LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang từng bước tiến tới hội nhập nền kinh tế thế giới. Để bắt kịp với tiến trình
này thì chúng ta phải liên tục có những cải cách nhằm làm phù hợp và thích nghi với điều kiện và
hoàn cảnh của nền kinh tế thế giới. Trong đó việc thực hiện cải cách về thuế là một vấn đề hết
sức quan trọng, nhằm làm tăng sức cạnh tranh trên các lĩnh vực về thương mại mậu dịch, nguồn
vốn đầu tư từ nước ngoài.
Thuế ra đời và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước và là một
đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại của Nhà nước. Do vậy, thuế là một khoản đóng góp mang
tính bắt buộc, cưỡng chế, pháp lý cao, là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước
Thuế là công cụ quan trọng của nhà nuớc dùng để tạo nguồn thu cho ngân sách, ổn định
kinh tế vĩ mô và đảm bảo công bằng xã hội. để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế Nhà nước
phải luôn luôn quan tâm tới các chính sách kinh tế, trong đó có chính sách thuế. Những năm gần
đây Nhà nước đã và đang thựchiện chiến lược cải cách thuế, nhiều sắc thuế được sửa đổi bổ sung
như: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá
nhân…
Chính sách thuế Việt nam bên cạnh những mặt tích cực còn tồn tại không ít những điểm
bất cập, những điểm còn hạn chế. Do đó chúng ta cần phải nhiên cứu, tìm hiểu cả về những mặt
tích cực và những bất cập, những hạn chế của chính sách thuế để từ đó có hướng hoàn thiện, cải
cách, bổ sung cho phù hợp với nền kinh tế, phát huy vai trò của thuế đối với sự phát triển kinh tếxã hội của đất nước.
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ THUẾ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế
Theo các nhà kinh điển, “Thuế là cái mà Nhà nước thu của dân nhưng không bù lại” và
“thuế cấu thành nên nguồn thu của Chính phủ, nó được lấy ra từ sản phẩm của đất đai và lao
động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy ra từ tư bản hay thu nhập của người chịu thuế”.
Theo nhà kinh tế học Gaston Jeze trong cuốn “Tài chính công4” đã đưa ra một khái niệm
cổ điển nhất và cũng nổi tiếng nhất về thuế. Theo tác giả, “Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền,
có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho Nhà nước thông
qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà nước”. Theo thời gian, khái niệm
cổ điển này đến nay đã được bổ sung, chỉnh sửa và hoàn thiện như sau: “Thuế là một khoản trích
nộp bằng tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho Nhà
nước thông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà nước trong việc thực
hiện các chức năng kinh tế-xã hội của Nhà nước”.
Trên góc độ phân phối thu nhập, người ta đưa ra khái niệm thuế như sau: Thuế là hình
thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành nên
quĩ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước (quỹ ngân sách nhà nước) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu
cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Trên góc độ người nộp thuế thì thuế được định nghĩa như sau: thuế là khoản đóng góp bắt
buộc mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo Luật định để đáp
ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước; người đóng thuế
được hưởng hợp pháp phần thu nhập còn lại.
Trên góc độ kinh tế học, thuế được định nghĩa như sau: thuế là biện pháp đặc biệt, theo
đó, Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu
vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế-xã hội của Nhà nước.
Như vậy, đã có nhiều khái niệm khác nhau về thuế. Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của
thuế, khi nghiên cứu khái niệm về thuế cần chú ý các đặc điểm sau:
- Thứ nhất, thuế là khoản trích nộp bằng tiền: Về nguyên tắc, thuế là một khoản trích nộp dưới
hình thức tiền tệ, điều này trái ngược với các hình thức thanh toán bằng hiện vật đã tồn tại trước
đây. Sự phát triển của quan hệ hàng hoá - tiền tệ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
thuế, đổi lại, nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế được thực hiện bằng tiền lại góp phần thúc đẩy sự
phát triển của kinh tế thị trường.
- Thứ hai, thuế là khoản trích nộp bắt buộc được thực hiện thông qua con đường quyền lực: Dù
được thực hiện dưới hình thức nào, thuế vẫn thể hiện tính chất bắt buộc, được thực hiện thông
qua con đường quyền lực Nhà nước (qua hệ thống pháp luật thuế). Do đó, đối tượng nộp thuế
không có quyền trốn thuế hoặc mong muốn tự mình ấn định hay thoả thuận mức đóng góp của
mình mà chỉ có quyền chấp thuận. Những đối tượng nộp thuế vi phạm luật sẽ bị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hoặc cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật để buộc
họ phải làm tròn nghĩa vụ nộp thuế. Đây là điểm khác biệt giữa thuế với các khoản đóng góp
mang tính chất tự nguyện.
- Thứ ba, thuế là khoản thu có tính chất xác định: Thuế là khoản thu xác định của
các tổ chức thụ hưởng, đó là Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương. Trái ngược với vay,
thuế không được hoàn trả trực tiếp.
- Thứ tư, thuế là một khoản thu không có đối khoản cụ thể, không hoàn trả trực tiếp nhằm đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong việc thực hiện các chức năng quản lý xã hội, chức năng
kinh tế - xã hội của Nhà nước:
Khác với khoản vay, thuế không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế (tuy nhiên, một
phần thuế được hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế thông qua các khoản phúc lợi xã hội, phúc
lợi công cộng). Sự không hoàn trả trực tiếp được thể hiện ở cả trước và sau khi thu thuế. Trước
khi thu thuế, Nhà nước không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ nào cho người nộp thuế. Sau khi
thu thuế, Nhà nước cũng không có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho người nộp thuế. Cũng như vậy,
người nộp thuế không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế với lý do họ sử dụng ít các dịch
vụ công cộng; họ cũng không có quyền đòi hỏi được hưởng nhiều dịch vụ công cộng hơn so với
số thuế họ phải trả vì lý do này hay lý do khác; và họ cũng không thể từ chối nộp thuế với lý do
họ đã phải thanh toán cho các khoản chi trái với nguyên tắc này.
Thuế được thu nhằm đáp ứng mọi nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, thuế không có đối
khoản cụ thể. Điều này thể hiện rõ ở chỗ nguồn thu từ mỗi loại thuế không được quy định gắn với
mục đích chi tiêu cụ thể nào cả mà đều được sử dụng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu chung của Nhà
nước trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Khái niệm “chi tiêu của Nhà nước” ngày nay không thể hiểu theo nghĩa hẹp là chỉ bao
gồm các chi phí liên quan đến chức năng duy trì bộ máy của Nhà nước để thực hiện các chức
năng của Nhà nước, mà còn gồm các chi phí cho việc thực hiện các chức năng kinh tế-xã hội.
Chính vì thế, khi xem xét khái niệm thuế cũng phải hiểu thuế trên hai góc độ: thuế vừa là công cụ
huy động nguồn thu để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và thuế vừa là công cụ giúp Nhà
nước thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội hay công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế.
1.2. Chức năng của thuế
Lịch sử phát triển của thuế đã chứng minh rằng, thuế phải thực hiện được 3 chức năng cơ
bản, đó là: chức năng bảo đảm nguồn thu cho NSNN nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước; chức năng phân phối lại thu nhập và tài sản nhằm đảm bảo công bằng xã hội và chức năng
điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
1.2.1. Chức năng đảm bảo nguồn thu cho NSNN
Mức độ động viên các nguồn thu từ thuế vào ngân sách phần lớn, gắn liền với tổng số chi
tiêu của của nhà nước vì các khoản thu này là nguồn bù đắp chủ yếu cho các khoản chi ngân
sách. Nhưng các khoản thu này cũng không phải là nguồn bù đắp duy nhất mà bên cạnh đó, thâm
hụt ngân sách còn được bù đắp bằng nguồn vay hoặc phát hành tiền tệ. Mức độ động viên thu
ngân sách với tỷ lệ giữa thâm hụt ngân sách trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của mỗi nước
cho thấy mức độ huy động của Nhà nước để bù đắp cho các khoản chi này (tất nhiên kể cả khoản
lãi phải trả khi hoàn trả nợ).
1.2.2. Chức năng phân phối lại nhằm đảm bảo công bằng xã hội
Về nguyên tắc, gánh nặng về thuế phải được phân chia một cách công bằng; thuế phải có
vai trò sửa chữa những khiếm khuyết của sự phân phối lần đầu để đảm bảo sự công bằng và bình
đẳng. Tuy nhiên, sự công bằng chỉ mang tính chất tương đối và tuỳ thuộc vào quan niệm cho rằng
sự phân phối phải công bằng hay không trong việc phân chia quyền sở hữu diễn ra trên thị
trường. Chính vì vậy, đánh thuế luỹ tiến, đối với một số người, có thể được coi như đồng nghĩa
với sự công bằng, với một số người khác, lại bị coi là tuỳ tiện.
1.2.3. Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế hay khắc phục những bất cân bằng của thị
trường
Thuế là một công cụ của chính sách kinh tế có thể đóng vai trò khuyến khích, hạn chế
hoặc ổn định kinh tế. Thuế có thể được sử dụng để khắc phục những bất cân bằng của thị trường,
ví dụ, dựa trên cơ sở các phân tích kinh tế vi mô để quốc tế hoá những tác động nội tại của nền
kinh tế. Thuế cũng có thể góp phần thực hiện các cân bằng tổng thể trong khuôn khổ chính sách
ngân sách dựa trên cơ sở các phân tích kinh tế vĩ mô.
Cách tiếp cận kinh tế vi mô phù hợp với cách nhìn tự do về sự can thiệp của Nhà nước mà
với chức năng trợ cấp ngân sách, Nhà nước có thể xoá bỏ được những vật cản nảy sinh trong kinh
tế thị trường. Cách tiếp cận này đôi khi cũng là trung tâm của các cuộc tranh luận.
Cách tiếp cận kinh tế vĩ mô thuộc quan niệm của Keynes về chính sách kinh tế, thuế là
một biến số mà Nhà nước sử dụng nhằm ổn định tình huống (chính sách tác động trên nhu cầu
tổng thể) hoặc cơ cấu (chính sách thuế nhằm tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng kinh tế). Khả năng
của thuế trong việc thực hiện các mục tiêu hiệu quả kinh tế này đã bị tranh luận khá gay gắt. Tuỳ
theo quan niệm mà người ta thừa nhận vị trí tự do hay can thiệp của thuế mà chức năng này được
đánh giá ưu việt nhiều hay ít.
Tóm lại, để phát huy được vai trò của thuế trong nền kinh tế, phải sử dụng thuế đúng với
chức năng của nó. Tuy nhiên, vai trò của thuế đối với nền kinh tế ở mỗi quốc gia không giống
nhau mà tuỳ thuộc vào “nghệ thuật sử dụng” công cụ thuế của mỗi quốc gia đó. Vấn đề có tính
nguyên tắc là thuế phải luôn luôn phù hợp với mục tiêu, đường lối phát triển kinh tế xã hội và là
công cụ đắc lực cho việc thực hiện đường lối, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc
gia trong từng thời kỳ nhất định. Đó cũng là lý do mà các quốc gia phải thường xuyên rà soát
mức độ phù hợp của hệ thống thuế với chiến lược phát triển kinh tế xã hội cuả mình, thực hiện
các cải cách thuế kịp thời nếu thấy cần thiết.
1.3. Phân loại thuế
Căn cứ theo đặc điểm, công dụng, chức năng và vai trò của từng loại thuế đối với quá
trình phát triển kinh tế, xã hội và tuỳ theo mục tiêu, yêu cầu của quản lý mà người ta có thể đưa
ra các cách phân loại thuế khác nhau, từ đó nhằm sử dụng phát huy vai trò tích cực của từng công
cụ thuế trong quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu.
1.3.1. Phân loại theo tính chất kinh tế
Theo cách này, thuế có thể được phân loại dựa theo 3 tiêu thức chủ yếu: theo các yếu tố kinh tế bị
đánh thuế; theo tác nhân kinh tế chịu thuế hoặc theo lĩnh vực kinh tế bị đánh thuế.
a) Nếu dựa theo yếu tố kinh tế bị đánh thuế, thuế được chia thành thuế đánh vào
thu nhập, thuế đánh vào tiêu dùng (sử dụng thu nhập) và thuế đánh vào tài sản (thu nhập
được tích luỹ).
b) Nếu dựa theo yếu tố và tác nhân kinh tế chịu thuế, có các loại: thuế đánh vào
doanh nghiệp, thuế đánh vào hộ gia đình và thuế đánh vào sản phẩm.
c) Nếu dựa theo lĩnh vực, thuế được phân chia theo các lĩnh vực kinh tế bị đánh
thuế, thí dụ: thuế đánh vào bảo hiểm, thuế đánh vào tiết kiệm, thuế đánh vào bất động
sản...
1.3.2. Phân loại dựa theo tính chất kỹ thuật
Cách phân loại này được dựa vào các tiêu thức kỹ thuật trong việc đánh thuế, mang tính
cổ điển, được sử dụng nhiều nhất và thường là trung tâm của các cuộc tranh luận. Theo cách này,
thuế được phân thành các nhóm chủ yếu sau:
a) Thuế trực thu và thuế gián thu:
Thuế trực thu do người chịu thuế trực tiếp nộp thuế cho Nhà nước. Thuế trựcthu trực tiếp điều
tiết vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế, ví dụ như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu
nhập cá nhân (hiện hành là thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao). Do thuế trực thu trực
tiếp điều tiết vào thu nhập, tài sản của tổ chức và cá nhân, có xem xét đến hoàn cảnh, điều kiện và
khả năng đóng góp của người nộp thuế nên nó rất có tác dụng trong việc điều hoà thu nhập, góp
phần giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa các tầng lớp dân cư. Đây cũng là ưu
điểm nổi bật của thuế trực thu so với thuế gián thu. Tuy nhiên, thuế trực thu lại có hạn chế lớn là
dễ gây phản ứng từ phía người nộp thuế hoặc dễ xảy ra tình trạng trốn, lậu thuế nếu quy định mức
thuế suất cao. Hơn nữa, việc theo dõi, tính toán và thu thuế phức tạp, đặc biệt là thuế thu nhập cá
nhân với diện thu thuế rộng và phân tán. Vì vậy, nếu không có biện pháp quản lý thu thuế hiệu
quả thì dễ dẫn đến hạn chế tác dụng của loại thuế này trong việc tập trung số thu đầy đủ, kịp thời
về cho ngân sách nhà nước.
Thuế gián thu do các nhà sản xuất, thương nhân hoặc người cung cấp dịch vụnộp cho Nhà
nước thông qua việc cộng số thuế này vào giá bán cho người tiêu dùng chịu. Ví dụ như: thuế giá
trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt,...Khác với thuế trực thu, người
nộp thuế chính là người phải chịu thuế, với thuế gián thu, người nộp thuế và người chịu thuế
không đồng nhất. Do điều tiết một cách gián tiếp vào thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá,
dịch vụ thông qua cơ chế giá nên với thuế gián thu, người chịu thuế (người tiêu dùng hàng hoá,
dịch vụ) ít có cảm giác bị Nhà nước đánh thuế. Vì vậy, loại thuế này cũng ít gây ra những phản
ứng từ phía người chịu thuế mỗi khi Chính phủ có chủ trương tăng thuế. Ưu điểm nổi bật của
thuế gián thu là nó có khả năng đáp ứng nguồn thu kịp thời, ổn định cho ngân sách nhà nước. Tuy
nhiên, thuế gián thu cũng có những hạn chế nhất định, đó là: do thuế gián thu được tính trên giá
cả hàng hoá, dịch vụ, không tính tới điều kiện, hoàn cảnh của đối tượng chịu thuế, vì vậy, không
đảm bảo được sự công bằng xã hội, thậm chí còn mang tính luỹ thoái. Có nghĩa là, bất kể người
tiêu dùng là người giàu hay người nghèo, thu nhập cao hay thấp, nếu cùng tiêu dùng một lượng
hàng hoá, dịch vụ như nhau thì cùng phải chịu một mức điều tiết thuế
như nhau. Số thuế này nếu so với thu nhập của người giàu và người nghèo thì rõ ràng chúng
mang tính luỹ thoái, người có thu nhập càng cao thì tỷ lệ giữa thuế gián thu so với tổng thu nhập
càng thấp.
Ngày nay, sự phân biệt giữa hai loại thuế này đôi khi chỉ mang tính chất tương đối vì
ngày càng khó phân biệt ranh giới giữa hai loại thuế, tuy nhiên, vẫn cần thiết phải phân biệt hai
loại thuế này vì trong thực tế, nhiều quốc gia vẫn còn hệ thống tổ chức hành chính dựa trên sự
phân biệt giữa thuế trực thu và thuế gián thu.
b) Thuế tỷ lệ, thuế luỹ tiến:
Theo cách phân loại này, thuế tỷ lệ là loại thuế áp dụng một thuế suất như nhau đối với
mọi đối tượng chịu thuế, còn thuế luỹ tiến là loại thuế áp dụng các thuế suất tăng dần đối với các
nhóm đối tượng chịu thuế hoặc toàn bộ đối tượng chịu thuế. Thông thường, đối với các sắc thuế
tiêu dùng thường áp dụng thuế suất tỷ lệ; đối với các sắc thuế thu nhập, thuế tài sản có thể áp
dụng thuế suất luỹ tiến.
1.4. Vai trò của thuế
1.4.1. Pháp luật thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước nhằm huy động tập chung một phần
của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp nhân
và thể nhân trong xã hội. việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ nộ thuế theo quy định
của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn
thu ngân sách Nhà nước .
Cũng như pháp luật nói chung, pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã
hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất của sự điều chỉnh quan hệ thu – nộp thuế là nhằm tạo
lập quỹ ngân sách Nhà nước.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của nền
kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phậm vị hoạt động mà đòi
hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập chung nguồn tài chính vào
ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng tăng.
Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc
dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay nguồn thu nước ngoài đã giảm
nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển thành có vay có trả. Trước tiên, thuế là một công cụ quan trọng
để góp phần ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài.
1.4.2 Pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nên kinh tế và đời sống
xã hội. Hướng dẫn sản xuất và tiêu dung thông qua sự phân bổ và sử dụng các nguồn lực.
Nó cũng là đòn bẩy kinh tế quan trọng, kích thích hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật thuế còn có vại trò
quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Điều 26 Hiến pháp 1992 ghi nhận: Nhà
nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Là một bộ
phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của
Nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hóa và thực
hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Điều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước trong
điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế về cơ cấu các loại
thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm thuế… Nhà nước chủ động phát huy vai
trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế được thẻ hiện ở chỗ pháp luật thuế
là công cụ tác động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu
dùng của các thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn
chế việc đầu tư, tiêu dùng.
Điều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường.
Thông qua các quy định của pháp luật về thuế thì Nhà nước tác động đến quan hệ tiêu dùng của
xã hội. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch vụ, Nhà nước tăng thuế suất
thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu… đối với việc sản xuất kinh doanh, tiêu dùng các loại
hàng hóa đó.
Để thực hiệ chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích xuất
khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến khích hoặc hạn chế việc
xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập chung ở
biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với các hàng hóa xuất nhập khẩu.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất yếu dẫn
đến tìh trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Đối với những ngành nghề, lĩnh vực
sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có các quy
định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát
triển của các doanh nghiệp.
Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng và xuất khẩu. Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động tích cực trong việc thúc
đẩy sản xuất phát trine trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực của
đất nước trong việc điều chỉnh cung – cầu và cơ cấu kinh tế.
1.4.3. Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế và công bằng xã hội.
Hệ thông pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất tại chung cho các ngành nghề, các
thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về
quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp nhân.
Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các
đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo
sự bình đẳng và công bằng.
Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của pháp luật thuế đới
với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Sự vận động của nền kinh tế thị trường đòi Nhà nước phải sử dụng đồng bộ nhiều công cụ
khác nhau để khắc phục những sự mất cân đối về mặt xã hội trong có có mất cân đối về thu nhập.
Nhà nước sử dụng pháp luật thuế làm công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều
tiết này thể hiện ở chỗ thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước thực hiện việc điều
tiết thu nhập của các đối tượng nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật
thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ thống thuế, về thuế suất… đều có tác động đến thu nhập và
sử dụng thu nhập trong xã hội.
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm pháp luật thuế theo
hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và thuế suất…Tuy vậy, việc thực hiên
xu hướng chung đó không làm triệt tiêu vai trò của pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của
Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Hệ thống thuế Việt Nam hiện nay
(i) Thuế giá trị gia tăng (GTGT),
(ii) Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB)
(iii) Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (XNK),
(iv) Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN),
(v) Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao,
(vi) Thuế sử dụng đất nông nghiệp,
(vii) Thuế nhà đất,
(viii) Thuế chuyển quyền sử dụng đất,
(ix) Thuế tài nguyên.
(x) Thuế môn bài.
(xi) Các loại thuế khác.
PHẦN II: NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ BẤT CẬP CỦA HỆ THỐNG THUẾ VIỆT NAM
2.1. Những mặt tích cực của hệ thống thuế Việt Nam
- Thuế là một nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Chiếm khoảng 60% tổng thu ngân sách
nhà nước hàng năm.
Đến năm 2010 đã ban hành được một hệ thống chính sách thuế đồng bộ có cơ cấu hợp lý
bao quát hầu hết các nguồn thu. Thuế thực sự trở thành công cụ quan trọng của Đảng và Nhà
nước điều tiế vĩ mô nền kinh tế theo hướng khuyến khích đầu tu, khuyến khích xuất khẩu, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế. Quy mô thu ngân sách nhà nước gia đọng 2006-2010 tăng gấp 2 lần so vơi giai đoạn 20012005. Cơ cấu thu ngân sách nhà nước đươc cải thiện theo hướng tích cực đảm bảo tính ổn định,
bền vững, nguồn thu từ sản xuất kinh doanh tỏng nước tăng dần qua các năm và ngày càng chiếm
tỷ trọng cao trong tổng thu ngân sách nhà nước.
Bảng số liệu:
DỰ TOÁN THU CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Đơn vị: tỉ đồng
STT
Chỉ tiêu
Dự toán
Dự toán
Dự toán
năm 2009
năm 2010
năm 2011
Tổng thu cân đối ngân sách
nhà nước
389,900
461,500
595,000
I
Thu nội địa (không kể thu từ
dầu thô)
233,000
294,700
382,000
1
Thu từ khu vực DNNN
72,982
99,632
129,560
2
Thu từ khu vực doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài (không kể dầu
thô)
51,499
57,739
72,865
3
Thu từ khu vực công thương
nghiệp- ngoài quốc doanh
46,597
62,777
80,380
4
Thuế sử dụng đất nông nghiệp
42
31
32
5
Thuế thu nhập cá nhân
14,545
18,460
28,902
6
Lệ phí trước bạ
7,251
9,209
12,397
7
Thu phí xăng dầu
5,371
9,867
11,731
8
Các loại phí, lệ phí
7,324
6,920
8,012
9
Các khoản thu về nhà, đất
24,539
26,977
34,715
a
Thuế nhà đất
b
Thu tiền thuê đất
c
Thu tiền sử dụng đất
d
Thu bán nhà ở thuộc sở hữu nhà
nước
10
952
Thu khác ngân sách
2,166
1,373
1,877
1,137
2,224
21,000
23,000
30,000
710
616
598
2,383
2,670
684
705
736
2,744
11
Thu quỹ đất công ích, hoa lợi
công sản tại xã
II
Thu từ dầu thô
63,700
66,300
69,300
III
Thu cân đối ngân sách từ hoạt
động xuất nhập khẩu
88,200
95,500
138,700
1
Thuế XK, NK, thuế TTĐB hàng
nhập khẩu
56,600
66,500
180,700
2
Thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu
(thu cân đối ngân sách)
31,600
29,000
80,400
Trong đó:
64,600
65,000
100,300
-33,000
-36,000
-42,000
5,000
5,000
5,000
- Số thu
- Số hoàn thuế giá
trị gia tăng
IV Thu viện trợ không hoàn lại
(Nguồn website Bộ Tài chính)
- Đã xây dựng được hệ thống chính sách thuế áp dụng đối với mọi thành phần kinh tế thay thế
các chế độ thu của cơ chế quan liêu bao cấp. Mọi thành phần kinh tế từ tư nhân đến doanh nghiệp
nhà nước đều phải chịu mức thuế suất như nhau. Và hệ thống thuế cũng đã có nhiều loại thuế
khác nhau, bao quát các lĩnh vực khác nhau, bao gồm các loại thuế như đã nêu ở trên.
- Đã xây dựng được một hệ thống bộ máy tổ chức quản lý thuế thống nhất trong cả nước ngày
càng được củng cố và tăng cường về mọi mặt. Hệ thống các cơ quan thuế được tổ chức, quản lý
từ trung ương đến địa phương. Nhà nước đã tổ chức được các điểm, phòng, cục thuế đặt tại các
tỉnh, thành phố trong cả nước, đảm bảo cho việc nộp thuế được dễ dàng, thuận tiện.
- Đội ngũ cán bộ thuế được tăng cường và đào tạo bồi dưỡng, nâng cao kể cả về trình độ chuyên
môn nghiệp vụ và phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp (năm 1990 cán bộ có trình độ từ
trung cáp trở lên chỉ chiếm 36% nhưng đến năm 2004 đã lên tới 94,1%; cán bộ có trình độ đại
học và trên đại học chiếm tỷ lệ từ 10,5% năm 1990 lên đến 34,2% năm 2004)
- Công tác kiểm tra, thanh tra thuế đã được coi trọng, là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của
công tác quản lý thuế.
- Công tác tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế đã được chú trọng từng bước nhằm nâng cao
tính tuân thủ tự giác thực hiện các nghĩa vụ thuế của tổ chức, cá nhân. Người dân đã ngày càng
nâng cao ý thức của mình trong việc nộp thuế.
- Đã ứng dụng công nghệ thông tin vào nhiều khâu quản lý thuế, do đó đã góp phần tích cực vào
việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế.
2.2 Những bất cập của hệ thống thuế Việt Nam
a. Về chính sách thuế:
- Hệ thống thuế Việt Nam chưa bao quát hết mọi nguồn thu trong nền kinh tế. Biểu hiện là việc
thất thu về thuế của Việt Nam rất lớn.
Mặc dù ngành thuế ngày càng có nhiều nỗ lực, nhưng các biện pháp chống thất thu thuế
xem ra chưa hữu hiệu, dường như ngành thuế mới tận thu được với các đơn vị và công dân gương
mẫu trong nghĩa vụ thuế, còn những người cố tình trốn thuế thì không bị chế tài. Tình trạng này
không những thể hiện trong thuế thu nhập cá nhân( đối với người có thu nhập cao) mà còn rất dễ
thấy trong thuế giá trị gia tăng. Rất nhiều doanh nghiệp, khách sạn, cửa hàng …không làm hóa
đơn cho khách hàng, còn khách hàng thì rất nhiều người cũng không có nhu cầu về lấy hóa
đơn( trừ những doanh nghiệp cần có hóa đơn để khấu trừ thuế giá trị gia tăng). Phần lớn khoản
doanh thu không nhỏ đó nhà nước không thu được thuế, cả thuế giá trị gia tăng lẫn thuế thu nhập
doanh nghiệp. Tình trạng đó không những gây tổn hại cho lợi ích của đất nước mà còn tạo ra sự
bất bình đẳng của công dân, vô hình chung tạo thêm sự canh tranh không lành mạnh giữa các
doanh nghiệp.
Thanh tra chính phủ đã có một cuộc điều tra về tổng lượng thất thu của ngành thuế trong
thời gian qua. Thanh tra chính phủ cho biết, sau khi hoàn tất việc thanh tra tại tổng cục thuế, cục
thuế Hà Nội và cục thuế TP HCM đã phát hiện nhiều sai phạm với số tiền hơn 11.000 tỷ đồng.
Thanh tra chính phủ cho rằng, việc bộ tài chính, Tổng cục thuế và một số cục thuế địa
phương ban hành văn bản không đúng quy định của pháp luật về thuế đã dẫn đến thất thu thuế và
ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư và kinh doanh.
Tổng sổ tiền thuế thất thoát do một số văn bản không đúng quy định của pháp luật được
ban hành là 373 tỷ đồng. Trong đó, việc hướng dẫn miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và
thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hoạt động dịch vụ cung cấp suất ăn công nghiệp cho doanh
nghiệp chê xuất không đúng quy định đã làm thất thu 233.4 tỷ đồng. Bộ tài chính có trách nhiệm
ban hành công văn hướng dẫn thời gian bắt đầu ưu đãi, miễn giảm thuế có nội dung trái quy
định. Văn bản này đã tạo điều kiện để công ty SUDICO hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp trái pháp luật với 13.7 tỷ đồng
- Chưa khuyến khích và bảo hộ có chọn lọc.
- Chưa thực sự đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế.
- Chính sách thuế vẫn còn phức tạp, một số sắc thuế còn nhiều mức thuế suất, lồng ghép nhiều
chính sách xã hội, nhiều mức miễn giảm thuế làm hạn chế tính trung lập của thuế.
b. Quản lý thuế:
* Cơ chế quản lý thuế:
- Cơ chế quản lý thuế hiện hành chưa được xây dựng trên cơ sở đề cao tính chủ động, nghĩa vụ,
trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân phải tự tính - tự khai, tự nộp thuế vào Ngân sách nhà nước,
tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Biểu hiện:
+ Một thời gian dài chưa coi trọng việc tuyên truyền giáo dục, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ chất
lượng cao để nâng cao sự hiểu biết, tự giác tuân thủ pháp luật của đối tượng nộp thuế.
+ Làm thay các chức năng thuộc trách nhiệm của người nộp thuế như: tính toán xác định mức
thuế để ra thông báo thuế, xác định mức miễn, giảm thuế….
Hậu quả là giảm nhẹ nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế; Nhiều vi phạm về thuế là do
thiếu hiểu biết gây ra, dẫn đến gánh nặng phải tăng cường công tác quản lý thuế để khắc phục các
sai phạm; lãnh phí nguồn nhân lực, tài chính cho cơ quan thuế, cơ quan thuế kkhông đủ nhân lực
và tài chính để thực hiện các chức năng chủ yếu của mình như: tăng cung các hoạt động hỗ trợ,
tăng cường thanh tra, kiểm tra.
- Nghĩa vụ trách nhiệm pháp luật và quyền lợi của đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế và tổ chức,
cá nhân có liên quan đến công tác thuế chưa được quy định đầy đủ và thiếu nhất quán giữa các
sắc thuế. Do đó chưa có đủ cơ sở pháp lý để tổ chức quản lý thuế có hiệu quả.
- Một số quy định còn rườm rà phức tạp, chưa rõ ràng, minh bạch, gây khó khăn tốn kém chi phí
cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế, dễ phát sinh tiêu cực trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế.
- Chưa phù hợp với các chuẩn mực quản lý thuế tiên tiến trên khu vực và thế giới.
* Môi trường pháp lý:
- Môi trường pháp lý kinh tế xã hội chưa được cải cách đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho công
tác quản lý thuế như quản lý đăng ký kinh doanh, quản lý đất đai, quản lý xuất nhập khẩu, quản
lý xuất nhập cảnh, quản lý thanh toán bằng tiền mặt….
- Nhận thức xã hội về thuế còn thấp, đại bộ phận người dân chưa hiểu rõ bản chất và lợi ích của
công tác thuê; chưa phê phán, lên án mạnh mẽ các hành vi gian lận về tiền thuế, chưa hỗ trợ tích
cực cho cơ quan thuế để thu tiền thuế. Tình trạng trốn thuế, gian lận về thuế, nợ đọng thuế còn
khá phổ biến vừa làm thất thu cho ngân sách, vừa không đảm bảo công bằng xã hội.
Những tồn tại và hạn chế trên đòi hỏi nhà nước nói chung và ngành thuế nói riêng phải tiếp tục
đổi mới, cải cách hệ thống thuế mới thực hiện thắng lợi chiến lược cải cách hệ thống thuế đến
năm 2010 theo Quyết định số 201/2004/QĐ-TTg ngày 6/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ.
* Hệ thống thuế đang còn nhiều yếu kém và tiêu cực
Thủ tục thuế rườm rà, giấy tờ còn gây nhiều phiền hà cho người nộp thuế.
Bộ máy quản lý nhà nước về thuê còn nhiều yếu kém, dẫn đến sai phạm trong thu thuế và thất thu
cho ngân sách nhà nước như đã nói ở trên.
Xảy tiêu cực trong một bộ phận cán bộ thuế, làm ảnh hưởng đến ngành thuê
PHẦN III: NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ BẤT CẬP Ở MỘT SỐ LOẠI THUẾ CỤ THỂ Ở
VIỆT NAM
3.1. THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU
Khái niêm thuế xuất nhập khẩu
Thuế xuất, nhập khẩu là loại thuế gián thu đánh vào các hàng hóa xuất, nhập khẩu qua
biên giới cửa khẩu Việt Nam kể cả hàng từ thị trường Việt Nam vào phi thuế quan và từ khu phi
thuế quan ra thị trường Việt Nam theo quy định.
3.1.1 Những ưu điểm của thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay:
Chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành hiện nay đã có nhiều thay đổi
căn bản và hoàn thiện hơn trước đây. Cụ thể:
+ Biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành được xây dựng trên cơ sở danh mục
điều hoà (HS) 1996 của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới, đã bước đầu tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phân loại hàng hoá dựa trên cấu tạo, đặc điểm của hàng hoá...góp phần
làm cho chính sách thuế xuất nhập khẩu dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế.
+ Thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được thiết kế hợp lý hơn. Hiện nay
đối với phần lớn hàng xuất khẩu có thuế suất 0%, trừ một số hàng như dầu thô, một số
loại quặng và song mây.
Thuế nhập khẩu được quy định có 3 mức là thuế suất ưu đãi, thuế suất thông
thường và thuế suất ưu đãi đặc biệt để áp dụng trong những trường hợp khác nhau tuỳ
thuộc vào mức độ quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước, tạo thuận lợi trong
đàm phán về thuế, phù hợp với các quy định quốc tế mà nước ta cam kết thực hiện.
Theo tài liệu của Bộ Thương mại, hiện nay Việt Nam đã có thoả thuận về đối xử ưu
đãi đặc biệt trong quan hệ thương mại với một số nước trong khu vực như: Brunei,
Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philipines, Singapore, Tháilan. Nước ta đã có thoả
thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với 66 nước trên thế giới.
+ Mức thuế nhập khẩu tối đa có xu hướng giảm ,nhất là khi việt nam là thành viên
của tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Số lượng mức thuế được giảm từ 25 xuống còn
18 mức, mức độ phân tán giữa các mức thuế giảm dần. Ngoài việc giảm số lượng các mặt
hàng chịu sự quản lý giá tối thiểu của Nhà nước xuống còn 13 mặt hàng, Nhà nước còn
quy định bỏ áp dụng giá tối thiểu đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Bảng 1: mức thuế cam kết bình quân theo nhóm ngành hàng chính
Nhìn vào biểu thuế có thể thấy, sau khi cam kết thì mức thuế bình quân giảm
xuống 22,8% so với mức thuế bình quân hiện hành (thuế suất MFN)
Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết khi gia nhập WTO sẽ làm ảnh hưởng trực
tiếp tới nguồn thu ngân sách nhà nước. Tuy nhiên thực hiện cam kết này về trung và dài
hạn sẽ không có nhiều khả năng gây tác động tiêu cực cho nguồn thu ngân sách. Thuế
nhập khẩu giảm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng quy mô, tạo điều
kiện giao lưu buôn bán với các nước, phù hợp với một nước đang phát triển như Việt
Nam.
Tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới, nước ta đứng trước những cơ hội lớn
như sau:
Một là: Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế
nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo các Nghị định thư
gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử. Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở
rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai - với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế
nước ta - mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở
lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là đặc
biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi
trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không
những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư
nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát
triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước ngoài có
vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày càng nổi trội: năm 2006, đầu tư
nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5%
GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
Ba là: Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc
hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự
kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh
nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu tranh còn tuỳ thuộc vào thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp
lực lượng và năng lực quản lý điều hành của ta.
Bốn là: Mặc dầu chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế kinh tế ở trong
nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc gia nhập WTO, hội nhập
vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải
cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc gia nhập
WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả
đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển.
+ Công tác quản lý thực thi chính sách thuế xuất nhập khẩu được hoàn thiện
hơn . Quy trình thu thuế xuất nhập khẩu ban hành có hiệu lực từ 01.01.1999. Theo quy
trình này, các thủ tục hải quan được thực hiện cũng nhanh chóng hơn, công khai, đảm bảo
thông thoáng, nhanh chóng và thuận tiện tạo điều kiện tốt cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Do hệ thống chính sách, cơ chế quản lý trong lĩnh vực xuất nhập khẩu được cải tiến
theo hướng này càng đơn giản, thông thoáng hơn đã có tác dụng tích cực thúc đẩy sản
xuất xuất khẩu tăng nhanh và hướng nhập khẩu phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống.
Trong thời gian qua kim nghạch xuất nhập khẩu ngày càng tăng.
Tổng kim nghạch xuất nhập khẩu của Việt Nam thời gian qua
Nguồn: Thống kê hải quan-Tổng cục hải quan.
Thị truờng xuất khẩu của nước ta được mở rộng và ngày càng tăng so với trước đây.
Nhiều thị trường xuất nhập khẩu đã được mở ra như thị trường Liên minh Châu Âu(EU),
Nhật Bản, Hồng Kông, Trung quốc, Australia, Trung cận đông, Châu Phi và các nước
Đông Nam Á.
Theo số liệu năm 2011, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 171 quốc gia thuộc tất
cả các châu lục, trong đó có 10 quốc gia là bạn hàng lớn nhất chiếm trên dưới 75% tổng
kim nghạch xuất khẩu, nhập khẩu. Hàng Việt Nam đã từng bước thâm nhập thị trường
Mỹ, hiện nay ta đang khôi phục lại thị trường truyền thống đối với các nước thuộc Liên
Xô cũ và Đông Âu...
Có thể nói rằng chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã có tác động tích cực
trong việc quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao
hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu, góp phần phát triển, bảo vệ sản xuất trong nước,
hưóng dẫn tiêu dùng và tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Trong giai đoạn 2001 - 2005, ngành hải quan luôn đạt và vượt chỉ tiêu thu ngân sách, góp phần
vào việc hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách của Bộ Tài chính.
-
Số thu năm sau luôn cao hơn số thu năm trước, cụ thể:
Đơn vị: tỉ đồng
Chỉ tiêu
Số thực thu
Năm 2001
29.381
Năm 2002
36.784
Năm 2003
39.178
Năm 2004
46.017
Năm 2005
52.000
Năm 2006
58.000
Năm 2006 đạt khoảng 58.000 tỷ đồng (tốc độ tăng thu bình quân hàng năm 15%).
Đây là một nỗ lực rất lớn của ngành hải quan trong bối cảnh chúng ta đang thực hiện cắt
giảm thuế quan theo các cam kết quốc tế (như cắt giảm thuế theo lộ trình thực hiện CEPT trong
ASEAN, các hiệp định song phương và gia nhập WTO). Đặc biệt, đây là giai đoạn đầu thực hiện
xác định trị giá hải quan theo các nguyên tắc của Hiệp định trị giá GATT, tình trạng trốn thuế,
gian lận qua giá còn khá phổ biến, nhưng ngành đã tập trung chỉ đạo và đưa ra nhiều giải pháp
nhằm đảm bảo nhiệm vụ thu thuế đồng thời chống thất thu qua gian lận trị giá.
3.1.2. Những bất cập của thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam
Mặc dù đã có những nỗ lực đáng kể gần đây nhằm hợp lý hoá cơ cấu thuế quan,
nhưng cơ cấu thuế xuất nhập khẩu vẫn còn có nhiều hạn chế:
Một là, thuế suất thuế xuất khẩu áp dụng theo biểu thuế, trong đó, các dòng hàng chủ yếu áp
dụng mức thuế suất 0%, một số nguyên liệu chưa qua chế biến mà Nhà nước không khuyến khích
xuất khẩu thì áp dụng mức thuế suất thuế xuất khẩu ngoài mức thuế suất 0%.
Trong điều kiện Việt Nam thời gian qua, việc duy trì các mức thuế suất thuế xuất khẩu
ngoài mức 0% là hoàn toàn cần thiết, vừa tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước (NSNN), đồng
thời góp phần quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước để phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, khuyến khích hoạt động xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế
biến nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu và rộng, đặc biệt khi đã là thành
viên chính thức của WTO, các quy định về trợ cấp xuất khẩu vi phạm nguyên tắc của WTO
phải bãi bỏ thì việc duy trì hàng rào thuế xuất khẩu sẽ không đưa lại nguồn thu bao nhiêu
cho NSNN, mà lại không khuyến khích hoạt động xuất khẩu. Thông lệ các nước thường
không đánh thuế xuất khẩu, chỉ đánh thuế nhập khẩu. Vì vậy, quy định này chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế.
- Xem thêm -