Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nông thôn Việt Nam qua tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma...

Tài liệu Nông thôn Việt Nam qua tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma

.PDF
77
1456
82

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN --------***-------- NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA NÔNG THÔN VIỆT NAM QUA TIỂU THUYẾT MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MANGUYỄN KHẮC TRƯỜNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học ThS. DƯƠNG THỊ THÚY HẰNG HÀ NỘI - 2011 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu khoa học vừa là niềm say mê, vừa là nhiệm vụ của người sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường. Đặc biệt với sinh viên cuối khóa thì đây là một cơ hội tốt để vận dụng những kiến thức và kĩ năng đã lĩnh hội trong quá trình học tập và thực tế nghiên cứu, nhằm mở rộng kiến thức của bản thân. Nhận thấy tầm quan trọng đó, người viết đã tiến hành nghiên cứu với đề tài: Nông thôn Việt Nam qua tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma Nguyễn Khắc Trường. Để hoàn thành khóa luận này, người thực hiện đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Văn học Việt Nam cũng như các thầy cô trong khoa Ngữ văn. Đặc biệt là sự dẫn dắt, chỉ bảo tận tình của cô giáo: Thạc sĩ Dương Thị Thúy Hằng - giáo viên hướng dẫn. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với các thầy cô - những người đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2011 Tác giả khóa luận Nguyễn Thị Phương Hoa ii Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi, không trùng với tác giả khác. Những kết quả thu được là hoàn toàn chân thực và chưa có trong một đề tài nào. Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2011 Tác giả khóa luận Nguyễn Thị Phương Hoa iii Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..1 1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 3 3. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu .................................................................. 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 7 5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 7 6. Đóng góp của khóa luận ........................................................................... 7 7. Bố cục của khóa luận................................................................................ 8 NỘI DUNG…………………………………………………….................. 10 Chương 1: Tiểu thuyết viết về đề tài nông thôn sau 1986 - Nguyễn Khắc Trường và Mảnh đất lắm người nhiều ma 1.1. Tiểu thuyết viết về đề tài nông thôn sau 1986..................................... 10 1.2. Nguyễn Khắc Trường và Mảnh đất lắm người nhiều ma .................... 16 1.2.1. Nguyễn Khắc Trường...................................................................... 16 1.2.2. Vị trí của Mảnh đất lắm người nhiều ma ......................................... 19 Chương 2: Hiện thực nông thôn và thế giới nhân vật trong Mảnh đất lắm người nhiều ma 2.1. Bức tranh hiện thực cuộc sống nông thôn ............................................ 23 2.1.1. Vùng quê nghèo khó......................................................................... 23 2.1.2. Vùng quê “đất lề quê thói” ............................................................... 26 2.1.3. Vùng quê đang “trải qua khoảnh khắc cuối của đêm dài trước bình minh” ................................................................................................ 32 2.2. Thế giới nhân vật................................................................................. 36 iv Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 2.2.1. Thế giới nhân vật phong phú, đa dạng .............................................. 36 2.2.2. Thế giới nhân vật tiêu biểu cho những tư tưởng đối lập .................... 43 Chương 3: Phương thức nghệ thuật thể hiện hình ảnh nông thôn qua Mảnh đất lắm người nhiều ma 3.1. Không gian - thời gian nghệ thuật........................................................ 48 3.1.1. Không gian nghệ thuật...................................................................... 48 3.1.2. Thời gian nghệ thuật......................................................................... 53 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ............................................................. 57 3.2.1. Khắc họa nhân vật qua ngoại hình .................................................... 58 3.2.2. Khắc họa nhân vật qua hành động và thế giới nội tâm ...................... 63 KẾT LUẬN............................................................................................... 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 72 v Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Trong văn học Việt Nam, nông thôn vẫn là đề tài lớn mang tính truyền thống, là mảng hiện thực ghi danh nhiều tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao... là những bậc thầy của văn học về thiên nhiên, phong tục ở làng quê Việt Nam. Đối với một nước đi lên từ nông nghiệp, hiện nay phần đông dân số nước ta sống trong khu vực nông thôn, gắn bó với công việc đồng ruộng thì đề tài nông thôn và hình tượng người nông dân vẫn tiếp tục là mảng đề tài “trù phú” cho giới văn nghệ sĩ. 1.2. Từ sau năm 1986, tinh thần đổi mới chung của cả đất nước đã thổi vào văn chương một luồng sinh khí mạnh mẽ, cuốn hút chưa từng có trong lịch sử văn học nước nhà. Cuộc đời và con người được soi chiếu dưới những góc nhìn đa dạng, với những cảm hứng mới mẻ; chứa đựng sự tìm tòi sáng tạo về mặt nghệ thuật. Trong không khí chung đó, việc khai thác hình ảnh nông thôn Việt Nam trong văn chương đã đạt được những “bước tiến” mới, trên cơ sở nền tảng mà các tác giả tiền bối để lại. Nhà văn, nhà biên kịch Phạm Ngọc Tiến - người có nhiều say mê và thành công ở mảng đề tài này, cho rằng: “Đất nước ta là một nước nông nghiệp, phong tục tập quán dù là người thành thị vẫn mang nặng dấu ấn nông thôn. Bên cạnh đó, chất dân dã của người nông dân tạo nên diện mạo cho nhân vật có những tính cách riêng biệt, điển hình, sinh sắc. Hình thái sinh hoạt của nông thôn dễ đưa vào tác phẩm. Nếu làm nhuần nhuyễn sẽ có tính thuyết phục về sự chân thực. Đề tài nông thôn cũng chứa nhiều vấn đề trong đó như nhân sinh, đổi đời, băng hoại đạo đức...”. Việc khai thác đề tài này dưới nhiều góc soi chiếu, đã góp phần vào sự phong phú của văn chương thời kì đổi mới. 1 Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 1.3. Những năm gần đây, các phương tiện thông tin truyền hình của Việt Nam công chiếu hàng loạt những bộ phim dài tập về đề tài nông thôn. Đó là những bộ phim được các nhà biên kịch chuyển thể từ tiểu thuyết có đề tài nông thôn. Những Chuyện làng Nhô, Đất và người, Ma làng, Gió làng Kình… đã trở nên quen thuộc và hấp dẫn với người xem. Đóng góp chủ yếu vào sự thành công cho các bộ phim ấy là những trang văn viết về nông thôn đầy tâm huyết của các nhà văn. 1.4. Nguyễn Khắc Trường là nhà văn quân đội, bước vào làng văn từ những năm ở tuổi 20, khi đó người đọc biết đến ông với bút danh Thao Trường - một cái tên rất quân đội. Đó là đầu những năm 70 từ người lính kĩ thuật của binh chủng Phòng không - Không quân, Thao Trường trở thành phóng viên mặt trận viết cho tờ in của báo binh chủng này, rồi ông viết đều đều cho tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông thuộc số những nhà văn trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, nhiều năm Thao Trường là tác giả bút kí, truyện ngắn viết về chiến tranh, hậu phương quân đội và nông thôn. Năm 1986, ông được trao giải nhất cuộc thi bút kí của tuần báo Văn nghệ và Đài tiếng nói Việt Nam phối hợp tổ chức. Sau này cũng tạp chí Văn nghệ giới thiệu ông đi học trường Viết văn Nguyễn Du (khóa 1) cho đến năm 1983. Ở độ tuổi 44, cuốn tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma được hoàn thành khi tác giả có độ chín nhất định về cảm nhận đời sống và nghề văn. Đề tài và những vấn đề cuốn sách đặt ra không thật mới, vẫn là cuộc tranh chấp quyền lực và ruộng đất ở nông thôn, vẫn là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, nhưng điều tác giả quan tâm ở đây là cuộc sống ở nông thôn thời kì đổi mới, ý thức dòng họ, gia tộc đang gây trở ngại cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới - xã hội dân chủ, cần đấu tranh một cách kiên định và quyết liệt hơn. Tiểu thuyết này được trao giải A của Hội nhà văn Việt Nam năm 1991 (cùng với hai cuốn tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng và 2 Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh). Mảnh đất lắm người nhiều ma từ khi mới xuất hiện đã được giới nghiên cứu phê bình và bạn đọc quan tâm chú ý, được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài, và đặc biệt được chuyển thể thành kịch bản phim Đất và người năm 2001. Mảnh đất lắm người nhiều ma để lại dư âm trong lòng bạn đọc ấn tượng về một tác phẩm hay, giàu giá trị không chỉ bởi ý nghĩa nội dung tư tưởng mà còn đặc sắc về nghệ thuật. Một mảnh đất nhỏ mà không phân biệt rõ đâu là ma, đâu là người, cái đống hỗn tạp ấy là biểu hiện cụ thể của một xã hội đang chuyển mình trong thời khắc giao thời giữa cái cũ và cái mới. Khi mới xuất hiện trên văn đàn những năm đổi mới, có nhiều ý kiến đặt ra từ giới nghiên cứu và công chúng bạn đọc về vấn đề: có nên đổi tên nhan đề cuốn sách cho phù hợp với nội dung hay không, đâu là con người, đâu là ma, đâu là nhân vật tích cực, tiêu cực, đây là một vấn đề hết sức phức tạp, chưa có sự thống nhất. Với ý nghĩa đó, chúng tôi quyết định chọn đề tài khóa luận mang tên: Nông thôn Việt Nam qua tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma - Nguyễn Khắc Trường với mong muốn góp phần lí giải được thành công của tác phẩm trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. 2. Lịch sử vấn đề Là một tác phẩm xuất sắc đạt giải cao của Hội nhà văn Việt Nam, tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma nhận được sự quan tâm, đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu, các bài viết sau: Trong cuộc thảo luận tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma, giáo sư Trần Đình Sử có sự đánh giá khách quan trên phương diện nội dung và nghệ thuật cuốn sách như sau: “Cuốn sách có sức lôi cuốn từ đầu đến cuối, nhà văn đã đề xuất một hiện tượng xã hội nghiêm trọng đáng quan tâm trong 3 Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 cuộc sống hiện nay là ý thức dòng họ, gia tộc đang gây trở ngại cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới, xã hội công dân ở nông thôn (…) Đọc Nguyễn Khắc Trường thấy anh rất sung sức, rất giàu các vốn sống, đặc biệt ngôn ngữ rất phong phú, sinh động, các thành ngữ, tục ngữ, các ngôn ngữ “bộ đội” được sử dụng linh hoạt làm cho lời trần thuật tươi tắn và có duyên”. Đồng thời giáo sư cũng chỉ ra mặt hạn chế còn tồn tại của cuốn sách: “Xung đột mâu thuẫn chưa quyết liệt, cách xử lí, lối trần thuật quá thiên về hài, cái bi chưa được khám phá tận đáy”. (Thảo luận về tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma do báo Văn nghệ tổ chức ngày 25/01/1991). Cũng trong cuộc thảo luận này, nhận xét về nghệ thuật Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “Đây là một cuốn truyện hấp dẫn nhờ nghệ thuật kể chuyện. Sự dẫn dắt tình tiết, sự tổ chức các tình huống đã tạo được nhiều bất ngờ. Các nút chuyện thắt vào, cởi ra, lại thắt vào, cởi ra, người đọc khó đoán trước được (...) Nhiều đoạn rất có không khí nông thôn với những phong tục tưởng rất cổ xưa mà té ra là của hôm nay. Tác giả cũng tạo ra được nhiều nhân vật tuy không thật sâu sắc, nhưng có những nét cá tính gây được ấn tượng đậm nét đối với người đọc, đặc biệt là những nhân vật ma quái, dị dạng hoặc những con người bị ma chê, quỉ ám như anh em lão Hàm, chị Bé, Son, Đào, Quềnh…” (Thảo luận về tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma do báo Văn nghệ tổ chức ngày 25/01/1991). Trên báo Giáo dục và thời đại, ngày 27/05/1991, tác giả Ngọc Anh đưa ra lời nhận định cho cuốn tiểu thuyết: “Nguyễn Khắc Trường tỏ ra vững vàng, từ việc xây dựng truyện, xây dựng nhân vật, đến sử dụng ngôn ngữ. Trong tác phẩm của anh, sự việc nọ nối tiếp sự việc kia, bi kịch này kéo theo bi kịch khác, nhiều sự kiện rối rắm phức tạp, nhưng tác giả đã nhìn vào bản chất của sự việc, giải quyết thấu đáo cứ như sự việc đúng như nó đã xảy ra như thế (…) phải công nhận rằng tác giả Nguyễn Khắc Trường am hiểu sâu về nông thôn và có vốn ngôn ngữ rất phong phú”. 4 Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 Những ý kiến thảo luận đánh giá của nhà nghiên cứu, phê bình như Hà Minh Đức, Phong Lê, Trung Trung Đỉnh… trên báo Văn nghệ ra ngày 25/01/1991 cho rằng đây là một tác phẩm hay về đề tài nông thôn trong thời kì đổi mới, để lại dấu ấn đậm nét trên văn đàn của một nhà văn quân đội. Bài Nguyễn Khắc Trường và Mảnh đất lắm người nhiều ma (Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh niên, 1999) Trần Đăng Khoa đã rất sáng tạo khi dựng nên một cuộc đối thoại giữa người và ma, khéo léo chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của cuốn tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma. Theo Trần Đăng Khoa, điều đáng ghi nhận ở cuốn tiểu thuyết này là nhà văn đã có vốn sống, sự am hiểu sâu sắc về đời sống nông thôn ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và ngôn ngữ của nó. Nhược điểm dễ nhận thấy là kết cấu truyện lỏng lẻo, bố trí sự xuất hiện của nhân vật có phần gượng ép. Trong bài viết Thế giới kì ảo trong Mảnh đất lắm người nhiều ma từ cái nhìn văn hóa (Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội 2006) Lê Nguyên Cẩn đưa ra lời nhận định: “Cái tạo ra giá trị của tác phẩm ngoài nội dung hiện thực gắn với một thời kì khó khăn của đất nước mà còn là thế giới kì ảo mà Nguyễn Khắc Trường đã dụng công xây dựng với các yếu tố kì ảo rất đặc trưng, đó là mô típ cái chết đi liền với mô típ ma hiện hồn”. Đặc biệt ở bài viết này tác giả còn chỉ rõ thế giới kì ảo được nhìn nhận dưới ba góc độ: mối tình kì ảo, những nhân vật kì ảo, những nhân vật ma quái dị dạng tạo ra sự lôi cuốn từ phía người đọc. Tuy chỉ đề cập tới một khía cạnh của tác phẩm từ góc nhìn văn hóa nhưng bài viết là những chỉ dẫn, gợi ý quan trọng để chúng tôi triển khai đề tài khóa luận này. Ngoài ra còn có các bài viết của Lê Thanh Nghị trên tạp chí Tác phẩm mới tháng 8/1991, Nguyễn Hữu Sơn - báo Người Hà Nội, Hồng Diệu - tạp chí Văn nghệ quân đội,… đều ghi nhận giá trị nội dung và nghệ thuật của tác 5 Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 phẩm, bên cạnh đó là một số quan điểm non tay về kết cấu. Nhìn chung các công trình nghiên cứu, các bài viết trên đều khẳng định việc xây dựng thế giới nhân vật đa dạng, phức tạp là phương diện thành công của tác phẩm. Tuy nhiên các tác giả mới đưa ra những nhận định khái quát mà chưa dành sự quan tâm thỏa đáng cho sự tìm hiểu về hiện thực cuộc sống nông thôn cũng như ảnh hưởng của nó đến chiều sâu tâm lí nhân vật trong cuốn tiểu thuyết. Chính khoảng trống ấy đã gợi ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài này để tìm hiểu. 3. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: Nông thôn Việt Nam qua tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma - Nguyễn Khắc Trường nhằm mục đích sau: Khẳng định Nguyễn Khắc Trường với tư cách là một tác giả tiêu biểu của văn học thời kì đổi mới, nhất là từ những năm đầu thập niên 90 và những đóng góp của nhà văn cho tiểu thuyết Việt Nam thời kì này. Cảm thụ toàn diện hơn về hiện thực cuộc sống nông thôn Việt Nam thời kì đổi mới, đồng thời chỉ ra những nét đặc sắc trong phương thức nghệ thuật thể hiện hình ảnh nông thôn của tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma so với những cuốn tiểu thuyết cùng thời cũng như trước đó. 3.2. Ý nghĩa nghiên cứu Triển khai đề tài này chúng tôi hướng tới những ý nghĩa sau: Giúp người viết có kinh nghiệm, phương pháp, có thói quen nghiên cứu khoa học; tiếp cận khám phá giá trị tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma nói riêng cũng như các tác phẩm văn chương nói chung dưới góc độ một phương diện nghệ thuật. Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ là những hành trang thiết thực, bổ ích trong bước đường nghề nghiệp tương lai của tác giả khóa luận. 6 Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đặt vấn đề tìm hiểu: Nông thôn Việt Nam qua tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma - Nguyễn Khắc Trường, khóa luận sẽ khảo sát toàn bộ cuốn tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma và trong một chừng mực nhất định sẽ có sự so sánh đối chiếu với tiểu thuyết viết về đề tài nông thôn của một số nhà văn cùng thời. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Người viết đi sâu tìm hiểu tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma, trên phương diện “nông thôn Việt Nam”. 5. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở về đối tượng và phạm vi nghiên cứu nêu trên chúng tôi sẽ kết hợp vận dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phương pháp thống kê - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp so sánh văn học - Phương pháp hệ thống 6. Đóng góp của khóa luận Về mặt lí luận, với khóa luận này người viết sẽ làm nổi bật nét đặc sắc về phương thức thể hiện hình ảnh nông thôn Việt Nam trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường. Về mặt thực tiễn nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn tìm hiểu những đóng góp mới của Nguyễn Khắc Trường về nghệ thuật tự sự trong văn học Việt Nam. Thông qua đó góp phần khẳng định tài năng và vị trí của Nguyễn Khắc Trường trong văn học thời kì đổi mới, đồng thời sẽ giúp người đọc có những kiến giải sâu sắc về nhà văn này. 7. Bố cục của khóa luận 7 Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và phần Tài liệu tham khảo, khóa luận được triển khai thành 3 chương như sau: Chương 1: Tiểu thuyết viết về đề tài nông thôn sau 1986 - Nguyễn Khắc Trường và Mảnh đất lắm người nhiều ma Chương 2: Hiện thực nông thôn và thế giới nhân vật trong Mảnh đất lắm người nhiều ma Chương 3: Phương thức nghệ thuật thể hiện hình ảnh nông thôn qua Mảnh đất lắm người nhiều ma 8 Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ ĐỀ TÀI NÔNG THÔN SAU 1986 - NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG VÀ MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA Luồng sinh khí thông thoáng của thời kì đổi mới đã mở ra hướng đi mới cho sự phát triển và sáng tạo của văn học nghệ thuật. Yêu cầu đổi mới tư duy tiểu thuyết trong thời đại mới là nhu cầu có tính cấp thiết và tất yếu. Vậy đổi mới tư duy tiểu thuyết là đổi mới gì? Khi xã hội bước sang một thời đại mới, với những thay đổi toàn diện về cả chính sách và quan niệm, thì văn chương cần có một cách viết mới, hướng tới một đối tượng rộng hơn so với trước. “Văn học là nhân học”, đối tượng muôn đời của văn học là con người, nhưng tư duy của con người hiện đại đã thay đổi. Vậy nhà văn cũng phải đổi mới tư duy cho phù hợp, làm sao để thấu hiểu sâu sắc và tái hiện sinh động, chân thực con người hiện thực trong bối cảnh xã hội mới. Hoàng Quốc Hải trong bài Lại bàn về đổi mới tư duy (Bài viết tham dự Hội thảo về Đổi mới tư duy tiểu thuyết - họp ngày 07/11/2002 tại Đại Lải) cho rằng: Đổi mới tư duy tiểu thuyết trước hết là “đổi mới nhận thức của nhà văn trước những biến thái xã hội của thế giới...”, nghĩa là “Nhà văn cứ viết, viết không phụ thuộc vào hình thức biểu hiện, không phụ thuộc vào sự cho phép hay không cho phép của bất cứ ai...”. Đó là quan niệm hướng tới phản ánh sự thật theo chính sách đổi mới toàn diện của Đảng, Nhà nước. Nhưng dù đổi mới bằng cách nào, thì văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng vẫn phải đạt tới chuẩn mực về sự hấp dẫn, nhân văn và nhân đạo. Hòa chung vào đời sống văn nghệ ấy, tiểu thuyết viết về nông thôn sau năm 1986 cũng có những biến chuyển rõ rệt. 9 Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 1.1. Tiểu thuyết viết về nông thôn sau 1986 Nông thôn và nông dân là một đề tài lớn, phức tạp và hấp dẫn, được nhiều những thế hệ nhà văn quan tâm khai thác. Nhà văn Nguyễn Khải từng viết: “Hãy lật lưng áo của bất cứ một ông tiến sĩ nào, ta đều thấy dấu vết của những ngày chăn trâu cắt cỏ”. Cho đến bây giờ, nông dân ở nước ta vẫn chiếm 80% dân số. Cái gốc của người Việt Nam vẫn là nông dân. Do đó, sinh hoạt, cách ứng xử của người dân ít nhiều bị ảnh hưởng của nền kinh tế và tư duy nông nghiệp. Đặc điểm này in đậm trong sáng tác văn học ở các thời kì; góp phần làm nên sự phong phú, sôi động của văn đàn thời kì đổi mới là hàng loạt tiểu thuyết viết về nông thôn. Ngay trong Văn học 1930 - 1945, đề tài nông thôn đã được các nhà văn chú ý nhiều. Song ở các tiểu thuyết lãng mạn giai đoạn này, hình ảnh nông thôn được nhìn nhận một cách phiến diện, thi vị hóa. Các tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo… thường chỉ tập trung vào những gia đình thuộc tầng lớp trên ở nông thôn (Con đường sáng, Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân…). Hình ảnh nông thôn mà các tác giả này miêu tả chưa phải là chủ đích của bút pháp nghệ thuật lãng mạn. Đó chỉ là những quan điểm cải lương, chưa được truy tìm tới nguyên nhân của sự kiện, hoàn cảnh. Cuộc sống nghèo khổ, nheo nhóc, cơ cực của người nông dân cũng chỉ là do mê tín, do thói quen, tập tục hủ lậu… chứ không được nhìn nhận như là hậu quả của sự chèn ép, áp bức của giai cấp thống trị trong xã hội. Đến Văn học hiện thực phê phán, đề tài nông thôn đã xuất hiện và được khai thác có chiều sâu trong Tắt đèn (Ngô Tất Tố); Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan)… Hình tượng chị Dậu, anh Pha là điển hình xuất sắc của văn học viết về người nông dân bần cùng bởi sưu cao, thuế nặng, chịu ách áp bức, bóc lột tàn bạo của bọn địa chủ, cường hào. Nông thôn Việt Nam hiện lên với bao hủ tục nhiêu khê, hà khắc cùng bầu không khí oi nồng, ngột ngạt 10 Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 vây bủa, dồn đẩy người nông dân tới chân tường của sự sống. Từ sau Cách mạng tháng 8 - 1945, diện mạo nông thôn thay đổi và tiếp tục được phản ánh trong văn học. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, tiểu thuyết viết về đề tài này khá nhiều, thành công hơn cả là Con trâu của Nguyễn Văn Bổng. Tác phẩm phản ánh vấn đề xây dựng hợp tác hóa nông nghiệp, cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Tiểu thuyết Xung đột (Nguyễn Khải) là sự mở đầu cho các sáng tác viết về nông thôn thời kì hòa bình ở miền Bắc. Đến 1961, với hai tiểu thuyết Cái sân gạch và Vụ mùa chiêm của Đào Vũ, một nông thôn mới trong hoàn cảnh mới, con người phải tự đấu tranh để điều chỉnh lại mình cho phù hợp với sự vận động và sự phát triển của xã hội đang trên đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tiểu thuyết viết về nông thôn trong chiến tranh chống Mĩ 1964 - 1975 mang âm hưởng sử thi anh hùng ca. Tác phẩm tiêu biểu: Bão biển, Đất mặn (Chu Văn) thu hút độc giả nhiều hơn cả; ngoài ra còn có Vùng quê yên tĩnh (Nguyễn Kiên), Chủ tịch huyện (Nguyễn Khải), Vợ chồng ông lão chăn vịt (Vũ Thị Thường)… Ở giai đoạn này hầu hết các tác phẩm tập trung phản ánh vấn đề xây dựng nông thôn mới ở miền Bắc, hợp tác hóa, xây dựng nền kinh tế mới khẳng định sự thắng lợi của phương thức sản xuất tập thể; ca ngợi cuộc sống mới ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sau năm 1975, đất nước thoát khỏi chiến tranh, cùng với thành thị, nông thôn đang từng ngày thay da đổi thịt. Văn xuôi viết về nông thôn đã có sự chuyển mình. Các tác phẩm là lời tuyên cáo đối với cung cách làm ăn và quản lí nông thôn kiểu cũ, đồng thời đề cập đến lối làm ăn và quản lí nông thôn kiểu mới. Từ sau năm 1986, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, không khí dân chủ của xã hội đã khơi thông tư tưởng cho con người. Đây là thời kì đất nước 11 Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 đang chuyển mình từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nông thôn Việt Nam đang có những thay đổi to lớn: nông thôn đang dần bị đô thị hóa, văn hóa nông thôn chuyển dần sang văn hóa đô thị. Văn xuôi viết về đề tài nông thôn thời kì này cũng chuyển mình, đổi mới trong không khí đổi mới chung của đất nước. Các nhà văn tự do thể hiện suy nghĩ, chính kiến của mình, không còn bị ràng buộc bởi bất cứ yếu tố khách quan nào. Văn xuôi có sự đổi mới về nội dung và hình thức biểu hiện. Đề tài nông thôn một lần nữa được khắc họa rõ nét và chân thực ở tất cả mọi phương diện, trong sự đa dạng, phức tạp, xấu tốt lẫn lộn, đan xen. Ở thời kì này tất cả các tác phẩm đều được nâng lên một bước trong sự nhìn nhận về con người và xã hội. Đáng chú ý với một loạt các tác phẩm, bước đầu mang tính “thành tựu”, như: Lê Lựu với Thời xa vắng (1986), Chuyện làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1994); Nguyễn Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma (1990); Dương Hướng với Bến không chồng (1990), Dưới chín tầng trời (2007); Ngô Ngọc Bội với Ác mộng (1990); Tạ Duy Anh với Lão Khổ (1992); Đào Thắng với Dòng sông mía (2004); Trịnh Thanh Phong với Ma làng (2002); Hoàng Minh Tường với bộ tiểu thuyết Gia phả của đất, gồm: Thuỷ hoả đạo tặc, Đồng sau bão, Ngư phủ, và tiểu thuyết Thời của Thánh Thần; Phạm Ngọc Tiến với Những trận gió người (sau đổi thành Gió làng Kình)... Sự nổi trội của đề tài nông thôn không chỉ được đánh giá bằng tiêu chí số lượng mà còn khẳng định bằng chất lượng nghệ thuật. Giá trị thực tế đã được khẳng định với khá nhiều tác phẩm đoạt giải thưởng, đặc biệt với năm tác phẩm đoạt giải thưởng của Hội nhà văn. Thời xa vắng với anh nông dân Sài đã làm rạng danh Lê Lựu từ những năm đầu đổi mới. Năm 1991 có ba tiểu thuyết đoạt giải thì có hai tiểu thuyết viết về nông thôn là Mảnh đất lắm người nhiều ma, Bến không chồng; sau nhiều năm không có tiểu thuyết đoạt giải thì 12 Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 năm 1997 Thuỷ hoả đạo tặc lại giành được Giải thưởng lớn đó. Tiểu thuyết Dòng sông mía (Đào Thắng) là hiện tượng văn học đáng chú ý nhất năm 2004. Nhìn vào sự thống kê tuy còn tương đối ở trên, trong sự đối sánh với văn học ở những thời kì trước, có thể thấy đề tài nông thôn là đề tài có sức hấp dẫn đối với nhiều cây bút và thu được nhiều thành tựu hơn cả trong giai đoạn sau 1986. Sự đổi mới tư duy nghệ thuật trong sáng tạo tiểu thuyết nói chung và trong tiểu thuyết về đề tài nông thôn viết từ sau 1986 thể hiện trên nhiều phương diện: đề tài, cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ. Đề tài chiến tranh, lịch sử, dân tộc của giai đoạn trước giải phóng được thay thế bằng đề tài thế sự, đời tư. Tiểu thuyết về đề tài nông thôn viết trong thời kì đổi mới đã tập trung tái hiện một bức tranh hiện thực đời sống xã hội nơi thôn quê đầy biến động trong việc thực thi những chính sách của Nhà nước: cải cách ruộng đất, công cuộc sửa sai, chủ trương đưa nông dân vào hợp tác xã, thời kì bao cấp... Trong mỗi biến động chính trị lớn ấy, làng quê Việt Nam không còn không gian bình yên từ ngàn đời xưa, mà náo động, rối ren. Cái mới chưa được xây dựng tạo nên nền tảng vững chắc mặc dù đó là cái cần của cuộc sống nông thôn ngày hôm nay thì cái cũ - những dấu vết của thể chế phong kiến như xung đột dòng họ vì hôn nhân, quyền lực; xung đột giữa những tư tưởng cũ và mới trong tình yêu hạnh phúc, trong quản lí xã hội... vẫn chưa thể xoá bỏ. Tiểu thuyết thời kì này không tập trung vào mâu thuẫn giai cấp như giai đoạn văn học trước 1945 mà đã chỉ ra rất nhiều mâu thuẫn khác nảy sinh trong xã hội nông thôn: mâu thuẫn giữa các dòng họ, mâu thuẫn giữa các thế hệ và thậm chí mâu thuẫn xảy ra trong bản thân mỗi con người. Và trong mỗi trang tiểu thuyết, người đọc không chỉ thấy niềm tin yêu và quá đỗi lạc quan của nhà văn như giai đoạn trước đó mà còn đầy ắp sự trăn trở, suy nghĩ về hiện 13 Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 thực đời sống nhiều phức tạp. Xã hội nông thôn phản ánh những bước đi chính trị của dân tộc có mạnh, có yếu, có ưu, có khuyết. Trên cái nền hiện thực cuộc sống hàng ngày ấy, các nhà văn thời đổi mới còn quan tâm đến vấn đề về thân phận và cuộc đời con người; chỉ ra những “bi kịch” mang tính chất nhân sinh. Nguyễn Khải viết Mùa lạc vào năm 1960 - tác phẩm nằm trong cảm hứng lạc quan chung của văn học đương thời vốn tràn đầy niềm tin yêu cuộc sống và con người mới. Nhân vật trung tâm tác phẩm là cô Đào được xây dựng bằng chính niềm lạc quan và có phần lí tưởng về cuộc đời của tác giả. Trước khi đến với “miền đất mới”, cuộc đời của người phụ nữ 28 tuổi này đầy bất hạnh khi bị cơn lốc cuộc đời càn quét mất hết chồng con, nhà cửa, nhan sắc... Cánh cửa cuộc đời tưởng như đã đóng chặt với con người ấy. Vậy mà nông trường Điện Biên với cuộc sống tươi vui, nhân ái và tình yêu thương của con người nơi đây đã gọi thức niềm vui và cảm xúc trong chị. Như vậy, việc nhà văn tái hiện cuộc đời số phận nhân vật Đào là một cách để ca ngợi cuộc sống mới, tương lai mới tốt đẹp của dân tộc, đất nước. Các nhà văn thời đổi mới không có được niềm lạc quan toàn vẹn ấy. Họ nhìn thấy và phản ánh về con người và cuộc sống trong cái nhìn chân thực, từ đó phát hiện không ít những bi kịch xót xa. Thân phận của Giang Minh Sài trong Thời xa vắng (Lê Lựu) là thân phận mang tính bi kịch khi cả cuộc đời phải sống vì người khác, không dám vượt thoát những qui định truyền thống để nắm giữ lấy tình yêu - hạnh phúc thực sự cho cuộc đời mình. Sự đổi mới tư duy tiểu thuyết, trong đó có tiểu thuyết viết về nông thôn còn thể hiện rõ qua phương diện cốt truyện. Một số tiểu thuyết (như các tiểu thuyết hồi ức về chiến tranh) lựa chọn cốt truyện giàu tâm trạng, thì các nhà văn viết về nông thôn về cơ bản vẫn lựa chọn cốt truyện mang tính kế thừa truyền thống: cốt truyện sự kiện giàu kịch tính. Thời xa vắng (Lê Lựu), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không chồng (Dương 14 Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 Hướng), Lão Khổ (Tạ Duy Anh), Dòng sông mía (Đào Thắng), Thủy hỏa đạo tặc (Hoàng Minh Tường)... đều là những tiểu thuyết mà cốt truyện khá rõ ràng với mở đầu, phát triển, kịch tính, kết thúc. Người đọc có thể dựa vào những sự kiện ấy mà kể lại cho người nghe về nội dung câu chuyện. Tuy nhiên trong một số tiểu thuyết có sử dụng kết hợp thủ pháp đồng hiện: từ hiện tại hồi nhớ về quá khứ đã qua. Bằng con đường ấy, người đọc có điều kiện hiểu rõ hơn về cuộc đời nhân vật trong tác phẩm. Nếu như quan niệm con người trong văn học trước năm 1975 là quan niệm con người cá nhân hòa nhập trong tập thể, con người quần chúng thì sau 1975, đặc biệt từ sau đổi mới là quan niệm con người cá nhân được thể hiện trong mối quan hệ với cộng đồng trên cơ sở phát huy cá tính, tôn trọng đời tư nhân vật. Đồng thời với việc tái hiện bức tranh đời sống nông thôn đầy phức tạp, các nhà văn đặc biệt quan tâm đến cuộc sống, thân phận con người. Trong mỗi tiểu thuyết, người đọc đều tìm thấy một hoặc một số nhân vật có thân phận, có tính cách rất đặc biệt. Tính cách và thân phận ấy có mối quan hệ tương tác từ hoàn cảnh xã hội. Sự lầm lì, cam chịu của Sài trong Thời xa vắng của Lê Lựu chẳng phải có căn nguyên từ những qui định, những áp đặt từ gia đình, cơ quan hay sao? Song ẩn sâu bên trong bề ngoài ấy, người ta nhận thấy có một cõi lòng muốn vượt thoát đi tìm hạnh phúc thực sự, nhưng chưa đủ quyết tâm và mạnh mẽ để vượt qua và vứt bỏ tất cả những cái được coi là danh dự, là sự nghiệp. Cuộc đời Hạnh (Bến không chồng - Dương Hướng) phải chịu bao xô đẩy, áp lực từ những “lề thói, hủ tục” để rồi hạnh phúc tan vỡ trong đau khổ... Có thể thấy rất rõ, số đông nhân vật trong các tiểu thuyết về đề tài nông thôn mang đầy đủ cái mộc mạc, cùng sự toan tính thực dụng rất nông dân. Nhưng ở họ ta cũng bắt gặp vẻ đẹp những tâm hồn thuần phác, trong lành, vẫn còn nguyên vẹn nền tảng đạo đức từ ngàn xưa. Một thế giới phong phú con người sinh sống và làm việc ở nông thôn được tái hiện sinh 15 Nguyễn Thị Phương Hoa K33B Khoa Ngữ văn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan