Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Những thay đổi trong tư tưởng đạo đức nho giáo việt nam cuối thế kỷ xix...

Tài liệu Những thay đổi trong tư tưởng đạo đức nho giáo việt nam cuối thế kỷ xix

.PDF
160
534
64

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI ------------***----------- MAI VŨ DŨNG NH÷NG THAY §æI TRONG T¦ T¦ëNG §¹O §øC NHO GI¸O VIÖT NAM CUèI THÕ Kû XIX LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI ------------***----------- MAI VŨ DŨNG NH÷NG THAY §æI TRONG T¦ T¦ëNG §¹O §øC NHO GI¸O VIÖT NAM CUèI THÕ Kû XIX Chuyên ngành: Đạo đức học Mã số: 62 22 03 06 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS, TS. VŨ TRỌNG DUNG 2. PGS, TS. NGUYỄN VĂN PHÚC HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Vũ Trọng Dung và PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc. Những số liệu, cứ liệu đã nêu, trích dẫn trong luận án được sưu tầm có nguồn gốc, trích lục rõ ràng, chính xác. Những kết luận của luận án là trung thực. Tác giả luận án Mai Vũ Dũng MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .............................................................................................................. 6 1.1. Các công trình nghiên cứu khái quát về Nho giáo và đạo đức Nho giáo............ 6 1.2. Các công trình nghiên cứu về Nho giáo và đạo đức Nho giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX. ..................................................................................................................... 17 1.3. Một số công trình nghiên cứu về sự thay đổi trong tư tưởng đạo đức Nho giáo Việt Nam và những vấn đề chính cần tiếp tục giải quyết, bổ sung trong luận án. ............ 24 Chương 2. TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ THAY ĐỔI TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO CUỐI THẾ KỶ XIX Ở VIỆT NAM ........................................................................................... 32 2.1. Khái quát về Nho giáo và tư tuởng đạo đức Nho giáo...................................... 32 2.2. Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi tư tuởng đạo đức Nho giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX ...................................................................................................................... 48 Chương 3. SỰ THAY ĐỔI VỀ NỘI DUNG VÀ TÍNH CHẤT TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX ................................ 66 3.1. Nội dung cơ bản của sự thay đổi tư tưởng đạo đức trong Nho giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX ........................................................................................................ 66 3.2. Sự thay đổi tính chất trong tư tưởng đạo đức Nho giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX ........................................................................................................................... 92 Chương 4. Ý NGHĨA CỦA SỰ THAY ĐỔI TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX ................................................. 121 4.1. Ý nghĩa của sự thay đổi đạo trung - hiếu - nghĩa của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX ...................................................................................... 121 4.2. Ý nghĩa của sự thay đổi đạo trung - hiếu - nghĩa của Nho giáo cuối thế kỷ XIX đối với xã hội Việt Nam hiện nay. .................................................................... ….133 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 146 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ..........................................................................................................149 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. ........................................................... 150 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng đã, đang và sẽ là đề tài được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Bởi vì, Nho giáo là hệ tư tưởng thống trị trong xã hội phong kiến. Ở Việt Nam chế độ phong kiến đã bị xoá bỏ từ lâu, nhưng nhiều yếu tố giá trị và hạn chế của Nho giáo vẫn còn tồn tại. Các học giả ở cả phương Đông và phương Tây đã để lại hàng kho sách nghiên cứu đánh giá về Nho giáo nói chung, tư tưởng đạo đức của Nho giáo nói riêng. Vì vậy, đứng trước di sản khổng lồ ấy không thể bỏ qua ý kiến của những người đi trước, nhưng cần phải có cái nhìn mới khi toàn bộ vấn đề được đặt dưới ánh sáng của thế giới quan khoa học và tình hình thực tiễn của thời đại, đặc biệt là nửa cuối thế kỷ XIX với những biến động lớn của xã hội Việt Nam, đạo đức Nho giáo đã có những thay đổi nhất định trên nhiều phương diện. Ở Việt Nam, nghiên cứu Nho giáo là vấn đề rất rộng, phức tạp và khó khăn, nên chúng tôi chỉ nghiên cứu một khía cạnh đó là những thay đổi trong tư tưởng đạo đức Nho giáo Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã len vào mọi ngóc ngách của cuộc sống hiện đại, vấn đề suy thoái đạo đức đã đến mức khá nghiêm trọng, khiến nhiều người phải giật mình, đòi hỏi chúng ta phải nhìn lại để giữ gìn những giá trị đạo đức truyền thống. Đó là những giá trị căn bản, trường tồn, trong đó có vai trò của đạo đức Nho giáo. Vì vậy, chúng ta phải đánh giá một cách khách quan và chính xác nội dung đạo đức Nho giáo ở Việt Nam, để đạo đức Nho giáo không những có giá trị lý luận, mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Về mặt lý luận: Sự thay đổi tư tưởng đạo đức Nho giáo thời kỳ này chưa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Vì vậy, với đề tài nghiên cứu này chúng tôi muốn làm sáng tỏ nguyên nhân, tính chất và những nội dung thay đổi tư tưởng đạo đức Nho giáo, đặc biệt là sự thay đổi trong quan niệm về đạo trung - hiếu - nghĩa của Nho giáo Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, góp phần nghiên cứu nhằm làm rõ thêm lịch sử tư tưởng đạo đứcViệt Nam. Về mặt thực tiễn: Qua nghiên cứu những nội dung thay đổi tư tưởng đạo đức Nho giáo Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX góp phần rút ra ý nghĩa về sự thay đổi các 1 chuẩn mực đạo đức khi xã hội đã có những thay đổi lớn khác biệt so với nhiều thế kỷ trước. Đặc biệt, với những biến động lớn của thời đại và của xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, đạo đức Nho giáo trong đó chủ yếu là những thay đổi trong quan niệm về đạo trung - hiếu - nghĩa. Vì vậy, nghiên cứu Nho giáo thời kỳ này để thấy những điểm tương đồng và khác biệt về đạo trung - hiếu - nghĩa của các nhà Nho, tầng lớp trí thức đương thời. Vẫn còn đó quan niệm trung - hiếu - nghĩa, nhưng vấn đề ở chỗ nó đã đó có những thay đổi như thế nào? Có nhiều nhà Nho trong tư tưởng của mình đã có những thay đổi trong quan niệm về đạo trung - nghĩa khi không chấp nhận sự lên ngôi của vua Đồng Khánh, mà chỉ đi theo tiếng gọi yêu nước của vua Hàm Nghi. Vậy trung nghĩa ở đây cần được hiểu như thế nào? Có phải trong thời kỳ này quan niệm thời thế thay đổi đang đặt ra những thách thức lớn đối với đạo đức truyền thống của Nho giáo. Xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX có những điểm khác biệt cơ bản so với các thời kỳ phong kiến trước đó. Đây là thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, cách thức xâm lược của thực dân Pháp về cơ bản là khác lạ so với sự xâm lược của phong kiến phương Bắc hàng ngàn năm trước. Chính sự khác biệt này đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu từ trước tới nay về sự thay đổi trong tư tưởng đạo đức Nho giáo thời Nguyễn. Việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức của Nho giáo để có thể hiểu được những thay đổi trong quan niệm về đạo trung - hiếu - nghĩa của nhiều nhà Nho cùng thời. Nửa cuối thế kỷ XIX là một giai đoạn lịch sử không dài, chỉ khoảng trên dưới 40 năm nhưng có nhiều biến động trong đời sống tư tưởng ở Việt Nam, trong đó có một số thay đổi trong tư tưởng đạo đức của Nho giáo có ý nghĩa báo hiệu, chuẩn bị cho sự thay đổi, chuyển biến mạnh mẽ hơn vào đầu thế kỷ sau. Vì vậy, nghiên cứu những thay đổi tư tưởng đạo đức của Nho giáo nửa cuối thế kỷ XIX có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Như vậy, việc tìm hiểu những thay đổi trong đạo đức Nho giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX là cần thiết, nhất là sự ảnh hưởng của nó đối với các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi mong muốn tìm ra những thay đổi trong quan niệm về đạo trung - hiếu - nghĩa của đạo đức Nho giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đồng thời làm sáng tỏ thêm giá trị và ý nghĩa thực tiễn trong 2 lịch sử và thời đại ngày nay. Với lý do như trên, tôi chọn vấn đề "Những thay đổi trong tư tưởng đạo đức Nho giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX" làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ triết học của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích Từ việc hệ thống, phân tích, đánh giá và làm rõ những thay đổi trong tư tưởng đạo đức Nho giáo Việt Nam mà chủ yếu trong quan niệm về đạo trung - hiếu - nghĩa cuối thế kỷ XIX. Luận án, bước đầu đánh giá tính chất và nội dung những thay đổi trong quan niệm trung - hiếu - nghĩa. Đồng thời rút ra ý nghĩa những thay đổi quan niệm về đạo trung - hiếu - nghĩa của đạo đức Nho giáo đối với xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX và giai đoạn hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nêu trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau đây, Thứ nhất, trình bày khái quát về đạo đức Nho giáo, đạo đức Nho giáo Việt Nam và nguyên nhân những thay đổi trong tư tưởng đạo đức Nho giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Thứ hai, trình bày, phân tích, đánh giá những thay đổi cơ bản tư tưởng đạo đức Nho giáo mà tập trung chủ yếu trong sự thay đổi quan niệm về đạo trung - hiếu - nghĩa qua một số nhà Nho tiêu biểu ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Thứ ba, trình bày ý nghĩa những thay đổi quan niệm về đạo trung - hiếu nghĩa trong tư tưởng đạo đức Nho giáo đối với xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX và xã hội Việt Nam hiện nay. 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 3.1. Phạm vi nghiên cứu Tư tưởng đạo đức của Nho giáo nói chung và Nho giáo Việt Nam nói riêng, bao gồm nhiều nội dung với nhiều phạm trù, nhiều quan điểm khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, quan niệm về đạo trung đạo hiếu, đạo nghĩa, về trung - hiếu, trung - nghĩa, hiếu - nghĩa là những phạm trù nội dung cơ bản nhất trong tư tưởng đạo đức của Nho giáo, đặc biệt là Nho giáo Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX. Mặt khác, do dung lượng của một luận án cho 3 phép, trong luận án này chúng tôi không thể trình bày tất cả những sự thay đổi về nội dung, tính chất của đạo đức Nho giáo Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, mà chỉ tập trung nhiều, chủ yếu là nghiên cứu và đánh giá những thay đổi trong quan niệm về đạo trung - hiếu - nghĩa qua nghiên cứu tư tưởng, quan điểm của một số nhà Nho tiêu biểu ở giai đoạn đặc biệt trong khoảng thời gian 40 năm nửa cuối thế kỉ XIX. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Những thay đổi trong quan niệm về đạo trung - hiếu - nghĩa của một số nhà Nho tiêu biểu nửa cuối thế kỷ XIX trên đất nước Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án sử dụng các nguyên lý cơ bản của triết học Mác -Lênin như, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, tính độc lập tương đối của ý thức xã hội… làm cơ sở lý luận. Luận án cũng dựa trên phương pháp luận của triết học Mác - Lênin về lịch sử triết học, tư tưởng Hồ Chí Minh về nghiên cứu lịch sử tư tưởng dân tộc, quan điểm về đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và giáo dục đạo đức làm cơ sở cho những lập luận của mình. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Tuỳ từng trường hợp, luận án sử dụng các phương pháp như, lôgíc, lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh để nghiên cứu các vấn đề đặt ra trong luận án. 5. Cái mới của luận án Luận án hệ thống hoá và đưa ra cách lý giải những thay đổi trong quan niệm về đạo trung - hiếu - nghĩa trong tư tưởng đạo đức Nho giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Luận án bước đầu phân tích nội dung và tính chất những thay đổi trong quan niệm về đạo trung - hiếu - nghĩa của đạo đức Nho giáo Việt Nam qua một số nhà Nho tiêu biểu thời kỳ này. Luận án đánh giá ý nghĩa những thay đổi trong quan niệm về đạo trung - hiếu nghĩa của đạo đức Nho giáo đối với xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX và hiện nay. 4 6. Ý nghĩa của luận án Luận án góp phần tìm hiểu những thay đổi trong tư tưởng đạo đức Nho giáo cuối thế kỷ XIX ở triều Nguyễn và lịch sử tư tưởng đạo đức Việt Nam. Kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy lịch sử tư tưởng triết học, đạo đức học Việt Nam. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án có 4 chương với 9 tiết. 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Các công trình nghiên cứu khái quát về Nho giáo và đạo đức Nho giáo Việc nghiên cứu đạo đức Nho giáo là một công việc quan trọng nên đòi hỏi phải có sự công phu, bền bỉ. Cho đến nay vẫn còn có những ý kiến trái ngược nhau về Nho giáo, nhưng phần lớn đều nhất trí khẳng định ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống đạo đức của người Việt là rất rõ nét. Trải qua 25 thế kỷ phát triển, Nho giáo về sau đã khác nhiều so với lúc mới xuất hiện, nhưng nó vẫn có một số nét chung. Trước hết, Nho giáo không chỉ là một học thuyết triết học, mà chủ yếu là học thuyết chính trị - xã hội và đạo đức của giai cấp phong kiến Trung Quốc. Nho giáo chủ trương dùng “nhân trị”, “đức trị” để trị dân trị nước và quản lý xã hội. Vì vậy, một trong những vấn đề cơ bản mà luận án lấy làm nội dung nghiên cứu đó là những thay đổi trong tư tưởng đạo đức Nho giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, để tìm hiểu và nghiên cứu những thay đổi trong tư tưởng đạo đức Nho giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX được sâu hơn, chúng tôi không chỉ khảo sát tình hình nghiên cứu trong phạm vi nhất định về Nho giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX đã được công bố mà cố gắng vượt ra khỏi phạm vi đó bằng việc khảo sát các công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam và Trung Quốc mang tính hệ thống, khái quát, các giá trị, chuẩn mực đạo đức của Nho giáo. 1.1.1. Các công trình nghiên cứu khái quát về Nho giáo và đạo đức Nho giáo Việt Nam Để nghiên cứu những thay đổi trong tư tưởng đạo đức Nho giáo cuối thế kỷ XIX, trước hết chúng tôi khảo sát các công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam từ trước đến nay theo các xu hướng sau: Một là, xu hướng nghiên cứu chung, có tính hệ thống thiên về khẳng định các giá trị của Nho giáo. Trần Trọng Kim trước thực tế lúc bấy giờ Nho giáo đang bị phê phán, bị lãng quên, trong cuốn “Nho giáo” cho rằng: “Nho giáo là một ngôi nhà cổ rất đẹp, bị bỏ hoang cần phải tu sửa lại, bởi cái nhà cổ ấy tự nó là một bảo 6 vật vô giá, không lẽ để đổ nát đi, mà không tìm cách giữ lấy di tích” [48; tr.10]. Trong cuốn “Vài ý kiến về ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam”, Đào Duy Anh cho rằng: “Nho giáo đã ảnh hưởng đến ba vị anh hùng dân tộc như Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh” [1, tr.26]. Nguyễn Đức Quỳ cũng khẳng định “Nho giáo đã giải đáp được nhiều vấn đề của dân tộc trong thời kỳ đầu dựng nước” [81; tr.388] v.v….. Các tác giả trong công trình “Đại cương triết học Trung Quốc” do Doãn Chính chủ biên; “Bàn về đạo Nho” của Nguyễn Khắc Viện, cuốn “Nho giáo tại Việt Nam” do Lê Sĩ Thắng chủ biên v.v… khi bàn về vai trò lịch sử của Nho giáo cũng đã đề cập đến vấn đề đạo đức Nho giáo, đánh giá cao vai trò và nghĩa vụ của kẻ sĩ (nhà Nho) đối với xã hội, Nho giáo đã tạo cho kẻ sĩ có một tinh thần trách nhiệm cao với xã hội. Trong tác phẩm Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám của Trần Văn Giàu cho rằng: “Đối với Nho giáo, đạo đức là một khái niệm có nghĩa rộng hơn là đạo đức ta thường nói hàng ngày tức là những nguyên tắc, những quy phạm để đánh giá, nhận định xem đâu là tốt, xấu, đâu là phải, trái, đâu là nên, chăng” [36; tr.20]. Khái niệm đạo đức của Nho giáo còn là sự biểu hiện của “tính”, của “thiên tính”, của “đạo”, nó chẳng những là tính riêng của con người mà cũng là tính chung cho cả trời đất. Nhà Nho và Nho giáo nhìn cái gì cũng nhìn theo con mắt đạo đức, trời, người, lịch sử, không coi trọng tính khách quan của sự vật. Hơn nữa “đạo đức trong Nho giáo lại là phương châm, cách thức chính của việc trị nước…Nho giáo không chú trọng nghiên cứu thiên nhiên. Nho giáo chú trọng con người, đạo đức” [36; tr.21]. Khi khẳng định vấn đề cốt tủy của Nho giáo là trung và hiếu, Trần Văn Giàu đã có một nhận định khái quát như sau: “Sách Nho giáo về đạo đức nhiều hàng chục xe, cô đọng lại chỉ hai chữ luân thường hay cương thường. Tuy luân thường hay cương thường không phải là tất cả đạo đức Nho giáo song luân thường là cốt tủy của Nho giáo, là cái chung nhất của Nho giáo dù là Nho giáo ở Trung Quốc hay Việt Nam, dù là Nho giáo thời Xuân Thu - Chiến Quốc hay Nho giáo Hán Đường, hay Nho giáo Lê Nguyễn…Ngũ luân là quan trọng nhất trong Nho giáo, trung hiếu là quan trọng nhất trong ngũ luân” [36; tr.218-220]. Trong khi phân tích về đạo đức Nho giáo nói chung, đạo đức trung hiếu của Nho 7 giáo nói riêng, Trần Văn Giàu cũng đặt ra và giải quyết vấn đề quan hệ giữa hiếu và trung. Ông chỉ ra rằng: “Sau đạo trung thì đạo hiếu là điều quan trọng đặc biệt của ngũ luân. Lắm khi đạo hiếu được đặt trước cả đạo trung, đạo hiếu được xem là nền của đạo trung” [36; tr.241]. Trần Văn Giàu khẳng định: “Trung hiếu là hai đức tính cơ bản của con người mà luân lý Nho giáo đòi hỏi một cách nghiêm khắc. Đánh giá con người, nhận xét hành vi, tất thảy đều lấy trung hiếu làm tiêu chuẩn” [36; tr.246]. Có thể thấy, trong khi đặt và giải quyết vấn đề đạo đức Nho giáo nói chung, đạo trung hiếu của Nho giáo nói riêng đã được Trần Văn Giàu phân tích và có sự so sánh nhất định giữa các thời kỳ của Nho giáo, sự vận dụng đa dạng của các nhà Nho Việt Nam trong đó có sự thay đổi về đạo trung - hiếu - nghĩa ở một số nhà Nho cuối thế kỷ XIX -một thời kỳ lịch sử đặc biệt có rất nhiều biến động ở nước ta. Vì vậy, “cái chính yếu nhất của Nho giáo là đạo đức. Đạo đức Nho giáo cuối cùng là nhằm phục vụ sự trị nước, trị quốc, bình thiên hạ là cái đích cao của sự thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia. Như vậy mối quan hệ giữa đạo đức và trị đạo là điều dễ thấy trong Nho giáo” [36; tr.112]. Tuy nhiên, do chỉ chiếm một thời lượng nhỏ trong tác phẩm nên đạo đức trung, hiếu trong cuốn sách trên, tác giả mới chỉ đề cập ở những nội dung căn bản mà chưa đi sâu vào chi tiết, đặc biệt là Nho giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Mặc dù vậy, quan điểm và những phân tích trong cuốn sách này của Trần Văn Giàu đã mở ra cho chúng tôi một khả năng khai thác sâu rộng hơn nữa quan niệm về trung - hiếu - nghĩa trên bình diện đạo đức trong Nho giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Hai là, xu hướng khẳng định các chuẩn mực đạo đức của Nho giáo. Đó là, công trình “Nho giáo xưa và nay” do Vũ Khiêu chủ biên đã đánh giá Nho giáo theo các khía cạnh, mức độ ảnh hưởng khác nhau, từ kinh tế, chính trị, đạo đức cho đến việc giáo dục các giá trị truyền thống của dân tộc, v.v. Cũng trong cuốn “Những vấn đề về Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam”, Vũ Khiêu cũng cho rằng, “chúng ta phải tiếp thu những nhân tố tích cực, hợp lý của Nho giáo” [52; tr.20]. Vũ Khiêu trong bài viết “Về giá trị đương đại của Nho giáo ở Việt Nam” đã viết: “Nhiều tiêu chuẩn tối thiểu của đạo đức đã bị coi thường ở một số tầng lớp. Thái độ và hành vi đối xử với cha mẹ, cũng như quan hệ vợ chồng, con cái, anh em đang 8 diễn ra một cách tùy tiện và nhiều lúc rất đáng chê trách. Phải chăng đạo đức Nho giáo có những điều tốt đẹp mà xã hội ta đã không giữ lại?” 51, tr.158. Vũ Khiêu với các cuốn Bàn về văn hiến Việt Nam và Nho giáo xưa và nay đã đưa ra những nhận định rằng nhân tố tạo ra và góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn hoá Việt Nam là ở tinh thần tiếp thu và phát huy những yếu tố tích cực trong Nho giáo của người Việt Nam. Vì vậy, ở vấn đề này, cá nhân nghiên cứu sinh tán thành quan điểm của GS. Vũ Khiêu cho rằng: “Nho giáo từng đóng một vai trò to lớn trong lịch sử Việt Nam và vẫn còn tiếp tục có tác dụng trong xã hội ngày nay. Nếu không đặt vấn đề nghiên cứu Nho giáo một cách nghiêm túc thì chúng ta sẽ buông trôi cho sự phục hồi những nhân tố tiêu cực của Nho giáo đồng thời cũng sẽ lãng phí những nhân tố tích cực mà Nho giáo còn có thể đóng góp vào sự nghiệp của chúng ta hôm nay” [52, tr.152]. Như vậy, về định hướng vấn đề của Vũ Khiêu thống nhất với cách đặt vấn đề của đa số các học giả ở trên và nó đã trở thành mối quan tâm của giới trí thức từ lâu trong lịch sử. Trách nhiệm đặt ra là cần tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống trên tinh thần khoa học, khách quan để đánh giá những đóng góp cũng như hạn chế của Nho giáo để từ đó có thể kế thừa, nâng tầm và vận dụng một cách có ý nghĩa những giá trị của nó trong xã hội hiện đại. Một số công trình đáng chú ý khác là cuốn “Các bài giảng về tư tưởng phương Đông” của Trần Đình Hượu, v.v… đã trình bày khái quát nguồn gốc hình thành, phát triển của Nho giáo, những nội dung tư tưởng cơ bản và sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Các công trình này có điểm chung ở chỗ, công nhận Nho giáo là một học thuyết chính trị, đạo đức mà vận mệnh của nó là góp phần thiết lập và củng cố trật tự của xã hội phong kiến. Phan Đại Doãn với cuốn Một số vấn đề về Nho giáo tại Việt Nam đã phân tích: “Ở Việt Nam, trên nền tảng Đông - Nam Á, gia đình nhỏ lấy vợ chồng làm mặt ngang bằng, bình đẳng là chính, khi tiếp nhận luân lý Nho giáo đương nhiên phải chuyển đổi, đó là quan niệm hiếu gắn liền với nghĩa. Nho giáo Việt Nam cũng bàn luận nhiều về hiếu trung, nhưng tư tưởng trung của Việt Nam không phải là nét chính yếu (như người Nhật)” [15; tr.98]. Theo Phan Đại Doãn: 9 Hiếu vốn là tinh thần, là nội dung của đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam hình thành từ rất xa xưa trong phong tục tín ngưỡng như “thờ cúng tổ tiên”, “trọng lão” nhưng về sau lại được giáo lý Nho giáo khẳng định thêm sâu sắc, chi tiết và thể chế hóa thành luân lý xã hội. Các nhà nước dưới thời Lê - Nguyễn đều lấy hiếu để củng cố gia đình…lấy hiếu làm chuẩn mực cho các giá trị xã hội, làm tiêu chuẩn để rèn luyện nhân cách, lấy hiếu để ràng buộc con người với con người, bề dưới với bề trên và đặc biệt được pháp luật hóa, chính sách hóa” [15; tr.144]. Phan Đại Doãn từ việc nhà nước phong kiến Việt Nam đã pháp luật hoá những quan niệm hiếu nghĩa của Nho giáo để rút ra những nội dung cơ bản của đạo hiếu ở Việt Nam, đồng thời khẳng định: “Hiếu là nhân cách con người, là gốc của nhân luân, là một giá trị xã hội cao quý, là quan hệ đứng dọc trong gia đình và dòng họ, có ý nghĩa quan trọng nhất trong các nguyên tắc ứng xử gia đình. Đạo hiếu thể hiện trước hết ở việc con cháu phải nuôi dưỡng ông bà, cha mẹ . Đây là yêu cầu tối thiểu đối với mỗi thành viên trong gia đình [15; tr.156]. Không những thế, theo Phan Đại Doãn, “hiếu không dừng ở đạo đức, mà xa hơn còn là phạm trù tín ngưỡng, một tín ngưỡng thế tục, hiếu còn là điều luật xã hội mọi người phải tuân thủ” [15; tr.175]. Quan điểm của Phan Đại Doãn như trên khá sâu sắc và mang tính gợi mở cao. Vấn đề các triều đại đều có ý thức sử dụng pháp luật để pháp lý hóa tư tưởng hiếu hay tông pháp hóa gia đình và dòng họ của Nho giáo là một thực tế lịch sử. Sự tông pháp hóa đó ảnh hưởng đến tư duy, hành động và việc hình thành nhân cách con người Việt Nam như thế nào cần có sự luận giải và minh chứng rõ hơn nữa. Trần Nguyên Việt với bài viết: “Đạo hiếu Việt Nam qua cái nhìn lịch đại” đã luận giải khái niệm hiếu, quan điểm hiếu đạo theo tiến trình phát triển lịch sử tư tưởng Việt Nam. Trần Nguyên Việt cho rằng: “Tinh thần trung hiếu thời Trần đã để lại cho các triều đại phong kiến Việt Nam về sau một bài học sâu sắc mà triều đại nào không biết phát huy nó đều gặp phải khó khăn trong việc điều hành đất nước và đặc biệt, không thể thắng được kẻ thù xâm lược” 103; tr.36 và “chủ trương lấy hiếu trị 10 thiên hạ: “lấy trung làm hiếu” (Minh Mệnh chính yếu) đã làm cho đạo hiếu trở thành cái chủ đạo trong lối sống của nhiều gia đình cũng như chuẩn mực đạo đức trong văn hóa ứng xử xã hội mang tính luân lý người Việt. Trên cơ sở đó, Trần Nguyên Việt rút ra một số đặc điểm trong đạo hiếu Việt Nam, đạo hiếu thiên về hoạt động thực tiễn hơn là lập thuyết; đạo hiếu Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều học thuyết triết học, chính trị - đạo đức, tôn giáo và các yếu tố bản địa; thừa nhận đạo hiếu như một lẽ tự nhiên, người Việt Nam chấp nhận và tuân thủ việc luật pháp hóa các hành vi đạo đức, coi những quy phạm đạo hiếu đã được luật pháp hóa ấy như những chuẩn mực đạo đức để điều chỉnh, định hướng hành vi đạo đức của mình; đạo hiếu Việt Nam có thể nhìn theo hai chiều chính, chiều đứng dọc và chiều bằng ngang. Tuy Trần Nguyên Việt đã rút ra những đặc điểm của đạo hiếu Việt Nam nhưng trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu hẹp. Ông chưa có điều kiện để đề cập và khai thác sâu các khía cạnh như, bổn phận, trách nhiệm của người làm con, tính thống nhất và mâu thuẫn giữa hiếu và trung ở từng thời kỳ lịch sử cụ thể... Cho nên, nếu dùng hệ chuẩn của kinh điển Nho giáo để soi dẫn tiến trình biến đổi của đạo đức trung hiếu theo lịch đại có thể đem lại cách đánh giá vừa toàn diện vừa mang tính lịch sử cụ thể. Sự tồn tại, hưng vong và những nội dung cơ bản của Nho giáo và đạo đức Nho giáo đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, ở nhiều quốc gia trên thế giới. Các công trình nghiên cứu về đạo đức Nho giáo trong những năm gần đây tăng nhanh về số lượng. Bản thân Nho giáo với tư cách là học thuyết chính trị, đạo đức, luôn mang trong nó tính đa nghĩa, liên quan chặt chẽ giữa các phạm trù đạo đức, không có sự tách biệt. Nghiên cứu về đạo đức Nho giáo nói chung vì thế cũng không tách rời với việc nghiên cứu các nội dung khác Nho giáo. Trong tính thống nhất tương đối đó, vấn đề đạo đức của Nho giáo nói chung và quan niệm về đạo trung - hiếu - nghĩa của Nho giáo nói riêng đã được khai thác ở những tầng bậc khác nhau. Có thể nói, các công trình nghiên cứu về đạo đức Nho giáo nói chung và đạo đức trung - hiếu - nghĩa của Nho giáo nói riêng đã khai thác vấn đề ở nhiều chiều cạnh khác nhau và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu, góc tiếp cận và nhiều yếu tố khác nên những phân tích, luận giải trên 11 bình diện triết học về vấn đề này còn ít và đôi khi bị che lấp nhiều bởi bình diện lịch sử, văn học. Bên cạnh đó, chưa thấy có công trình chuyên biệt nghiên cứu trên phương diện triết học quan niệm về đạo trung - hiếu - nghĩa của Nho giáo nói chung và của Nho giáo Việt Nam nói riêng một cách hệ thống và chi tiết. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu khái quát về Nho giáo và đạo đức Nho giáo Trung Quốc Nho giáo thời Trung Quốc cổ đại, gắn bó với tên tuổi của người sáng lập là Khổng Tử (551 - 479 TCN) thời Xuân Thu, tiếp theo được Mạnh Tử (372 289 TCN) và Tuân Tử (325 - 238 TCN) - những người đã kế thừa và làm phong phú thêm học thuyết của Khổng Tử để đáp ứng đòi hỏi của xã hội Trung Hoa thời Chiến Quốc. “Đặc điểm của nó là chưa thần bí hóa và chưa khắc nghiệt nhiều, phù hợp với xã hội phong kiến phân quyền thời Xuân Thu - Chiến Quốc ở Trung Quốc” [93; tr.74]. Trải qua một quá trình phát triển lâu dài từ Nho Tiên Tần đến Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh các học thuyết thường được gộp chung vào Nho giáo. Qua đó chúng ta có thể tìm thấy hướng nghiên cứu chung, có tính chất hệ thống, khái quát, thiên về khẳng định các giá trị, chuẩn mực đạo đức của Nho giáo. Một là, một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về tác giả và các tác phẩm Nho giáo. Ở Việt Nam, người giới thiệu các tác giả tiêu biểu của Trung Quốc nhiều nhất là Nguyễn Hiến Lê, với các cuốn “Khổng Tử”, “Mạnh Tử”. Đây là những cuốn sách rất có giá trị đối với việc nghiên cứu thân thế, sự nghiệp của các nhà sáng lập Nho giáo sơ kỳ cũng như những nội dung tư tưởng cơ bản của họ. Nguyễn Hiến Lê ngay trang đầu của cuốn “Khổng Tử” cũng khẳng định: “Muốn đánh giá một triết thuyết thì phải đặt nó vào thời đại của nó, xem nó giải quyết được những vấn đề của thời đại đó không, coi đó là tiến bộ so với các thời trước, một nguồn cảm hứng cho các thời sau không. Và nếu sau mươi thế hệ, người ta thấy nó vẫn còn làm cho đức trí của con người được nâng cao thì phải coi nó là cống hiến to lớn của nhân loại rồi” 60; tr.5. Nguyễn Đăng Thục với tác phẩm “Lịch sử triết học phương Đông” gồm 6 tập, trong đó các tập 1 và 2 đã tập trung trình bày một số nội dung cơ bản về đạo đức Nho giáo. 12 Tác giả Quang Đạm khi bàn về đạo đức Nho giáo, trong “Nho giáo xưa và nay” khẳng định: Khổng Khâu và các đồ đệ trực tiếp hoặc gián tiếp của “Phu Tử” dành công phu nhiều nhất vào sự giảng dạy trau dồi các đức hiếu, nhân và lễ chúng ta sẽ cố gắng một mặt tìm hiểu chung tất cả các đức trên đây…Nếu ta coi đức Nhân là đức lớn tập trung tinh túy của tất cả các đức khác, thì chúng ta có thể kết luận rằng, Khổng giáo coi hiếu đễ là gốc của tất cả mọi đức nói chung…Hiếu đễ không phải chỉ là đức tốt của người làm con làm em mà còn luyện cho con người trở thành hữu đạo, hữu đức trong nước trong thiên hạ nữa [19; tr.130]. Ngoài ra, Quang Đạm cũng đề cập tới các mối quan hệ khác trong gia đình và mối quan hệ quân thần được tác giả đề cập trong phần quan hệ trên dưới. Tuy nhiên, trong mối quan hệ vua tôi, ít thấy tác giả đề cập tới đạo trung mà chủ yếu nói về đường lối cai trị và cách xử thế của vua. Nhà nghiên cứu Quang Đạm đã từ nhiều luận điểm trong Ngũ Kinh, Tứ Thư…và nhiều tài liệu diễn giải của những danh Nho về sau để “nêu lên mấy nguyên lý lớn nhất của đạo hiếu, sự thân và thủ thân gắn liền với nhau; suốt đời thiện kế, thiện thuật; dương danh hiển thân, cách báo hiếu tốt nhất” [19; tr.178]. Điểm đáng lưu ý là trong cách tiếp cận, phân tích, chứng minh của Quang Đạm, tính khách quan được quán triệt khá triệt để cho nên có thể thấy được cả ưu điểm và nhược điểm của đạo đức Nho giáo đối với đời sống đạo đức chung của xã hội. Hai là, một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về tác giả và các tác phẩm trong lịch sử Nho giáo ở Trung Quốc như: Tác giả Vi Chính Thông trong “Nho gia với Trung Quốc ngày nay” cũng góp một cách nhìn về đạo đức Nho giáo nói chung và một số phạm trù đạo đức cụ thể như trung - hiếu - nghĩa nói riêng. Trong tác phẩm ông đã có một chương bàn về “Căn bệnh đạo hiếu”, Vi Chính Thông cho rằng: “Nho gia đã dựa vào hiếu để nói về đạo đức, quả là cách tiếp cận thuận lợi” [95; tr.101]. Theo tác giả, kết quả của việc coi mọi biểu hiện của đạo đức con người đều đã thể hiện ở hiếu, cứ từ hiếu mà suy ra vì vậy đạo hiếu trở thành công cụ duy trì nền chuyên chế chính là xuất phát từ đó. Theo chúng tôi, cách đánh giá này có 13 những điểm hợp lý nhất định nhưng khi đẩy bất cứ một nguyên lý đạo đức nào lên một cách thái quá, kết quả cũng sẽ là siêu hình. Tư tưởng biện chứng đòi hỏi phải xem xét toàn diện cả ưu khuyết điểm của cùng một vấn đề. Vấn đề đặt ra là, có phải trong suốt tiến trình lịch sử Nho giáo, ông cũng đã đưa ra nhiều vấn đề với dẫn chứng minh họa từ kinh điển và khái quát những nội dung chính: Tư tưởng hiếu đạo của Khổng Tử” thành, duy trì trật tự trên dưới; chuẩn mực về đạo đức về đạo hiếu và nhân, đạo hiếu và trung. Trong đó, tác giả cũng khẳng định: “Vì từ sau Tần, Hán, hiếu trung bị lẫn lộn nên đã làm cho tư tưởng hiếu đạo bị méo mó đi nhiều. Những nhân sĩ chống Nho gia thời kỳ đầu dân quốc đã từng cho rằng đó là một trong những luận cứ chứng minh tư tưởng Nho gia có lợi cho nền chuyên chế. Nhưng trong tư tưởng hiếu đạo của Khổng Tử thể hiện trong “Luận ngữ” thì không có hiện tượng lẫn lộn giữa hiếu và trung…Trong ngôn luận của Khổng Tử nói về quan hệ trung hiếu không chỗ nào có ý nghĩa trung quân như người đời sau nói. [95; tr.255]. Đây là nhận định rất quan trọng và có ý nghĩa định hướng đối với việc nghiên cứu đạo trung hiếu khi đạo hiếu ở cuối thế kỷ XIX luôn bị vua Thiệu Trị và Tự Đức đề cao và bị đẩy lên thái quá như vậy! Đây là vấn đề mà luận án cần tiếp tục đi sâu làm rõ. Qua những diễn biến của tư tưởng hiếu đạo từ Khổng - Mạnh tới Tần Hán, Vi Chính Thông cũng phát hiện ra hai vấn đề là: vấn đề lẫn lộn giữa trung và hiếu và vấn đề giữa tình riêng và phép nước. Ông cho rằng: “sự lẫn lộn giữa hiếu và trung rất có thể liên quan tới chế độ cha truyền con nối. Dưới chế độ cha truyền con nối, thế tử và vua cha là quan hệ cha con, nên con phải tận hiếu với cha. Đối với thế tử, tận hiếu cũng là tận trung, giữa hiếu và trung rất khó phân biệt. Chính trị quý tộc là cha truyền con nối, chính thể chuyên chế cũng cha truyền con nối” [95; tr.272]. Đề cập nhiều nội dung liên quan đến hiếu đạo và bước đầu đi vào lý giải nguyên nhân lẫn lộn giữa hiếu và trung song Vi Chính Thông gần như không đề cập tới đạo trung. Chính vì vậy, cần có sự khảo sát kỹ hơn nữa để tìm hiểu xem diễn biến đạo đức trung hiếu của Nho giáo. 14 Nhìn chung, những nhìn nhận và đánh giá của Vi Chính Thông là khá tổng hợp nhưng do nghiên cứu từ góc độ và phương pháp của văn hóa nên tính chất triết học trong tác phẩm còn mờ nhạt. Ông chưa phân tích về cơ sở tồn tại xã hội, cái mà trên đó hiếu đạo nảy sinh. Cho nên, tuy diện mạo của đạo hiếu trong nền văn hóa đã được phác họa song sự biến đổi trong quá trình vận động thì chưa được đề cập. Hơn nữa những tư tưởng của ông nghiên cứu chủ yếu ở thời cổ đại của xã hội Trung Quốc. Vì vậy, chúng tôi chỉ coi đây là một khía cạnh để tham khảo, có thể tiếp tục bổ sung, khai thác và nghiên cứu ở một cấp độ chi tiết hơn. Trần Chí Lương trong tác phẩm: “Đối thoại với tiên triết về văn hoá phương Đông thế kỷ XXI” (đã được dịch ra tiếng Việt). Trong công trình này, với lối viết đối thoại hiện đại, tác giả đã mượn lời của các tiên triết để nói về tư tưởng và ý nghĩa của nó trong thế kỷ XXI. Trần Chí Lương cũng đặt vấn đề “Ý nghĩa hiện đại của trung, trung là trung với nước, trung với dân tộc, trung với sự nghiệp. Trung là công chính vô tư, khiêm chính, cần kiệm xây dựng sự nghiệp. Ở thời hiện đại, trung không những là nguồn gốc sinh ra lòng yêu nước mà còn sinh ra tinh thần quốc tế cao cả để các nước trên thế giới hợp tác, hòa hợp với nhau” [64; tr.171]. Với cách viết theo lối phát vấn, nhiều vấn đề liên quan đến đạo trung của Nho giáo đã được đề cập và giải thích theo tư duy mới. Bàn về trung, tác giả cũng áp dụng phương pháp tương tự để nói về bản chất của trung, các tầng bậc và mức độ trung, bất trung, trung thần… Cách tiếp cận của Trần Chí Lương là cách tiếp cận mới, hiện đại hóa đạo trung hiếu dựa trên kinh điển được hiểu như một sự thông diễn. Các vấn đề về trung hiếu của Nho giáo được đề cập đều được Trần Chí Lương đặt trong sự đa nghĩa để luận bàn. Điều này có cơ sở từ trong bản chất của Nho giáo vì bản thân các đại biểu của nó thường không đưa ra khái niệm hay hệ chuẩn khép kín cho một vấn đề mà tùy hoàn cảnh, trường hợp sẽ có sự giải đáp. Tuy nội dung chính của trung, hiếu trong tác phẩm của Trần Chí Lương dựa vào những lời nói của “tiên triết” song vấn đề để đi sâu vào nội dung này thì cần phải được trở lại tìm hiểu từ trong tài liệu mang tính kinh điển của Nho giáo một cách hệ thống để làm minh chứng cho nội dung chính của trung, hiếu. Trong phần “Hiếu với nguyên tắc nhân luân hiện đại”, Trần Chí Lương khẳng định: 15 “Trung và hiếu là hai phạm trù cực kỳ quan trọng trong văn hóa truyền thống Nho gia và văn hóa truyền thống Trung Quốc, được xem là thể hiện trực tiếp của đạo lý trong trời đất. Trung và hiếu có sự chuyển hóa lẫn nhau, chỉ có thực hiện được đạo hiếu mới có thể thực hiện được đạo trung…Ngày nay, chúng ta tiến hành nhận thức lại trung hiếu phải đứng trên độ cao phát triển của thế kỷ XXI, có sự đánh giá so sánh để có thể hiểu biết và phát huy mới hơn” [64; tr.140]. Trần Chí Lương dẫn lời của Khổng Tử về ba tầng, ba mức độ của hiếu gồm tiểu hiếu, trung hiếu và đại hiếu trong đó: “Kính dưỡng là biết kính trọng nuôi dưỡng cha mẹ gọi là đạt tiểu hiếu. “Bất nhục chi hiếu” là làm người con không để lại điều gì nhục nhã cho cha mẹ gọi là đạt trung hiếu. Đại đạo chi hiếu” là làm người con phải lấy vợ lấy chồng để có nối dõi tông đường và biết thuận ứng đại đạo lý, thuận ứng quy luật khách quan gọi là đại hiếu” [64; tr.142]. Ông cũng đặt vấn đề lý giải ngụ ý trong lời dạy của các tiên triết như Khổng Tử, Mạnh Tử, Vương Dương Minh, Chu Hy… thì đạo hiếu nâng lên thành nguyên tắc cơ bản trong đối xử nhân thế, sẽ khiến cho hành động của con người với sự phát triển xã hội là thống nhất với nhau. Hơn nữa “hiếu còn có thể yêu cầu làm rạng danh tổ nghiệp, lập công danh hiển hách, sao lại nói hiếu cản trở sự tiến lên của xã hội, sao lại nói xã hội bị dẫm chân tại chỗ, bảo thủ được. Bản chất của hiếu là sinh, có nghĩa là luôn làm cho sự nghiệp phát đạt, xã hội sôi động phát triển” [64; tr.153]. Trần Chí Lương còn đặt vấn đề hiếu là nguồn gốc của lòng yêu nước và ý nghĩa của hiếu đối với thế kỷ XXI là nêu ra được phương pháp tư duy mới: “Hiếu đem trời gọi là cha, đem đất gọi là mẹ, xem người và vạn vật là một thể. Đây là một phương thức tư duy mới. Con người đối với cha mẹ như thế nào thì đối với tự nhiên như thế ấy, cùng chung sống với tự nhiên” [64; tr.169] Tác giả Phùng Hữu Lan trong “Lịch sử triết học Trung Quốc” đã dành một chương để bàn về đạo hiếu và khẳng định: “Đạo hiếu có hai mặt, nhục thể và tinh thần. Về mặt nhục thể, đạo hiếu có ba điều, Phải nuôi dưỡng cha mẹ; Phải nghĩ rằng thân thể của mình là do tinh huyết cha mẹ lưu lại nên phải bảo vệ, không được hủy hoại; Phải 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan