cánh đổng, có không gian rộng, uy nghiêm, các yếu tô' phong
thủy đã được kê't hợp và xử lý một cách hài hòa với không
gian ximg quanh. Tổng thế lăng được xây dựng theo hình
chữ quốc, mặt xoay hướng đông nam có hồ sen rộng hình
chữ nhật bằng vôi cát, lăng có 3 lớp thành xây bằng vôi, cát,
gạch. Thành ngoài dài 20m, rộng 14m, cao l,5m tạo thành
khuôn viên bao bọc, có cửa nhỏ ra vào, 2 bên có hai con sư tử
đắp bằng vôi, cát tô màu hổng râ't đẹp.
Tiếp theo có án phong, có thành nội bao bọc khu mộ dài
12m, rộng 0,9m, cao l,2m hình vòm cung. Hai bên cửa có 2
con kỳ lân thể hiện khá tinh xảo. Ngôi mộ nằm chừứi giữa có
bia đá khắc chữ Hán ghi lại sự tích công đức của Bà Vú.
i.
Điều đáng lưu ý ở công trình là những hình trang trí
đắp nổi trên những bức tường của lăng có từng chủ đề riêng
biệt theo các tích xưa như: Nhị thập tứ hiếu, Trúc Lâm thâ't
hiển, Ngư Tiều Canh Mục, Bát tiên, Chiêu Quân công Hổ...
cùng với một số biểu tượng của người quân tử theo quan
niệm của đạo Nho như: tùng, cúc, trúc, mai. Hoặc là những
biểu tượng quen thuộc của đạo Lão như: thư, kiếm, phong,
vân, tùng, đình, nai, hạc... Châ't liệu dúnh để tạo nên những
tác phẩm nghệ thuật bích họa này chỉ là vôi, cát cùhg với
màu sắc trộn với nhau và được đưa lên tường, song ở mỗi
bức tranh các nghệ nhân xưa đã thể hiện một cách trau chuốt
đến từng chi tiết cũng như toàn bộ bô' cục của mỗi khtmg
hình. Lăng Bà Vú được xem như một di tích kiêh trúc nghệ
thuật của Việt Nam.
Vì Bà không có con cái gia đình tê'tự cho nên vua đã câ'p
một khu đất rộng cho dân trong vùng cày cây, không phải
nộp thuê' để lo nhang khói. Tương truyền ngày giỗ của Bà
vào ngày 16 tháng chạp hàng năm.
359
Bảo tàng tỉnh Khánh Hòa
Địa
chỉ:
16 Trần
Phú, thành phố Nha
Trang, từửi Khánh Hòa.
Đặc điểm: Bảo
tàng từửi Khánh Hòa
hiện đang bảo quản gần
10.000 hiện vật gôc, hơn
5.000 tư liệu hưữi ảnh thuộc về các thòi kỳ lịch sử khác nhau,
trong đó có nhiều hiện vật thuộc loại quý hiếm.
Bảo tàng tình Phú Khánh (nay là Bảo tàng tỉnh Khánh
Hòa) được thành lập theo Quyết định sô' 1329/UB-TC, ngày
13/6/1979 của Chủ tịch UBND tính Phú Khánh (cũ).
Bảo tàng đã sưu tập được nhiều hiện vật tiêu biểu như
sưu tập rìu đá, đồ trang sức bằng đá thuộc văn hóa Xóm Cồn
(cách ngày nay khoảng 3.500 năm); trống đổng Nha Trang
(niên đại cách đây 2.000 năm); điêu khắc đá Chăm pa (thế kỷ
9 đến thế kỷ 14); tiền cổ (từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 18); đổ gốm
thương mại (từ thế kỷ 9 đê'n thế kỷ 18); sưu tập vũ khí trong
thòd kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ...
Hệ thống trưng bày đang giới thiệu các chuyên đề: các
360
J
văn hóa cổ ở Khánh Hòa; truyền thôhg đấu tranh cách mạng
của Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa, giai đoạn 1930-2002;
thân thế và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Mừih
(1890-1969); chuyên đề các Bà mẹ Việt Nam anh hùng tỉnh
Khánh Hòa.
Mỗi năm Bảo tàng tủih Khánh Hòa đón tiếp hơn 20.000
lượt khách tham quan trong nước và quô'c tế, đồng thòi đã
xuâ't bản nhiều công trình nghiên cứu có giá trị như bộ sách
nghiên cúu nhiều tập: Khánh Hòa, diện mạo văn hóa một
vùng đâ't, Văn hóa Xóm Cồn... được giói khoa học trong
nước đánh giá cao.
361
Khu du lịch Dốc Lết
Vị trí: Khu du lịch Dôc Lết nằm ở địa phận bò biển Nữửi
Hòa, tình Khánh Hòa, cách thành phố Nha Trang chừng
50km về phía bắc.
Đặc điểm: Dốc Lết có
những cồn cát trắng tính
chạy dài, cao hàng chục mét
phía trênhàng dưomg, ngăn
cách đâ't liền với biển.
Đi từ thành phố Nha
Trang theo quôc lộ lA, đến ngã ba rẽ phải chừng 14km thì
vào đến khu du lịch Dốc Lết. Từ đâl: liền, muôrí ra được biển
phải vượt qua cồn cát. Khi vượt khỏi cồn cát, du khách sẽ
được đặt chân lên một bãi biển tuyệt vòi với bò cát trắng
mịn, phẳng lì chạy dài ven biến dài gần lOkm vói nước biêh
trong xanh, tữửi khiết vói muôn ngàn lớp sóng nhẹ vỗ bờ
chào đón.
Từ bò đi ra khoảng lOO-llOm, mực nước cũng chỉ tói
ngực, thoai thoải ra xa dần, không sâu như các bãi biêh
khác, mặt nước chi lăn tăn gợn sóng thật êm ả. Nưóc biển
trong xanh và thật sạch bởi khu vực này không có con sông
nào đổ vào.
Sau những giờ nô đùa, vẫy vùng ngoài biển, du khách
362
có thể nghi giải lao ở những căn chòi lộng gió, thưởng thức
những món hải sản tưoi như: tôm, ghẹ, cua biển, ôíc nhảy,
tôm tích biển, ôc gai, sò lông biển, sò dương...
Ban đêm ở đây thật yên tĩnh, du khách có thế tản bộ
một vòng trên bờ biển cát trắng lung lừứì, xem ngư dân đánh
cá, thẻ mực, câu ghẹ, bắt nghêu và thử tài làm ngư phủ.
Cảnh quan thiên nhiên trên bờ, vùng biển trước mặt
của Dô'c Lết đều hâp dẫn du khách. Noi đây cũng râ't gần
vịnh Văn Phong nổi tiếng, một trong những điểm du lịch
quôc tế đã tiến hành khảo sát và đánh giá râ't cao về tương
lai phát triển du lịch của vùng này.
Đêh Dốc Lết, ngoài khu du lịch bờ biển, du khách có thế
đi thăm làng chài, đồng muối Hòn Khói, vùng Hòn Hèo.
363
Huế
Diện tích: 5.054 km^
Dân số: 1.119.800
người (năm 2004)
Tủứì lỵ: Thành phố
Huế
Các huyện: Phong
Điền, Quảng Điền, Hưong
Trà, Phú Vang, Hương
Thủy, Phú Lộc, Nam Đông, A Lưới.
Dân tộc: Việt (Kinh), Tà ô i, Cơ Tu, Bru Vân Kiều, Hoa.
364
Ngọ Môn
Vị trí: Ngọ Môn là cổng chứứi vào Đại Nội trong kinh
thành Huê' Tp. Huế, tình Thừa Thiên - Huế.
Đặc điểm: Ngọ Môn là
một trong những công trình
kiên trúc cổ tiêu biểu của
miền núi Ngự sông Hương.
Mặc dù đã trải qua hơn
một thê' kỷ rưỡi với bao cơn
bão táp của thiên rứiiên và
•
chiến tranh tàn phá, nhưng
rửiờ có kỹ thuật xây dựng khéo léo và nhâ't là nghệ thuật
kiến trúc râ't thành thạo, cho nên, Ngọ Môn vẫn còn đxrng
vững với thời gian để trở thành một trong những công trình
kiến trúc cổ tiêu biểu của miền núi Ngự Sông Hương.
Ngọ Môn xây dựng vào năm 1833, khi vua Mũứì Mạng
cho quy hoạch lại mặt bằng và hoàn chỉnh hóa tổng thê’ kiến
trúc trong Đại Nội.
Vì Kinh Dịch quy địrửi, ông vua bao giờ cũng quay
mặt vê' phía nam để cai trị thiên hạ, cho nên, ngay từ thời
Gia Long (1802 - 1810), khi xây dựng Kinh đô Huế, các rvhà
kiến trúc đã cho hệ thống thành quách và cung điện ở vào
365
vị trí thế "tọa càn hướng tốn" (tây bắc đông nam). Hướng
này cũng được xem như hướng bắc - nam. Đối với ngai
vàng trong Điện Thái Hòa được xem như vị trí trung tâm
của mặt bằng tổng thể, Ngọ Môn nằm ở phía nam của nó.
Căn cứ trên la kừửi (la bàn) của khoa địa lý phong thủy
Đông Phương, phía nam thuộc hướng "ngọ" trên trục "tý
ngọ" (nghĩa là bắc - nam). Do đó, triều Minh Mạng đã đặt
tên cho cái cổng mới xây ở chứứi giữa mặt trước Hoàng
Thành là Ngọ Môn, thay cho tên cũ là Nam Khuyết Đài.
Chúng ta nên hiểu Ngọ Môn là cổng phía nam với ý nghĩa
mang tính không gian, chứ không nên cho rằng chữ "ngọ"
ở đầy mang tính thời gian là giờ "ngọ", lúc mặt trời đứng
bóng giữa ngày. Thành thử không thể dịch chữ Ngọ Môn
ra thành "Noon time ga te" như có người đã dịch. Có hiểu
đúng ý nghĩa của người xưa khi đặt tên, mới thây rõ hơn
vị trí của Ngọ Môn trong tổng thể kiến trúc Đại Nội. Ngày
xưa, cổng này thường đóng chặt quanh năm, chi được mở
khi vua ra vào Hoàng Thành có đoàn ngự đạo đi theo, và
trong những dịp tiếp kiến các sứ ngoại quốc quan trọng
trong hoàng cung...
Tuy nhiên, Ngọ Môn không phải chi là một cái cổng,
mà nó là cả một tổng thể kiến trúc khá phức tạp: bên trên
còn có Lầu Ngũ Phụng được xem như một lễ đài, dùng để tổ
chức một số cuộc lễ hàng năm của triều đ'ưửi, như lễ Truyền
Lô (đọc tên các sĩ tử thi đỗ tiêh sĩ), lễ Ban Sóc (phát lịch), lễ
Duyệt Bũìh...và đây cũng là nơi diễn ra cuộc lễ thoái vị của
vua Bảo Đại vào ngày 30/8/1945.
Về mặt kết câu kiẽh trúc, có thê’ chia tổng thê’ Ngọ Môn
366
ra làm hai hệ thôhg: hệ tììôhg nền đài ở dưới và hệ ửiống
Lầu Ngũ Phụng ở trên, mặc dù cả hai đều đã được thiết kế
ăn khớp nhau một cách chặt chẽ và hài hòa với nhau từ tổng
thê’ đến chi tiết.
Hệ thôhg nền đài: Cao gần 5m, nền đài Ngọ Môn xây
trên một mặt bằng hình chữ u vuông góc, đáy dài 57,77m
và cánh 27,06m. Vật liệu kiến trúc chửửi là gạch vồ, đá
thanh và đổng thau, ở phần giữa của nền đài trổ ra ba lô'i đi
song song nhau: Ngọ Môn (dành cho vua đi), Tả Giáp Môn
và Hữu Giáp Môn (dành cho quan văn võ theo hầu trong
đoàn Ngự Đạo), ở trong lòng mỗi cánh chữ u có trổ một lối
đi như đường hầm chạy xuyên suốt từ trong ra ngoài, rổi
thẳng góc vào phía đường Dũng đạo. Hai lô'i đi này được
gọi là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn (dành cho lính tráng
và voi ngựa theo hầu trong đoàn Ngự đạo), ở phần trên
của 5 lối đi đều xây cuôh thành vòm cao, nhưng ở riêng ở
hai đầu 3 lôi đi giữa thì các kiến trúc thời Mữứi Mạng lại kết
cấu những hệ thống xà ngang và xà dọc bằng đổng thau với
tiết diện 15x12 để gia cố cho sự chịu lực từ Lầu Ngũ Phụng
nằm trên đài. Nơi nào chịu đựng trọng lượng càng lớn thì
số lượng xà ngang càng nhiều và khoảng cách giữa chúng
càng thu hẹp lại, nghĩa là mật độ xà càng cao. Và để giữ vẻ
thẫm mỹ, họ đã bọc thêm một lớp đồng lá dát mỏng ở
ngoài mặt các hệ thôhg xà đồng này. Họ đã tỏ ra râít thành
thạo trong việc tứửì toán tải trọng, sức bền vật liệu, cũng
như trong việc sử dụng thích hợp các phương thức và các
loại vật liệu xây dựng.
Còn ở tầng trên thì mặt trước nhà giữa dựng cứa lá sách.
367
chung quanh nong ván, nhung có trổ nhiều cửa sổ với những
dạng khác nhau; hình tròn, hình cái quạt, hình cái khánh...
Có thể chia 9 bộ mái của Lầu Ngũ Phụng ra làm 3 dãy,
mỗi dãy gồm 3 nóc: dãy chính chạy ngang theo đáy hình chữ
u và hai dãy phụ chạy dọc theo hai cánh hình chữ u . Hai
dãy này được gọi là Tả Dực Lâu và Hữu Dực Lâu.
Từ mặt đất thường, người ta đi lên trên nền đài bằng hai
hệ thống bậc câíp xây bằng đá thanh ở hai bên, nằm lộ thiên
nhưng râ't km đáo. Quanh trên nền đài là hệ thống nữ tường
(tường hoa, lan can) được trang trí bằng nhiều kiểu gạch hoa
đúc rỗng tráng men ngũ sắc.
Hệ thống Lầu Ngũ Phụng : Lầu Ngũ Phụng có hai
tầng, dưói lớn trên nhỏ. Bộ sườn làm bằng gỗ lim. Lầu
gồm chín bộ mái ngói ống tráng men vàng và xanh lá cây,
gọi là ngói hoàng lưu ly và ngói thanh lưu ly. Ngói được
lợp theo kiểu âm dương. Lẩu dimg ở một nền cao l,14m
xây trên đài. Tòa nhà lầu có 100 cây cột chẵn, trong đó có
48 cột ăn suốt cả hai tềỉng. Mái tầng dưới đơn giản, nôi liền
nhau chạy quanh một vòng khắp tất cả các phía để che
mưa nắng cho các dãy hổi lang của tầng này. Nhưng ở
tầng trên thì mái lầu chia ra thành 9 bộ khác nhau, trong
đó, bộ mái ở giữa cao hơn 8 bộ mái ở hai bên. Quanh các
phía tầng dưới đều để trống chỉ trừ chính giữa có hệ thống
cửa gương ở mặt trước, dựng đố bản ở hai bên và mặt sau
chỗ thiết Ngự tọa để vua ngồi dự lễ.
Sở dĩ tổng thể Ngọ Môn được xây dựng trên một mặt
bằng hình chữ u và hệ thống Lầu Ngũ Phụng được chia ra
368
thành 9 bộ mái lớn nhỏ, cao thâp, nằm nhâp nhô trông vui
mắt như thê' là vì để tránh sự nặng nề của một công trình
kiến trúc hình khối tưcmg đô'i đổ sộ. Hệ thống nền đài đều
xây bằng các loại vật liệu cứng (đá, gạch, đổng), nhưng nhờ
tạo dáng mềm mại, bố trí hài hòa và trau chuôt khéo léo, nên
trông vẫn râ't nhẹ nhàng. Đá thanh mài nhẵn, gạch vổ nung
kỹ, vừa trộn mật mía và nhựa cây với tỷ lệ cao, cho nên độ
bền râ't lớn. Các lối đi trổ xuyên qua thân nền đài thành
những đường hẩm khá dài, nhimg ánh sáng thiên nhiên vẫn
chiêu dpi vào đầy đủ nhờ những dạ cửa được nâng cao và
trổ thêm các cửa sổ tròn trang trí hình chữ "thọ". Các hệ
thống lan can con tiện bằng gỗ (ở tềỉng trên Lầu Ngũ Phụng)
và bằng gạch hoa đúc rỗng (nữ tường quanh trên nền đài)
càng làm cho tổng thể kiến trúc trỏ nên thanh tú. ở các ô hộc
trên bờ nóc, bở quyết và các đầu hồi của tòa nhà lầu được
trang trí nhiều hình ảnh rồng, giao, doi ngậm kim tiền, thơ
văn, hoa lá, làm cho phần mái càng thêm xừửi.
Căn cứ vào số đo của mọi kích thước mặt bằng, các mặt
điing và mặt cắt, cô' họa sĩ Phạm Đăng Trí đã chứng minh
rằng tổng thể cũng như từng bộ phận kiên trúc Ngọ Môn
đều được thiết lập theo "tỷ lệ vàng" của nền mỹ học Tây
phương; mặc dù các nhà kiến trúc vào nửa đầu thê'kỷ 19 chỉ
làm theo mỹ cảm trực giác của mình.
Mặt khác, những sô' đê'm trên kiến trúc Ngọ Môn cũng
được áp dụng theo nguyên tắc của Dịch học Đông phương,
chẳng hạn như sô' 5, sô' 9, sô' 100. Năm lô'i đi tượng trưng cho
"ngũ hành". Chm nóc lầu biểu hiện con sô' 9 trong hào "cửu
ngũ" ở Kữih Dịch, ling với mạng thiên tử. Một trăm cây cột
369
nhà ở Lầu Ngũ Phụng cho thây đó là số cộng của "Hà Đồ"
và "Lạc Thư" trong sách ây.
SỐ của "Hà Đổ" là 55 (do các số từ 1 đến 10 cộng lạ i: 1 2
3 4 5 6 7 8 9 10); số của "Lạc Thư" là 45 (do các sô tư 1 đến 9
cộng lại: 1 2 3 4 5 6 7 8 9). Như vậy số thành của Hà Đô' và
Lạc Thư cộng lại (55 45) là 100. Và nói đến Dịch học là phải
nói đến âm dương, vì "Nhâ't âm nhẩit dương chi vị Đạo".
SỐ dương của Hà Đổ là 25 (do các số lẻ từ 1 đêh 10 cộng
lại: 1 3 5 7 9; SỐ âm của Hà Đồ là 30 (do các số chẵn từ 1 đến
10 cộng lại: 2 4 6 8 10) và sô' dương của Lạc Thư là 25 (do các
số lẻ từ 1 đến 9 cộng lại: 1 3 5 7 9); số âm của Lạc Thư là 20
(do các SỐ chẵn từ 1 đồn 9 cộng lại: 2 4 6 8)
Hai số dương của Hà Đồ và Lạc Thư cộng lại là 50 (tức
25 25); hai sô' âm của chúng cộng lại cũng là 50 (tức là 30 20).
Thành ra âm và dương của Dịch học là bằng nhau, đều 50.
Nghĩa là : (25 25) (20 30)= 100.
Trên thực địa, nếu dùng đường trục clúnh của Đại Nội là
Dũng đạo để chia mặt bằng Lầu Ngũ Phụng ra làm hai phần
thì chúng ta thâ'y mỗi bên có 50 cột đối xứng nhau.
Đạo âm dương ngũ hành của nền triết học Đông Phương
đã biểu hiện thật cụ thể trên kiến trúc Ngọ Môn. Cho hay,
trong các công trình kiến trúc cổ của chúng ta, người xưa đã
gửi gắm nhiều ẩn số, ẩn ngữ, ẩn ý râ't sâu xa.
Ngoài ra, sự đế trống chimg quanh tầng dưới Tả Dục
Lâu và Hữu Dục Lâu làm lộ rõ các hàng cột thon nhỏ ở Lầu
Ngũ Phụng gây cho ngưòd xem một cảm giác, một âh tượng
thanh thoát, rửiẹ nhàng, dễ chịu.
370
Tổng tììể Ngọ Môn tuy đổ sộ nguy nga, nhìn từ xa như
một tòa lâu đài tráng lệ, nhưng khi tiếp cận, chúng ta thây
các kiêh trúc sư thời Mữứi Mạng đã tỏ ra râ't cao tay nghề
trong việc thiết k ế và trang trí, cho nên, nó trở thành một
công trình kiến trúc xữih xắn đáng yêu, gần gũi với phong
cảnh thiên nhiên và tâm hồn, tình cảm của con ngưòd xứ
Huế.
Ngọ Môn xứng đáng được liệt vào hàng những công
trình kiên trúc nghệ thuật xuâ't sắc nhâ't của triều Nguyễn nói
riêng và của nền kiến trúc cổ Việt Nam nói chung.
Mặt bằng kiến trúc của hệ thống Lầu Ngũ Phụng ăn
khớp với mặt bằng của hệ thôrig nền đài, như đã nói trên,
tạo thành một vòng tay của chủ nhân dang ra phía trước để
đón khách vào.
371
Phu Văn Lâu
Vị trí: Phu Văn Lâu nằm ngay trước Kỳ Đài sát đường
quốc lộ lA chạy qua kinh thành Huê' Tp. Huế, tỉnh Thừa
Thiên - Huế.
Đặc điếm: Phu Văn Lâu là nơi niêm yết những chiếu
thư của Vua thời Nguyễn
hay bảng kết quả các cuộc
thi Hội, thi Đình.
Đây là một cái lầu
duyên dáng quay mặt về
hướng nam. Ngay trước
mặt Phu Văn Lâu có một
sân rộng dẫn đến nhà
Nghinh Lương đứng trên bờ sông Hương.
Phu Văn Lâu làm từ thời Gia Long (1819), nhưng đến
đòi Mừửi Mạng mới định thê’ thức làm nơi công bố những
chiêu thư quan trọng của nhà vua. Sau khi đã được tuyên
đọc ở điện Thái Hòa ha}' cửa Ngọ Môn, người ta đặt chiếu
thư lên một cái long đình có lọng che để quân lứìh cung
Nghinh ra yết tại lầu. Các quan tmh Thừa Thiên theo hàng
hàng bô lão cung kmh đến lạy các chiếu thư.
Từ năm 1821, sau khi truyền lô, danh sách các khoa
danh tiêh sĩ được đem niêm yết tại đây. Vì tính cách long
372
trọng như vậy nên hai bên lầu có hai bia đá "khu)mh cái hạ
mã" nhắc nhở tất cả mọi người đi ngang qua Phu Văn Lâu
phải "nghiêng nón xuống ngựa".
Năm 1829 đã từng có một cuộc đâ'u giữa voi và cọp
trước lầu để cho vua Minh Mạng ra xem. Vào các dịp tứ
tuần, ngũ tuềín của Mữứì Mạng có nhiều cuộc vui khác được
tổ chức ở đây. Vê' sau các vua Thiệu Trị, Tự Đức cũng giữ cái
lệ ây nhân những ngày khánh thọ của m'ưứì. Vua Thiệu Trị
xem sông Hương và lầu Phu Văn là một trong 20 cảnh đẹp ở
chôh Tháìn Kữứi. Năm 1843 Thiệu Trị cho dựng một nhà bia
bên tay phải lầu để khắc bài thơ Hương Giang Hiểu Phiếm
(buổi sớm bơi thuyền trên sông Hương).
Bão năm Thìn (1904) thổi bay lầu Phu Văn, vua Thành
Thái cho làm lại giống y như cũ.
373
cầu ngói Thanh Toàn
Vị trí: Cầu ngói Thanh Toàn bắc qua một con mưong
chảy từ đầu làng đến cuối
làng Thanh Toàn, thuộc xã
Thuỷ Thanh, huyện Hương
Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huê^ cách trung tâm Tp.
Huế chừng 8km theo đường
bộ về phía đông.
Đặc điểm: Cầu ngói
Thanh Toàn vào loại hiếm và có giá trị nghệ thuật cao nhất
trong các loại cầu cổ ở Việt Nam. Cầu ngói Thanh Toàn là
một di tích kiến trúc cổ, râ't có giá trị về mặt lịch sử, văn hoá
và còn là một thắng cảnh.
Làng Thanh Toàn được thành lập vào thế kỷ 16. Những
di dân từ đât Tharửi Hoá theo chúa Nguyễn Hoàng vào
Thuận Hoá, có 12 vị tộc trưởng đã dừng chân lập nghiệp ở
đây, tạo nên 12 họ khai canh của làng.
Một người cháu gái thuộc thế hệ thứ sáu của họ Trần là
bà Trần Thi Đạo đã cúng tiền cho làng xây dựng chiếc cầu gỗ
đê’ dân làng qua lại được thuận tiện. Đây cũng là nơi cho lữ
khách cùng người tha phương tạm dừng chân lỡ bước. Bà
Tráín Thi Đạo là vợ một vị quan cao câp dưới triều vua Lê
374
Hiển Tông nhimg không có con. Bà muôh dùng tiền của
mình để làm phúc cho dân làng, cho xứ. Bà được dân làng
tôn sùng, thờ phụng. Năm 1776, vua Lê Hiển Tông đã ban
sắc khen ngợi bà Trần Thị Đạo. Năm 1925, vua Khải Định
cũng ban sắc phong thần cho bà là Dực Bảo Trung Hưng
Lũih Phò và lệnh cho dân lập bàn thờ ngay trên cầu để thò
cúng bà.
Cầu ngói Thanh Toàn là chiếc cầu vồng bằng gỗ, có
chiều dài 17m và chiều rộng 4m, hai bên thân cầu có hai dãy
bục gỗ và lan can để ngồi tựa limg. Trên cầu có mái che, lợp
ngói ôhg tráng men chia làm 7 gian.
Chiếc cầu được xây dựng cách đây hơn hai thế kỷ, đã
bao lần bị gió bão, lụt lội và chiến tranh tàn phá. Tuy nhiên,
sau các lần hư hỏng, nhân dân xã đều chvmg nhau tu sửa,
tôn tạo và gìn giữ nó.
Với tinh thần "uôhg nước nhớ nguồn" và tôn trọng di
sản văn hoá, nhiều thế hệ dân làng Thanh Toàn đã gìn giữ
một công trình kiến trúc độc đáo của Huế. Tháng 9/1991, cầu
được trùng tu lóm theo qui mô cũ và đúnh thức được Bộ Văn
hoá Thông tin câp bằng công nhận Di tích quốc gia, trớ
thành danh thắng quý hiếm của cả nước.
375
Cửu vị thần công
VỊ trí: Cửu vị thần công
được đặt gần cửa Thể Nhơn
và cửa Quảng Đức bên trong
kũìh thành Huế, Tp. Huê^
tính Thừa Thiên - Huế.
Đặc điểm: Cửu vị thần
công là chúi khẩu súng thờ,
tượng trưng cho những vị
thần lũih bảo vệ kmh thành.
Ngày 31/01/1803, Gia Long hạ lệnh thu hết tâ't cả đô'
dùng bằng đồng của triều đại Tây Sơn đúc thành 9 khẩu
súng. Đến cuổì tháng Giêng năm 1804 thì công việc đúc hoàn
thành. Người ta lây tên bốn mùa; Xuân, Hạ, Thu, Đông và
ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ để đặt tên cho 9 khẩu
súng. Tâ't cả chứi khẩu đều được phong "Thần Oai vô địch
thượng tướng quân". Mỗi khẩu dài 5,lm, nặng hên 10 tâh.
Trọng lượng cửa từng khẩu (túih theo cân ta):
Súng thứ 1: Xuân, nặng 17.700 cân
Súng thứ 2: Hạ, nặng 17.200 cân
Súng thứ 3: Thu, nặng 18.400 cân
Súng thứ 4: Đông, nặng 17.800 cân
376
Siíng thứ 5: Mộc, nặng 17.000 cân
Súng thứ 6: Hoả, nặng 17.200 cân
Siing thứ 7: Thổ, nặng 18.800 cân
Súng thứ 8: Kim, nặng 17.600 cân
Súng thứ 9: Thủy, nặng 17.200 cân
Thân súng chạm trổ ti mỉ, khắc danh hiệu, vị thứ, trọng
lượng, cach dùng súng, bài ký về việc tranh châp với Tây
Son cùng việc thu đồng đúc súng.
Chín khẩu súng này chưa hề dùng trong trận mạc,
chiing chỉ có tính cách tưgng trưng, xem như những vị thần
lữửi bảo vệ kinh thành.
Lúc mới đúc xong, Cửu vị thần công được đặt dưới
chân Hoàng Thành, trước cửa Ngọ Môn. Đến đời Khải Định
mới dời ra vị trí như ta thây hiện nay.
377
Thế Miếu
Vị trí: Thê' Miếu nằm trong kinh thàrứi Huê^ Tp. Huê^
tình Thừa Thiên - Huế.
Đặc điểm: Thế Miếu là nơi thờ cúng các vua Nguyễn.
Đây là một trong những công trình to lớn bậc nhâ't so với các
rũiếu, điện ở Việt Nam.
Năm 1804, Gia Long cho xây dựng miếu Hoàng Khảo ở
vị trí của Thế Miếu ngày nay đê’ thờ cha mình là Nguyễn
Phúc Luân. Sau khi vua Gia
Long mâ't, Mừửì Mạng lên
nô'i ngôi, năm 1821 ông đã
cho dời miếu Hoàng Khảo
lui về phía sau vài chục mét,
đổi thành Hưng Miếu, còn
xây Thế Miếu vào vị trí ây
vào năm 1821 - 1822 đế thò
vua Gia Long, và các vua k ế vị về sau.
Thế Miêu được xây dựng trên mặt bằng l.SOCm^, cũng
là toà nhà kép theo kiểu "trùng thiềm, trùng lương" như
Điện Thái Hoà. Tiền doanh ( nhà trước) có 11 gian và chírửi
doanh (rứìà sau) có 9 gian.
Hai doanh nối với nhau bằng trần vỏ cua. Tâ't cả có
chung một đường mà ngăn riêng từng thâ't tức là cùng một
378
- Xem thêm -