Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố ở việt nam hiện nay ...

Tài liệu Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố ở việt nam hiện nay

.PDF
182
1167
65

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ LAN NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC HÀ NỘI - 2017 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ LAN NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Mã số: 62 22 03 08 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐỖ THỊ THẠCH HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Nguyễn Thị Lan MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Những công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án 1.2. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến luận án 1.3. Đánh giá những công trình tổng quan và những vấn đề luận án tiếp tục làm sáng tỏ Chương 2: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Quan niệm về nữ trí thức, nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam 2.2. Đặc điểm và vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay 2.3. Những yếu tố tác động đến vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị 7 7 22 26 31 31 35 55 Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY 3.1. Thực trạng thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay 3.2. Những vấn đề đặt ra đối với phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay 68 68 97 Chương 4: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. Quan điểm cơ bản phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay 4.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay 4.3. Đề xuất một số khuyến nghị KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 114 114 121 142 148 151 152 164 DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1: Một số trường chính trị có tỷ lệ nữ trí thức thấp trong tổng số đội ngũ trí thức của nhà trường 41 Bảng 2.2: Một số trường chính trị có số lượng nữ trí thức chiếm tỷ lệ cao trong tổng số đội ngũ trí thức nhà trường 42 Bảng 2.3: Trình độ học vấn của nữ trí thức ở một số trường chính trị trong cả nước 45 Bảng 3.1: Chức danh giảng dạy của nữ giảng viên ở một số trường chính trị 69 Bảng 3.2: Nữ trí thức ở một số trường chính trị tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng 72 Bảng 3.3: Số lượng lớp và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của một số trường chính trị trong năm học 2015 - 2016 77 Bảng 3.4: Số lượng nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở ở một số trường chính trị 81 Bảng 3.5: Số lượng nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, thành phố ở một số trường chính trị từ năm 2008 đến 2015 82 Bảng 3.6: Số lượng nam/nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, thành phố ở một số trường chính trị 84 Bảng 3.7: Số lượng nữ trí thức tham gia Ban chấp hành Đảng bộ ở một số trường chính trị nhiệm kỳ 2010 - 2015 và 2015 - 2020 91 Bảng 3.8: Số lượng nữ trí thức tham gia Ban Giám hiệu ở một số trường chính trị hiện nay 92 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Ở Việt Nam, hiện nay có 63 trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là trường chính trị), được Đảng, Nhà nước giao thực hiện chức năng, nhiệm vụ là tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ, công chức ở địa phương về lý luận chính trị - hành chính; đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác [17]. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, trong những năm qua hệ thống các trường chính trị đã không ngừng phát triển, có nhiều đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở, từng bước đáp ứng yêu cầu đặt ra của sự nghiệp đổi mới đất nước. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của các trường chính trị tỉnh, thành phố có sự đóng góp quyết định của đội ngũ trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng đang làm việc ở các cơ sở đó. Là một bộ phận chủ lực trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý trong các trường chính trị, trong những năm qua, được sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, nhà trường và sự vươn lên của bản thân, đội ngũ nữ trí thức các trường chính trị không ngừng phát triển cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Họ đã và đang làm việc hăng say, nhiệt huyết với tinh thần, trách nhiệm cao nhất trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Một số chị đã trở thành nhà giáo ưu tú, giáo viên dạy giỏi toàn quốc; có chị trở thành nhà quản lý giỏi với cương vị là thủ trưởng đơn vị. Hiện nay, nữ 2 trí thức các trường chính trị tham gia công tác lãnh đạo, quản lý từ cấp khoa, phòng trở lên chiếm trên 20%, trong đó cán bộ quản lý cấp trường chiếm tỷ lệ khoảng 8%; tỷ lệ có học hàm, học vị cũng được tăng lên,… Những đóng góp của các chị góp phần không nhỏ vào thành tích to lớn của các nhà trường trong công tác đào tạo cán bộ của Đảng, nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, qua đó góp phần khẳng định vị thế, vai trò của nữ trí thức Việt Nam nói chung trong tiến trình xây dựng đất nước. Tuy nhiên, từ thực tiễn ở các trường chính trị hiện nay, cho thấy, đội ngũ nữ trí thức ở đây, chưa thực sự phát huy hết tiềm năng, vai trò; chưa đáp ứng được yêu cầu khách quan của sự nghiệp đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở cũng như công tác nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển kinh tế xã hội địa phương. Tỷ lệ nữ trí thức ở các trường chính trị có trình độ đại học trở lên chiếm ưu thế tuyệt đối (100%), nhưng càng ở bậc cao, tỷ lệ này càng thấp đi, thậm chí rất thấp (tiến sỹ chỉ khoảng 2%, chỉ có 12,1% nhà giáo ưu tú, chưa có nữ giáo sư, phó giáo sư...). Số lượng nữ trí thức người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ rất thấp. Phần lớn nữ trí thức có trình độ cao đều đã ở tuổi cao, nữ trí thức trẻ làm lãnh đạo, quản lý nhà trường còn ít. Trình độ ngoại ngữ, tin học, kiến thức, kỹ năng, năng lực lãnh đạo, quản lý của một bộ phận không nhỏ nữ trí thức chưa tương xứng với yêu cầu phân cấp quản lý công việc ở các trường chính trị hiện nay,… Bất cập trên do nhiều nguyên nhân, như nhận thức xã hội về vai trò của nữ trí thức chưa có sự công bằng so với nam trí thức; môi trường, điều kiện làm việc, cơ chế, chính sách có tính đặc thù cho nữ trí thức trong các trường chính trị còn hạn chế; do sự tự ty, an phận của một bộ phận không nhỏ nữ trí thức v.v.. Vì vậy, trước yêu cầu của sự nghiệp đào tạo đội ngũ cán bộ cho cấp cơ sở, nâng cao chất lượng về chuyên môn, nghiệp vụ, cũng như công tác nghiên cứu khoa học góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương,… cần 3 phải phát huy vai trò của toàn thể đội ngũ cán bộ các nhà trường, trong đó có vai trò quan trọng của đông đảo nữ trí thức các trường chính trị là rất cần thiết, đòi hỏi phải có các giải pháp toàn diện, động bộ, khả thi. Tuy nhiên, cho đến nay, ở nước ta chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể về nữ trí thức trong các trường chính trị. Đây là một khoảng trống cần nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, của Đảng, Nhà nước, các địa phương. Là một giảng viên đang giảng dạy tại trường chính trị, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học với mong muốn góp phần đề xuất các hướng phát triển đội ngũ nữ trí thức các trường chính trị đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ của Đảng, Nhà nước hiện nay. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam, luận án đề xuất một số quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu góp phần phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ Thứ nhất, làm rõ đặc điểm, vai trò và những yếu tố tác động đến nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Thứ hai, phân tích thực trạng thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra. Thứ ba, đề xuất các quan điểm cơ bản, những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam đáp ứng yêu 4 cầu, nhiệm vụ đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam (vai trò, thực hiện vai trò). 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Hiện nay, cả nước có 63 trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tuy nhiên, trong luận án tác giả đã lựa chọn tiến hành nghiên cứu, khảo sát nữ trí thức ở 08 trường chính trị đại diện cho các vùng miền trong cả nước. Phía Bắc: Trường Chính trị tỉnh Lào Cai, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ, Trường Chính trị Tô Hiệu thành phố Hải Phòng. Miền Trung và Tây Nguyên: Trường Chính trị tỉnh Nghệ An, Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi, Trường Chính trị tỉnh Đắk Lắk. Phía Nam: Trường Chính trị tỉnh Tây Ninh và Trường Chính trị thành phố Cần Thơ. - Về thời gian: Luận án nghiên cứu nữ trí thức trong các trường chính trị từ năm 2008 đến nay (Từ khi có Quyết định 184-QĐ/TW, ngày 03/9/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương). - Về nội dung: Nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau của nhà trường từ giảng dạy lý luận chính trị, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý, công tác quản trị văn phòng, công tác tài chính kế toán,… Tuy nhiên, trong giới hạn của luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vai trò, thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị 5 trên 03 lĩnh vực chủ yếu: (1) Hoạt động đào tạo, (2) Hoạt động nghiên cứu khoa học và (3) Hoạt động lãnh đạo, quản lý của nhà trường. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đội ngũ trí thức, nữ trí thức, vai trò của đội ngũ nữ trí thức. Luận án tham khảo các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học ở trong nước và nước ngoài liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và một số phương pháp liên ngành. Luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, gồm 01 mẫu phiếu khảo sát, với số lượng: 425 phiếu; phạm vi: 08 trường chính trị tỉnh, thành phố đã được lựa chọn ở mục phạm vi không gian; đối tượng phiếu khảo sát: 220 nữ trí thức và 205 nam trí thức là cán bộ giảng viên, chuyên viên, lãnh đạo, quản lý các cấp của nhà trường; kết quả khảo sát (Phụ lục 7). 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Một là, luận án góp phần làm rõ đặc điểm, vai trò, điểm mạnh, điểm hạn chế trong thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay; chỉ rõ những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay. Hai là, luận án góp phần đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị đáp ứng yêu cầu trong công tác đào tạo cán bộ cấp cơ sở hiện nay. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án cung cấp một số cơ sở lý luận, thực tiễn góp phần trong xây dựng và thực hiện chính sách đối với nữ trí thức trong các trường chính trị nói riêng, nữ trí thức làm công tác lý luận chính trị nói chung. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập những chuyên đề liên quan đến vấn đề con người, đội ngũ trí thức, nữ trí thức, phụ nữ và các chuyên ngành khác có liên quan. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 11 tiết. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1.1. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu về trí thức Trong những năm qua, các công trình nghiên cứu về trí thức Việt Nam rất đa dạng, phong phú, tiêu biểu như: Hoàng Phê trong cuốn Từ điển Tiếng Việt cho rằng, trí thức là “người chuyên làm việc lao động trí óc và có chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình” [68]. Cách định nghĩa này đã chỉ ra một số đặc điểm của trí thức, nhưng, cho đến nay, nó đã bị vượt qua, bởi nó chưa nhấn mạnh được đặc điểm lao động đặc thù của người trí thức là lao động trí óc sáng tạo, phức tạp, tạo ra những sản phẩm có giá trị đặc biệt về tinh thần, vật chất. Với hai công trình Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước [44] và Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại [45] của Nguyễn Đắc Hưng đã làm rõ quan niệm về trí thức; vị trí, vai trò của trí thức; những phương hướng chủ yếu để xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ở nước ta đáp ứng yêu cầu của thời đại. Trên cơ sở khẳng định nội hàm rất rộng của khái niệm trí thức, tác giả đã chỉ rõ: Trí thức là những người không chỉ có trình độ học vấn cao mà điều quan trọng nhất là họ thực sự lao động bằng trí tuệ có tính sáng tạo, có những cống hiến nhất định hữu ích cho xã hội và phải được xã hội kiểm định chất lượng thông qua hoạt động thực tiễn [45, tr.16-17]. Đây là sự đổi mới tư duy về trí thức, từ chỗ coi trọng trình độ chuyên môn được đào tạo đến chỗ thừa nhận và đòi hỏi năng lực lao động thực tế thông qua sự kiểm định khách quan của xã hội. 8 Nguyễn An Ninh, Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong công cuộc đổi mới đất nước [67]. Từ những kiến giải về tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn hiện nay, tác giả đã đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm phát huy tiềm năng của đội ngũ này góp phần vào quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong hai công trình nghiên cứu: Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước [48] và công trình Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển vọng [49] của Nguyễn Văn Khánh đã tập trung luận chứng khoa học về vấn đề trí thức, nguồn lực trí tuệ với cách tiếp cận liên ngành. Đội ngũ trí thức được tác giả quan niệm là tầng lớp tinh hoa của nguồn lực trí tuệ Việt Nam. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá chất lượng của nguồn nhân lực này, ông đã đưa ra hệ thống giải pháp có ý nghĩa thiết thực đối với việc xây dựng và phát huy vai trò của nguồn lực trí tuệ đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp chấn hưng đất nước. Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền, Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh [10]. Đây là công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về trí thức dưới góc độ tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhóm tác giả đã khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta trong công tác xây dựng trí thức đồng thời đánh giá những đóng góp, hạn chế của đội ngũ này trong cách mạng Việt Nam, trên có sở đó, đi sâu phân tích những giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức ở nước ta thời kỳ 2011 - 2020 đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phạm Tất Dong trong đề tài Luận cứ khoa học cho các chính sách nhằm phát huy năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên [15] đã tập trung phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và tính pháp lý của việc 9 hoạch định chính sách, giải pháp hướng vào việc khơi dậy, khai thác, sử dụng năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên trong hoạt động giáo dục và đào tạo. Đàm Đức Vượng, Nguyễn Viết Thông, Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 [122]. Đây là công trình nghiên cứu công phu và có hệ thống về trí thức. Trên cơ sở đánh giá tổng thể về thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam, đề tài đi sâu phân tích, kiến nghị những giải pháp nhằm xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Đề tài đã làm rõ thêm nội hàm của khái niệm trí thức trên bình diện rộng. Không những chỉ ra tính chất lao động trí óc cùng với những yêu cầu về sự hiểu biết, trình độ, khát vọng dân chủ, công bằng, tự do và kết quả sáng tạo trong việc truyền bá, phổ biến, ứng dụng vào đời sống xã hội của trí thức, các tác giả đề tài còn xác định rõ thiên chức, phẩm chất, tính cách của người trí thức Việt Nam. Đây là tư liệu quan trọng cho tác giả luận án khi nghiên cứu về đặc điểm của đội ngũ nữ trí thức ở các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Luận án Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức [92] của Nguyễn Công Trí, đã chỉ ra những đặc trưng, tiêu chí cơ bản để xác định trí thức, vai trò của đội ngũ này trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức. Luận án xác định, trí thức là người lao động trí óc và thường có trình độ học vấn cao, được đào tạo hoặc tự đào tạo. Tuy nhiên, “giá trị quan trọng nhất của người trí thức chân chính đó là chân lý và lẽ phải; trí thức là người tự tin và ngay thẳng, có lòng tự trọng, khả năng hành xử đúng mực và thích ứng cao với các biến đổi của môi trường tự nhiên, xã hội” [92, tr.30]. Trần Thị Lan trong cuốn Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam [55] đã nêu lên cơ sở lý luận về chất lượng lao động của trí thức giáo dục đại học; đánh giá thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam và đề xuất những giải pháp cơ bản để 10 nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ này. Tác giả luận án cho rằng “trí thức là một tầng lớp xã hội được đặc trưng bởi phương thức lao động trí óc, sáng tạo. Họ là lực lượng chủ yếu tham gia trực tiếp vào việc phát kiến, giữ gìn và truyền bá tri thức góp phần thúc đẩy sự phát triển nhận thức khoa học và sự tiến bộ của xã hội” [55, tr.26]. Tiếp tục làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự nhận thức đúng đắn của Đảng ta trong quan điểm về trí thức, một số bài viết đăng trên các tạp chí trong thời gian qua đã đề cập đến vấn đề này, tiêu biểu như: Đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [50]; Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức [51] của Phan Thanh Khôi; và Suy ngẫm và nhận thức về vấn đề tri thức [6] của Nguyễn Đức Bách… Đồng thời, nhiều bài viết đã khai thác những khía cạnh mới về chức năng, nhiệm vụ, chính sách sử dụng, đãi ngộ trí thức và giải pháp phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng đòi hỏi, yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức. Có thể kể đến một số bài viết như có giá trị khoa học như: Mấy vấn đề cần đổi mới tạo động lực và điều kiện để trí thức nước ta phát huy tài năng trí tuệ [5] của Nguyễn Đức Bách và Nhà khoa học và sự sáng tạo trong khoa học xã hội [52] của Phan Thanh Khôi,… Bàn về khái niệm trí thức, Dương Trung Quốc, trong bài viết Đảng và trí thức - một thoáng nhìn lịch sử [69] đã cho rằng, trí thức phải được coi là một “phẩm chất” nhiều hơn là một tầng lớp. Do tác động của xu thế phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và sự phát triển của “kinh tế tri thức” làm cho nội hàm của khái niệm “trí thức” cần được mở rộng hơn. Học vấn đã có cơ hội đến với các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, mọi lực lượng lao động xã hội đều phải coi tri thức là một nhu cầu sống còn của mình. Những công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn quan trọng để tác giả luận án luận chứng về nữ trí thức, về vai trò của đội 11 ngũ nữ trí thức dưới góc độ là một bộ phận của đội ngũ trí thức trong điều kiện đổi mới, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về phụ nữ, bình đẳng giới và nữ trí thức Thứ nhất, những công trình nghiên cứu tiêu biểu về phụ nữ, bình đẳng giới. Khi nghiên cứu về phụ nữ, bình đẳng giới ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã tiếp cận dưới cả hai góc độ, vị thế, vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Một số công trình nghiên cứu về giới, bình đẳng giới ở Việt Nam đã góp phần nâng cao nhận thức, lý luận và năng lực vận dụng quan điểm giới, bình đẳng giới vào nghiên cứu những vấn đề đặt ra đối với nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Tiêu biểu có thể kể đến một số công trình như sau: Cuốn sách Địa vị người phụ nữ trong gia đình nữ trí thức [26] của Đoàn Thị Bích Điểm đã chỉ ra rằng, vị thế của người phụ nữ ngày càng được nâng cao trong gia đình so với phụ nữ Việt Nam trong chế độ xã hội cũ. Tuy nhiên so với nam giới vị thế này vẫn còn kém xa, kể cả trong các gia đình nữ trí thức. Họ chủ yếu có ưu thế trong việc quyết định những công việc liên quan đến nội trợ, ít quan trọng hơn như mua thức ăn, quần áo, tiền học cho con,... Tác giả cũng đã giải thích thực trạng trên là do dựa trên sự phân công lao động xã hội theo giới. Phụ nữ là lực lượng thường xuyên thực hiện các công việc nội trợ nên quyết định những công việc này. Đàn ông là trụ cột của gia đình nên thường lo toan những việc lớn. Điều này đã khẳng định dù có dân chủ hơn, bình đẳng hơn, các gia đình trong đó có gia đình nữ trí thức vẫn bị ảnh hưởng bởi các định kiến giới. Lê Thị Quý trong bài viết Phụ nữ trong đổi mới: Thành tựu và thách thức [70] cho rằng nhiều nghiên cứu đã luận giải tỷ số chênh lệch giữa nam 12 và nữ với tư cách là lãnh đạo quản lý trong bộ máy nhà nước ở các cấp. Đồng thời, tác giả bước đầu chỉ ra quan niệm, định kiến giới của một số cán bộ chính quyền và người dân đối với việc phụ nữ tham gia lãnh đạo. Nghiên cứu này đã cung cấp một số cơ sở cho đề tài khi nghiên cứu nữ trí thức tham gia vào lĩnh vực lãnh đạo quản lý trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Trong bài viết Chất lượng nguồn nhân lực nữ qua lăng kính giới [30] của Lưu Song Hà, Phan Thị Thu Hà đã phân tích chất lượng nguồn nhân lực nữ ở Việt Nam từ những khía cạnh thể lực, trí lực và tâm lực. Từ kết quả nghiên cứu thực tiễn, nhóm tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ và bình đẳng giới. Nghiên cứu này góp phần gợi mở cho tác giả luận án về những giải pháp nhằm nâng cao việc thực hiện vai trò của nữ trí thức các trường chính trị trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Đỗ Thị Thạch trong bài Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong công tác lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay [79], đã nhấn mạnh ở Việt Nam, cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, phụ nữ luôn phát huy vai trò và tỏ rõ khả năng của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vai trò của phụ nữ càng cần phải phát huy hơn bao giờ hết, nhất là trong lãnh đạo, quản lý, vì phụ nữ vừa có tiềm năng, năng lực, vừa có truyền thống trong lịch sử, vừa là yêu cầu chung trong sự nghiệp phát triển đất nước. Thứ hai, những công trình nghiên cứu về nữ trí thức Nữ trí thức Việt Nam một bộ phận của trí thức Việt Nam, là bộ phận tinh hoa của phụ nữ Việt Nam, cùng với đội ngũ trí thức và phụ nữ Việt Nam, cho đến nay, nhiều nhà khoa học trong nước đã dày công nghiên cứu, bỏ nhiều tâm huyết để tìm hiểu, đánh giá và tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm khai thác 13 tiềm năng, phát huy vai trò của đội ngũ nữ trí thức Việt Nam. Tiêu biểu có thể kể đến một số công trình như sau: Đỗ Thị Thạch trong công trình Phát huy nguồn lực nữ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [74] đã làm rõ quan niệm về trí thức, nữ trí thức. Tác giả, đã phân tích những phẩm chất trí tuệ, cũng như những yếu tố tác động đến sự phát triển trí tuệ của nữ trí thức; những đóng góp của họ đối với sự phát triển của gia đình và đất nước, v.v... Từ đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực nữ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là công trình đã có một cách tiếp cận mới, góp phần làm rõ quá trình hình thành và đặc điểm của nguồn lực nữ trí thức Việt Nam; góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ định kiến giới, khẳng định vai trò to lớn của nguồn lực nữ trí thức đối với sự phát triển của xã hội, tiến tới thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở nước ta hiện nay. Công trình là tư liệu nghiên cứu quan trọng cho cách tiếp cận của luận án. Trần Thị Minh Đức với công trình Thực trạng nữ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp phát triển đất nước [27] đã đề cập đến cơ sở thực tiễn và những vấn đề lý luận quan trọng của việc nghiên cứu nữ trí thức Việt Nam trong phát triển đất nước. Nghiên cứu đã tập trung phân tích đặc điểm, cơ cấu xã hội của đội ngũ nữ trí thức, vai trò của họ trong một số lĩnh vực tiêu biểu được coi là thế mạnh. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra vai trò không thể thay thế của nữ trí thức làm điểm nhấn khác biệt với nam trí thức đó là chức năng làm vợ, thiên chức làm mẹ. Vai trò "kép” của nữ trí thức vừa là hạnh phúc vừa là thách thức đối với họ cần phải hội tụ nhiều biện pháp mới vượt qua. Khẳng định vai trò to lớn của nữ trí thức đối với sự phát triển của đất nước, và đưa ra những kiến nghị chính sách đối với Đảng và Nhà nước, tại 14 Hội thảo khoa học của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Đại học Quốc gia Hà Nội Nữ trí thức Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [40] được tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Hội thảo đã tập hợp được rất nhiều quan điểm, bài viết có giá trị nói về những đóng góp to lớn của nữ trí thức trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội trong những năm qua. Đồng thời, nhiều bài tham luận đã chỉ rõ thách thức đối với nữ trí thức và những rào cản đang cản trở bước tiến của họ. Theo ý kiến của nhiều tác giả, những thách thức và các rào cản nảy sinh từ định kiến giới trong xã hội; từ gia đình và bản thân người phụ nữ. Trên cơ sở đó, nhiều nhà khoa học trong Hội thảo cũng đã đề ra những giải pháp phát triển nữ trí thức trong tương lai để tiến kịp sự phát triển của nam giới. Đề tài nghiên cứu khoa học Vai trò, vị thế của nữ trí thức trong quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam [95] của Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương (nay là Học viên Phụ nữ Việt Nam) đã chỉ rõ, mặc dù so với nam giới, vị thế của phụ nữ còn thấp, kể cả trong gia đình trí thức, nhưng xu hướng trong gia đình nữ trí thức, mối quan hệ vợ chồng là mối quan hệ dân chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau,... Như vậy, sự hiểu biết, tri thức có vai trò quan trọng trong xây dựng mối quan hệ bình đẳng giới trong gia đình. Tại Hội thảo của Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Giải pháp nâng cao vai trò của nữ trí thức trong hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2015-2020 [39], các đại biểu đã được nghe 05 báo cáo của các nhà nghiên cứu, khoa học và các ý kiến đóng góp sôi nổi của nữ trí thức thuộc Hội Nữ trí thức Việt Nam. Trong đó, báo cáo “Giải pháp phát huy vai trò của nữ trí thức trong giảng dạy, nghiên cứu lý luận chính trị” của tác giả Nguyễn Thị Báo đã cung cấp nhiều thông tin, đưa ra nhiều giải pháp cụ thể để phát huy hơn nữa vai trò của nữ trí thức trong lĩnh vực nghiên 15 cứu, giảng dạy lý luận chính trị. Đây là một tài liệu hữu ích, có giá trị tham khảo quan trọng cho luận án. Trong công trình Nữ trí thức với sự nghiệp phát triển đất nước [83] của Nguyễn Thị Việt Thanh đã tập hợp một số tham luận được thực hiện trong khuôn khổ đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước “Phát huy vai trò và vị thế của nguồn nhân lực nữ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Các bài tham luận đã mang đến cái nhìn khoa học về những vấn đề khác nhau. Nhiều tham luận đã có giá trị khoa học cao khi áp dụng các phương pháp hiện đại, nghiên cứu nữ trí thức từ góc độ một nguồn lực lao động quan trọng của đất nước, nhưng lại có những đặc tính riêng về giới, với những thuận lợi nhưng cũng có nhiều trở ngại, thách thức nảy sinh khi phải cố gắng dung hòa giữa chức năng của người phụ nữ trong gia đình và vai trò của một cá thể độc lập trong xã hội. Công trình này đã cung cấp cho luận án phương pháp tiếp cận khoa học hiện đại khi nghiên cứu, đánh giá nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Nguyễn Đình Tấn trong bài viết Vai trò của nữ trí thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa [73] đã cho rằng: Nữ trí thức là bộ phận hợp thành của tầng lớp trí thức (họ mang tất cả những đặc trưng cơ bản của người trí thức nói chung. Họ là những người có đặc trưng về giới tính là phụ nữ, có đủ trình độ kiến thức, chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp và làm việc trong lĩnh vực trí óc), có vai trò quan trọng trên mọi mặt của đời sống xã hội và gia đình; họ là một lực lượng lao động trí tuệ hùng hậu, v.v... có đóng góp tích cực vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lưu Song Hà trong bài viết Nữ trí thức với gia đình và sự nghiệp [29] đã đề cập đến vai trò “kép” của phụ nữ, đồng thời cũng đã so sánh vai trò này đối với nữ trí thức. Bên cạnh nhiều thành công thì nữ trí thức gặp nhiều khó khăn, thách thức khi phải gánh trên vai nhiều chức phận, những rào cản
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan