu 3. Phân tích chính sách đối ngoại của Đảng và Chính phủ cách mạng từ sau ngày 02/09/1945 đến ngày 19/12/1946. 10 Câu 4. Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có biện pháp gì để giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính sau Cách mạng tháng 8/1945? Câu 5. Trình bày khó khăn lớn nhất của nước ta sau Cách mạng tháng 8/1945? Câu 6. Tại sao nói sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cách mạng nước ta lâm vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc“? Câu 7. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm gì để xây dựng chính quyền mới sau thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945? Ý nghĩa của việc làm đó? 11 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan