Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Những điểm sáng tạo của đảng trong chiến dịch điện biên phủ vận dụng thực tiễn...

Tài liệu Những điểm sáng tạo của đảng trong chiến dịch điện biên phủ vận dụng thực tiễn bảo vệ chủ quyền hiện nay

.DOCX
24
1
100

Mô tả:

Mục lục Mở đầu 1 1, Lý do chọn đề tài 1 2, Đối tượng nghiên cứu 1 3, Phạm vi nghiên cứu 1 4, Phương pháp nghiên cứu 1 5, Kết cấu của đề tài 2 NỘI DUNG 2 Chương I: Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân (1945-1954) 2 1.1 Hoàn cảnh lịch sử 2 1.2 Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân 3 Chương II: Chiến dịch Điện Biên phủ và những điểm sáng tạo mới chiến dịch điện biên phủ 7 2.1 Chiến dịch Điện Biên Phủ 7 2.2 Những điểm mới trong chiến dịch Điện Biên Phủ Chương III: Vận dụng bảo vệ chủ quyền nước ta hiện nay 10 14 KẾT LUẬN 16 Tài liệu tham khảo 17 1 Mở đầu 1, Lý do chọn đề tài Biển Đông vốn là vùng kinh tế biển trọng điểm và chiến lược của khối các nước Đông Nam Á. Chính vì thế nó luôn là một điểm nóng của việc tranh chấp địa giới, lãnh thổ. Trong những năm vừa qua trên biển đông đã nổ ra rất nhiều cuộc tranh chấp đảo giữa các quốc gia đặc biệt là tranh chấp quần đảo Hoàng Sa giữa Việt nam và Trung Quốc hay 9 đảo đá trong quần đảo Trường Sa giữa Phlippins và Việt Nam. Vì vậy, việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc không chỉ thể hiện tư duy của Đảng ta trong các nghị quyết đại hội mà còn trở thành một trong những nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lâu dài đối với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Nhân dân ta vừa được hưởng độc lập, tự do ít ngày thì các thế lực đế quốc tràn vào nước ta, nhằm lật đổ chính quyền cách mạng, xây dựng chính quyền bù nhìn, đưa nước ta trở lại chế độ thuộc địa trước đây. Đáp ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc đã nhất tề đứng lên bảo vệ thành quả cách mạng với tất cả các điều kiện có trong tay. Với quyết tâm chiếm nước ta một lần nữa, thực dân Pháp đã dùng những thủ đoạn, âm mưu thâm độc: "Dùng người Việt trị người Việt", "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến: Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính. Điển hình là trận chiến Điện Biên Phủ là một trong những trận chiến oanh liệt nhất của nhân dân ta chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp. Sau 9 năm kháng chiến chống Pháp, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đánh bại các thế lực xâm lược, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, từ đó tạo cơ sở cho miền Bắc đi lên xây dựng CNXH, trở thành căn cứ địa cho cả nước, chi viện sức người, sức của cho việc giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc sau này. Cuộc kháng chiến Điện Biên Phủ do Đảng lãnh đạo có nhiều điểm mới nổi bật đã giúp đánh đuổi thực dân Pháp(Lê Thị Hương Giang, 2018). Vì thế, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã góp phần to lớn tạo ra sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù và từ đó rút ra bài học để bảo về chủ quyền quốc gia hiện nay đặc biệt là vấn đề Biển Đông giữa ta và người anh em láng giềng Trung Quốc. Vì vậy, nghiên cứu lịch sử Đảng giai đoạn kháng chiến 2 chống Pháp (1945-1954) và sự sáng tạo của Đảng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta không thể không nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn này. Từ cơ sở nhận thức ý nghĩa khoa học và thực tiễn nêu trên, tôi đã chọn đề tài "Những điểm sáng tạo của Đảng trong chỉ đạo chiến dịch Điện Biên Phủ - Vận dụng thực tiễn bảo về chủ quyền quốc gia hiện nay” 2, Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng và những điểm mới trong chiến dịch Điện Biên Phủ 3, Phạm vi nghiên cứu Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 -1952) , chiến dịch Điện Biên Phủ 4, Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu lịch sử 5, Kết cấu của đề tài Gồm 3 chương: Chương 1: Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân (1945-1954) Chương 2: Chiến dịch Điện Biên phủ và những điểm sáng tạo mới chiến dịch điện biên phủ Chương 3:Vận dụng bảo về chủ quyền nước ta hiện nay NỘI DUNG Chương I: Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân (1945-1954) 1.1 Hoàn cảnh lịch sử Tháng 11-1946, Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội. Trung ương Đảng đã chỉ đạo tìm cách lien lạc với phía Pháp để giải quyết bằng biện pháp đàm phán, thương lượng . 3 Trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, để cho chúng kiểm soát an ninh ở Thủ đô, ngày 19-12-1946, Ban Thường Vụ Trung ương Đảng đã họpHội nghị mở rộng ở làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị cử đi phái viên đi gặp phía Pháp để đàm phán, song không có kết quả. Hội nghị cho rằng hành động của Pháp chứng tỏ chúng cố ý muốn cướp nước ta một lần nữa. Khả năng hòa hoãn không còn. Hòa hoãn nữa sẽ dẫn đến họa mất nước. Trong thời điểm lịch sử phải giải quyết ngay, Hội nghị quyết định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đã hoạt động nổ sung. Rạng sang ngày 20-12-1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh được phát đi trên Đài Tiếng nói Việt Nam. (GT Học Phần Lịch Sử Đảng Cộng Sản VN (C) Tr Đầu- Tr62.Pdf, n.d.; loigiaihay, 2014) Thuận lợi của nhân dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là ta chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc và đánh địch trên đất nước mình nên có chính nghĩa, có “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Ta cũng có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt nên lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng có nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, quân sự ở trong nước và tại Đông Dương không dễ gì khắc phục được ngay. Khó khăn của ta là tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn phía, chưa nhận được nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân, đã chiếm được hai nước Campuchia, Lào và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở miền Bắc. Những đặc điểm của sự khởi đầu và các thuận lợi, khó khăn đó là cơ sở để Đảng xác định đường lối cho cuộc kháng chiến. 1.2 Quá trình hính thành và nội dung đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân 4 Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành, bổ sung, hoàn chỉnh qua thực tiễn. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, trong Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc, Đảng đã nhận định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Trong quá trình chỉ đạo kháng chiến ở Nam Bộ, Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. Ngày 19-10-1946, Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất do Tổng bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định “không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”, Hội nghị đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ (5-111946), Hồ Chí Minh đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng. Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện tập trung trong ba văn kiện lớn được soạn thảo và công bố ngay trước và sau cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là văn kiện Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng (12-12-1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh. Nội dung đường lối Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, “Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất và độc lập”. Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó là tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài”. Là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới. Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. 5 Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài. Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa , ngoại giao. Trong đó : Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, là “Triệt để dung du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài... Vừa đánh vừa võ trang them; vừa đánh vừa đào tạo them cán bộ”. Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kháng chiến tự cung tự túc, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng. Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng. Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sang đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập. Kháng chiến lâu dài (trường kỳ): Là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch. Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây bốn phía, chưa nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được ỷ lại. Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi. 6 Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa thừa kế được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng tới từng bước thắng lợi. Tháng 1-1948, Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng đã đề ra nhiệm vụ và biện pháp về quân sự, chính trị, văn hóa nhằm thúc đẩy cuộc kháng chiến, phát động phong trào thi đua yêu nước xây dựng hậu phương vững mạnh về mọi mặt. Tháng 1-1950, Hội nghị và toàn quốc của Đảng chủ trương gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuyển mạnh sang tổng phản công… Về đường lối xây dựng chế độ dân chủ nhân dân: Đến đầu năm 1951, tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều chuyển biến mơi. Nước ta được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến nhân dân ba nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng. Song tận dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Điều kiện lịch sử đó đã đặt ra yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi. Tính chất xã hội:”Xã hội Việt Nam hiện nay gồm có ba tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau. Nhưng mẫu thuẫn chủ yếu là mâu thuấn giữa tính chất dân chủ và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và bọn can thiệp. Đối tượng cách mạng: Cách mạng Việt Nam có hai đối tượng: đối tượng chính hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ; đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản động. Nhiệm vụ cách mạng: “Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam hiện nay là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thực sự cho dân tộc, xóa 7 bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc. Cho nên lúc này phải tập trung lực lượng vào việc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược”. Động lực của cách mạng Gồm “ Công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc ; ngoài ra là những dịa chủ yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tàng lớp và phần tử đó họp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và lao động trí thức Đặc điểm cách mạng: “ giải quyest nhiệm vụ cơ bản nói tên do nhân dân làm động lực, công nong và lao động trí thức làm nền tảng và giai cấp công nhân lãnh đạo, cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dan tộc nhân dân. Cách mạng đó không phải là cách mạng dân chủ tư sản lối cũ cũng không phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa mà là một thứ cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến tới chủ nghĩa xã hội. Triển vọng của cách mạng : “ Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhân dân Việt Nam nhát định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng: “Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân”. Đảng Lao động Việt Nam là Đảng giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số và thiểu số ở Việt Nam”. Chính sách của Đảng : Có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi. Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hòa bình và dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân trên thế giới, của Trung Quốc, Liên Xô, thực hiện đoạn kết Việt – Trung – Xô và đoàn kết Việt – Miên – Lào. 8 Đường lối, chính sách của Đại hội đã được bổ sung, phát triển qua các hội nghị Trung ương tiếp theo. Tại hội nghị Trung ương lần thứ nhất (3-1951), Đảng đã phân tích tình hình quốc tế và trong nước, nhấn mạnh chủ trương phải tang cường đẩy mạnh hơn nữa công tác chỉ đạo chiến tranh, “ củng cố và gia cường quân đội chủ lực, củng cố bộ đội địa phương và dân quân du kích”; “gia cường kinh tế tài chính”, “thực hiện việc khuyến khích, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và gọi vốn của tư nhân để phát triển công thương nghiệp”, “Tích cực tham gia phong trào bảo vệ hòa bình thế giới”, “củng cố Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ hai (họp từ ngày 27-9 đến ngày 5-101951) đã nêu lên chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên cơ sở thực hiện tốt ba nhiệm vụ lớn đó là “ra sức tiêu diệt sinh lực của địch, tiến tới giành ưu thế quân sự”; ”ra sức phá âm mưu thâm độc của địch: lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dung người Việt đánh người Việt”, đẩy mạnh kháng chiến ở vùng bị tạm chiếm, “củng cố và phát triển sức kháng chiến của toàn quốc, toàn dân, củng cố và phát triển đoàn kết”. Tại hội nghị trung ương lần thứ tư (tháng 1-1953), vấn để cách mạng ruộng đất được Đảng tập trung nghiên cứu, kiểm điểm và đề ra chủ trương triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Hội nghị cho rằng : muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân. Đến Hội nghị Trung ương lần thứ năm (tháng 11-1953), Đảng phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến. “Cải cách ruộng đất để đảm bảo cho kháng chiến thắng lợi”. “Cải cách ruộng đất là chính sách chung của cả nước, nhưng làm từng bước tùy điều kiện mà nơi thì làm trước nơi làm sau”. Hội nghị khẳng định: “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông dân, một cuộc giai cấp đấu tranh ở nông thôn, rất rộng lớn, gay go và phức tạp. Cho nên chuẩn bị phải thật đầy đủ, kế hoạch phải thật rõ rang, lãnh đạo chặt chẽ”. Đường lối hoàn thành giải phóng dân tộc, phất triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên xã hội chủ nghĩa của Đảng được thực hiện trên thực tế trong giai đoạn 19519 1954.(GS, TS. Lưu Văn Sùng, 2014; GS.Văn Tạo, 2021; GT Học Phần Lịch Sử Đảng Cộng Sản VN (C) Tr Đầu- Tr62.Pdf, n.d.; Thông tấn xã Việt Nam, 2021; TS. Bùi Thế Đức, 2021) Chương II: Chiến dịch Điện Biên phủ và những điểm sáng tạo mới chiến dịch điện biên phủ 2.1 Chiến dịch Điện Biên Phủ Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ở phía tây vùng rừng núi Tây Bắc, gần biên giới Lào - Việt, nằm trên ngã ba nhiều đường lớn và đường nhỏ quan trọng. Đối với đế quốc Pháp - Mỹ, Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc, có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân rất lợi hại trong âm mưu xâm lược của chúng ở vùng Đông Nam châu Á. Thấy rõ vị trí quan trọng đó của Điện Biên Phủ, ngày 20-11-1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Lực lượng của địch ở Điện Biên Phủ gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội xe vận tải có khoảng 200 chiếc và phi đội không quân thường trực có 14 chiếc. Tổng số binh lực là 16.200 tên. Chúng bố trí thành tập đoàn cứ điểm gồm 40 cứ điểm, tổ chức thành 8 cụm, mỗi cụm cứ điểm là một hệ thống hoả lực nhiều tầng. Tám cụm cứ điểm họp thành ba phân khu, 80% lực lượng không quân ở Đông Dương và nhiều loại vũ khí hiện đại khác của Pháp và Mỹ đã được đưa vào tác chiến ở Điện Biên Phủ. Với số quân đông, hoả lực mạnh, công sự vững chắc, các tướng tá Pháp và Mỹ xác nhận đây là "một tập đoàn cứ điểm đáng sợ", "một pháo đài bất khả xâm phạm". Xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ hòng thực hiện ý đồ thu hút chủ lực ta lên đó để tiêu diệt, rồi chuyển sang tiến công ta. Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị Trung ương Đảng tiêu diệt toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, công việc chuẩn bị cho chiến dịch được ráo riết tiến hành từ cuối năm 1953. 10 Chủ tịch Hồ Chí Minh Chỉ thị: "Chiến dịch này là một chiến dịch quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được". Trung ương Đảng quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do đồng chí Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, trực tiếp làm Bí thư Đảng uỷ và Chỉ huy trưởng mặt trận. Chính phủ quyết định tổ chức Hội đồng cung cấp Mặt trận Trung ương do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch và Hội đồng cung cấp Mặt trận các cấp. Với khẩu hiệu "Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng”, nhân dân ta đã dồn hết sức người, sức của cho chiến dịch. Đầu tháng 3-1954, công tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch đã hoàn thành. Ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng mở đợt tiến công thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau 5 ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt nhanh gọn hai cứ điểm kiên cố bậc nhất của địch (Him Lam và Độc Lập), sau đó, làm tan rã thêm một tiểu đoàn địch và tiêu diệt cứ điểm Bản Kéo. Ta diệt và bắt sống 2.000 tên địch, bắn rơi 12 máy bay, mở thông cửa vào trung tâm tập đoàn cứ điểm, uy hiếp sân bay Mường Thanh, giáng một đòn choáng váng vào tinh thần binh lính địch. Trong đợt tiến công mở đầu này, Phan Đình Giót đã nêu gương chiến đấu dũng cảm, lấy thân mình lấp lỗ châu mai tạo điều kiện cho toàn đơn vị tiến lên tiêu diệt địch. Ngày 16-3-1954, địch cho 3 tiểu đoàn nhảy dù xuống tăng viện cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngày 30-3-1954, ta mở đợt tiến công thứ hai đánh đồng loạt các ngọn đồi phía đông của phân khu trung tâm. Đánh vào khu đông, ta tiêu diệt 2.500 tên địch, chiếm lĩnh phần lớn các điểm cao quan trọng ở phía đông, củng cố từ trên đánh xuống, tạo thêm điều kiện chia cắt, bao vây, khống chế địch, chuyển sang tổng công kích tiêu diệt địch. Để tăng cường cho Điện Biên Phủ, thực dân Pháp đã tập trung hầu hết máy bay chiến đấu, máy bay vận tải ở Đông Dương cho mặt trận. Đế quốc Mỹ tăng viện gấp 11 cho Pháp 100 máy bay oanh tạc chiến đấu, 50 máy bay vận tải và cho Pháp mượn 29 máy bay C119 có cả người lái; lập cầu hàng không chở dù từ Nhật và Mỹ sang mật trận Điện Biên Phủ. Đế quốc Mỹ còn đưa 2 tàu sân bay vào vịnh Bắc Bộ diễn tập "đổ bộ ào ạt vào Đông Dương". Về phía ta, qua hai đợt chiến đấu, lực lượng không ngừng được củng cố. Bộ đội ta đã có những cố gắng phi thường, chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công rực rỡ. Tuy vậy, do cuộc chiến đấu liên tục, kéo dài và ác liệt, khó khăn về cung cấp tiếp tế cũng tăng thêm nên đã phát sinh tư tưởng tiêu cực, ngại thương vong, mệt mỏi. Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, một đợt sinh hoạt chính trị được tiến hành sâu rộng từ các cấp uỷ đến chi bộ, từ cán bộ đến chiến sĩ trong tất cả các đơn vị trên toàn mặt trận. Tư tưởng hữu khuynh tiêu cực bị phê phán sâu sắc tinh thần triệt để cách mạng, tinh thần quyết chiến, quyết thắng được phát huy mạnh mẽ. Ngày 1-5-1954, ta mở đợt tiến công thứ ba. Quân ta lần lượt đánh chiếm những cứ điểm còn lại ở phía đông và phía tây, bẻ gãy những cuộc phản kích của địch. Ngày 4-5-1954, địch thả tiểu đoàn dù dự bị cuối cùng xuống Điện Biên Phủ. Ngày 7-5-1954, bộ đội ta phất cao cờ chiến thắng, tiến thẳng vào sở chỉ huy địch, tướng Đờ Cáttơri (De Castries) và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống. Sau 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng anh dũng, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ta tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, gồm 21 tiểu đoàn, trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh cơ động chiến lược, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 353 sĩ quan từ thiếu uý đến thiếu tá, 16 trung tá và đại tá, 1 thiếu tướng. Tổng cộng, số lượng địch bị tiêu diệt và bắt sống tại Điện Biên Phủ bằng 4% quân số địch ở Đông Dương, 20% lính Âu - Phi. Ta hy sinh 4.200 đồng chí, mất tích 792 đồng chí, bị thương 9.118 đồng chí. Ta thu được 28 khẩu pháo, 5.915 khẩu súng lớn nhỏ, 3 xe tăng, 64 ô tô, 43 tấn dụng cụ thông tin, 20 tấn thuốc quân y, 40 tấn đồ hộp, 40.000 lít xăng dầu, bắn rơi 62 máy bay các loại. 12 Tại các chiến trường phối hợp trong toàn quốc, ta tiêu diệt 126.070 tên địch. (GVHD. Đặng Thị Minh Phượng, 2018; NXB Chính trị Quốc gia, 2008; Thông tấn xã Việt Nam, 2021; Th.s Đinh Thị Thu Hoài, 2015; TS. Bùi Thế Đức, 2021) 2.2 Những điểm mới trong chiến dịch Điện Biên Phủ Sau thất bại liên tiếp của các hình thức phòng ngự trước đó – hê ̣ thống cứ điểm nhỏ Tháp Canh Đờ-la-tua của tướng Cốc và hê ̣ thống lô cốt, boong ke của Đờ-lát Đờtát-xi-nhi và từ thành công bước đầu của cụm cứ điểm Nà Sản,… thực dân Pháp đã chuyển sang một hình thức phòng ngự mới: phòng ngự tâ ̣p đoàn cứ điểm. Để xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, quân Pháp đã tập trung tăng cường nhiều binh, hỏa lực và các phương tiện, vũ khí mới, hầu hết lực lượng, phương tiện được tăng cường là những đơn vị tinh nhuệ nhất trong Quân đội Viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Trận đánh cứ điểm được chia thành 03 phân khu, mỗi phân khu gồm một số “trung tâm đề kháng”. Trong đó, “phân khu Bắc” và 02 trung tâm đề kháng: Bản Kéo và đồi Độc Lập; “phân khu giữa” gồm 05 trung tâm đề kháng; “phân khu Nam” hay còn gọi là phân khu Hồng Cúm. Các trung tâm đề kháng, hay còn gọi các khu vực gồm một cụm cứ điểm có lực lượng phòng ngự và lực lượng cơ động với hỏa lực riêng phòng ngự của địch được bố trí trên một không gian rộng, bảo đảm khả năng phòng ngự độc lập, có hệ thống công sự trận địa vững chắc và hỏa lực mạnh. Trước sự thay đổi về hình thức phòng ngự của địch, Bô ̣ Chỉ huy Chiến dịch ta đã có những đổi mới về nghê ̣ thuâ ̣t tác chiến chiến dịch và chiến thuật. Quán triệt quan điểm của Trung ương Đảng là “đánh chắc thắng”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lê ̣nh kiêm Tư lệnh Chiến dịch đã đề xuất và được Đảng ủy Mặt trận thông qua và Bộ Chính trị phê duyệt thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Theo đó, nhiều phát triển mới về chiến thuâ ̣t đã được chỉ huy các đơn vị vận dụng một cách sáng tạo. Một là, phát triển mơi về cách đánh công kiên . Trong chiến dịch Điê ̣n Biên Phủ, chúng ta đã tiến hành nhiều trâ ̣n đánh công kiên với quy mô lớn, như: Him Lam, Đô ̣c Lâ ̣p, đồi A1, đồi C1… Đây là lần đầu tiên ta sử dụng lực lượng quy mô đại đoàn (và tương đương) đánh công kiên cụm cứ điểm nằm trong hê ̣ thống phòng ngự liên 13 hoàn của địch bằng sức mạnh của binh chủng hợp thành. Cách đánh này đã buộc địch phải đối phó bằng mô ̣t hình thức phòng ngự kiểu tâ ̣p đoàn cứ điểm mới quy mô gồm nhiều tiểu đoàn, phòng ngự và cơ động có sự chi viện của xe tăng, pháo binh, máy bay… Đây cũng là hình thức phòng thủ cao nhất của Quân đô ̣i Viễn chinh Pháp trong cuô ̣c chiến tranh xâm lược nước ta.(Jules Rây, 1984) Trâ ̣n tiến công cụm cứ điểm Him Lam diễn ra từ 17 giờ đến 22 giờ 30 phút ngày 13-3-1954, do Đại đoàn 312 (thiếu Trung đoàn 165) đảm nhiê ̣m là trận mở màn Chiến dịch. Đại đoàn được tăng cường 02 đại đô ̣i sơn pháo 75mm, 02 đại đô ̣i cối 120mm và được 02 đại đô ̣i lựu pháo 105mm trực tiếp chi viê ̣n. Ơ cụm cứ điểm ở Him Lam, địch có 04 đại đô ̣i thuô ̣c Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn Lê dương số 13 (thiếu), bố trí thành 03 cứ điểm; có hê ̣ thống lô cốt và hỏa lực nhiều tầng cấu trúc vòng tròn. Giữa các điểm tựa trung đô ̣i có hào giao thông và hàng rào ngăn cách. Hào giao thông trong cứ điểm sâu và hep. Trong 03 cứ điểm thì cứ điểm 01 có 02 đại đô ̣i, có sở chỉ huy và là điểm tựa chủ yếu của toàn cụm Him Lam. Hỏa lực của cụm cứ điểm được bố trí nhiều tầng: trung liên bắn sát mă ̣t đất, bên trong là đại liên, trọng liên kiểm soát xa, ở giữa có súng cối và ĐK.. Trận công kiên Trung tâm đề kháng Him Lam, ta đã diệt 200 tên, bắt 270 tên, thu toàn bộ trang bị, vũ khí và loại khỏi vòng chiến đấu Tiểu đoàn 3 Lê dương đã thể hiện sức mạnh tiến công hiệp đồng binh chủng của bộ đội ta, đồng thời đánh dấu bước phát triển về chiến thuật – cách đánh công kiên. Trâ ̣n tiến công cụm cứ điểm Đô ̣c Lâ ̣p (đêm 14 rạng sáng ngày 15-3-1954) do Trung đoàn 165, Đại đoàn 312; Trung đoàn 88, Đại đoàn 308 và lực lượng pháo binh tương đương trâ ̣n đánh Him Lam đảm nhiê ̣m. Cứ điểm Đô ̣c Lâ ̣p khá kiên cố, nằm trên đồi cao 700m, rộng 150m, cách Mường Thanh 04 km về phía Bắc, do Tiểu đoàn 5 Bắc Phi thuô ̣c Trung đoàn An-giê-ri số 7 và 01 đại đô ̣i ngụy Thái (tất cả có 03 đại đô ̣i) chiếm giữ. Ngoài hỏa lực tại chỗ và của trung tâm đề kháng, địch còn được tăng cường 04 khẩu cối 120mm và được pháo binh ở Mường Thanh, Hồng Cúm chi viện. Trận đánh này ta giành được thắng lợi, nhưng cũng bộc lộ nhiều thiếu sót lớn về hiệp đồng, như: pháo binh bắn sớm, hướng thứ yếu mở cửa chậm,… 14 Nét nổi bật về chiến thuật trong các trâ ̣n đánh này là để hạn chế hỏa lực pháo binh, xe tăng và máy bay của địch, chúng ta đã chú trọng viê ̣c xây dựng trâ ̣n địa xuất phát tiến công vững chắc. Trâ ̣n địa ta xây dựng đảm bảo phát huy được ưu thế của các loại hỏa lực của bô ̣ binh: trung liên, đại liên, súng cối , có thể làm tê liê ̣t các hỏa điểm nhiều tầng của địch, nhất là hỏa điểm lướt sườn; đồng thời, chịu đựng được sức công phá của đạn pháo 105mm và đạn cối 120mm, giúp cho bô ̣ binh ta thực hiê ̣n được 4 nhanh trong đánh địch (tiếp câ ̣n nhanh, mở cửa nhanh, đô ̣t phá nhanh, xung phong nhanh). Đây là lần đầu tiên chúng ta sử dụng pháo lớn, bố trí ở những trâ ̣n địa kiên cố, thực hành bắn chuẩn bị, chi viê ̣n trực tiếp và chế áp các trâ ̣n địa pháo binh của địch, tạo điều kiê ̣n thuận lợi cho bô ̣ binh tiến công địch, cũng là lần đầu tiên chúng ta sử dụng pháo cao xạ thực hành phòng không hiê ̣p đồng tác chiến cùng bô ̣ binh. Hai trâ ̣n đánh Him Lam và Đô ̣c Lâ ̣p “là hai trâ ̣n đầu đánh vào mô ̣t tâ ̣p đoàn cứ điểm, là hai trâ ̣n công kiên lơn nhất tt trươc đến nay, là hai trâ ̣n đánh thho lối chính quy”. Hai là, xây dựng trâ ̣n địa phòng ngự trong chiến dịch tiến công. Đây là lần đầu tiên xuất hiê ̣n những trâ ̣n chiến đấu phòng ngự trong mô ̣t chiến dịch tiến công của cuô ̣c kháng chiến chống Pháp xâm lược. Nó ra đời do nhiệm vụ tiến công địch trong tâ ̣p đoàn cứ điểm rất khó khăn và phức tạp, đòi hỏi ta phải giữ vững trâ ̣n địa vừa chiếm được để tạo bàn đạp cho những cuô ̣c tiến công tiếp theo. Trâ ̣n chiến đấu phòng ngự trong chiến dịch tiến công ở đồi C1 kéo dài từ ngày 30-3-1954 đến ngày 01-5-1954. Trung đoàn 98, Đại đoàn 316 đã chiến đấu liên tục 32 ngày đêm, kết hợp tiến công với đánh địch phản kích và tổ chức phòng ngự giằng co với địch… Đến đợt 3 của Chiến dịch, Trung đoàn đã tiêu diê ̣t toàn bô ̣ quân địch tại cứ điểm này. Trâ ̣n tiến công đồi A1 (chiều ngày 30-3-1954) của Trung đoàn 174 diễn ra hết sức quyết liê ̣t. Đây là cứ điểm quan trọng nhất trong cụm điểm cao của địch. Địch không chỉ dựa vào hệ thống hầm ngầm để chống trả ta quyết liê ̣t, mà còn tăng cường nhiều đại đô ̣i bô ̣ binh có xe tăng, pháo binh, không quân yểm trợ phản kích nhiều lần, nhằm thu hep khu vực trận địa mà Trung đoàn 174 đã chiếm được. Trên cơ sở nắm bắt và đánh giá đúng tình hình chiến sự, Bô ̣ Chỉ huy Chiến dịch đã quyết định cho Trung đoàn 102, Đại đoàn 308 chuyển từ hướng Tây sang hướng Đông tiếp tục tiến công đồi A1; đồng thời, lê ̣nh cho Đại đoàn 308 đẩy mạnh hoạt đô ̣ng ở phía Tây và tây Bắc 15 Mường Thanh, buô ̣c địch phải phân tán lực lượng để đối phó với ta. Đêm 31-3-1954, Trung đoàn 102 và mô ̣t bô ̣ phâ ̣n của Trung đoàn 174 tiến công đồi A1 lần thứ hai và đến sáng ngày 01-4-1954, bô ̣ đô ̣i ta đã chiếm được 2/3 Đồi, nhưng địch đã phản kích chiếm lại phần lớn trâ ̣n địa. Đêm 01-4-1954, ta tổ chức tiến công lần thứ ba cũng không thành công. Trâ ̣n đánh kéo dài đến ngày 04-4-1954, nhưng ta cũng chỉ chiếm được 1/3 Đồi. Trước tình thế đó, để bảo đảm lực lượng chiến đấu dài ngày, Bô ̣ Chỉ huy Chiến dịch đã quyết định rút Trung đoàn 102 về củng cố lực lượng, giao lại phần đồi đã chiếm được cho Trung đoàn 174 đảm nhiệm. Liên tục hơn mô ̣t tháng (từ 04-4 đến 06-5-1954), Tiểu đoàn 5 thuô ̣c Trung đoàn 174 đã tổ chức phòng ngự đánh bại mọi đợt tiến công của địch, tạo điều kiê ̣n cho Trung đoàn chuyển sang tiến công tiêu diê ̣t toàn bô ̣ lực lượng địch ở đồi A1 vào đêm 06-5-1954. Ba là, xây dựng trâ ̣n địa tiến công bao vây, hình thành chiến thuâ ̣t “đánh lấn”. Sau khi tiêu diê ̣t các cụm cứ điểm Him Lam, Đô ̣c Lâ ̣p và bức hàng địch ở Bản Kéo, Bô ̣ Chỉ huy Chiến dịch nhâ ̣n định, địch có nhiều khó khăn, lúng túng nhưng chúng còn rất mạnh và sẽ ra sức đối phó. Từ nhâ ̣n định đó, Bô ̣ Chỉ huy Chiến dịch vẫn thực hiện chủ trương “đánh chắc, tiến chắc”. Để thực hiê ̣n yêu cầu tiếp câ ̣n và tiến công liên tục cả ngày lẫn đêm có hiê ̣u quả, ta chủ trương xây dựng trâ ̣n địa tiến công bao vây. Trâ ̣n địa tiến công bao vây là mô ̣t hê ̣ thống trâ ̣n địa bao gồm giao thông hào trục bao vây Mường Thanh, cắt đứt nó với phân khu Hồng Cúm. Những tuyến giao thông của các đại đoàn xẻ từ triền núi chạy xuống lòng chảo Điê ̣n Biên Phủ, tới sát các mục tiêu tiến công. Ngoài ra, ta còn cấu trúc những tuyến hào ngang để cơ đô ̣ng lực lượng, hê ̣ thống công sự cho hỏa lực, hầm tránh pháo, hầm đạn, hầm thương binh, hầm điều trị của các đô ̣i phẫu thuâ ̣t… Mỗi đêm đào công sự là mô ̣t cuô ̣c chiến đấu của bộ đội ta với sự đánh phá của pháo binh, máy bay địch. Ơ từng vị trí, địch đã dùng hỏa lực tại chỗ bắn ra quyết liê ̣t và bí mật bố trí lực lượng công binh rải mìn cóc nhằm sát thương, cản trở bô ̣ đô ̣i ta đào đắp công sự. Từ các trâ ̣n địa tiến công bao vây, bô ̣ đô ̣i ta đã dùng súng bắn tỉa để tiêu diê ̣t địch. Để tiêu diê ̣t được nhiều địch, các tay súng bắn tỉa phục kích, chỉ bắn bị thương những tên địch đi lấy nước (chủ tâm bắn vào chân) và những tên khác ra cứu; đến đêm, địch buộc phải tổ chức lực lượng ứng cứu đông hơn, 16 ta dùng súng cối 60mm, đại liên tiêu diệt. Tiêu biểu của cách diệt địch này là Trung đoàn 36, Đại đoàn 308, khi tiêu diê ̣t cứ điểm 206 (Huy-ghơ I). Trung đoàn đã hoạt đô ̣ng liên tục trong 06 ngày đêm (từ 17 đến 23-4-1954), thực hành xây dựng trâ ̣n địa, tiếp câ ̣n địch kết hợp chă ̣t chẽ với bắn tỉa, đánh địch ra phá hoại trâ ̣n địa và sử dụng các phân đô ̣i nhỏ tích cực tiêu diê ̣t từng tên địch, từng ụ súng, phá dần từng lô cốt, vây hãm chă ̣t làm cho binh lính địch luôn trong trạng thái căng thẳng, mê ̣t mỏi, đi đến suy sụp, tan rã. Bằng sự sáng tạo đó, Trung đoàn chỉ sử dụng mô ̣t lực lượng tương đương địch, nhưng đã tiêu diê ̣t toàn bô ̣ cứ điểm, giành thắng lợi trọn ven. Từ kinh nghiê ̣m đánh Huy-ghơ I của Trung đoàn 36, bô ̣ đô ̣i ta đã phát triển lên thành chiến thuâ ̣t “đánh lấn”. Đây là sự phát triển của cách đánh công kiên trong điều kiê ̣n ta tổ chức tiến công trực tiếp tiếp xúc với địch, nhưng so sánh lực lượng chưa cho phép ta đánh lớn tiêu diê ̣t địch ngay. Trong tác phẩm “Điê ̣n Biên Phủ – điểm hen lịch sử”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Đã hoàn thiê ̣n và thực sự khẳng định thành công của chiến thuâ ̣t được gọi là “đánh lấn”. Từ các trâ ̣n đánh mở màn Him Lam, Đô ̣c Lâ ̣p cho đến các trâ ̣n đánh kết thúc ở trung tâm Mường Thanh là cả mô ̣t quá trình chiến đấu liên tục, sáng tạo, phát triển mới về chiến thuâ ̣t đánh địch trong tâ ̣p đoàn cứ điểm của bô ̣ đô ̣i ta. Nó thể hiện nét đặc sắc, độc đáo của Nghệ thuật Quân sự Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Những chiến thuật đó đã được nghiên cứu, tổng kết và vận dụng sáng tạo trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây cũng là điều kiê ̣n thúc đẩy chiến thuâ ̣t không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. (báo Cao Bằng, 2017; GS.Văn Tạo, 2021; Viện Lịch sử Quân đội nhân dân, 2004) Chương III: Vận dụng bảo về chủ quyền nước ta hiện nay Viê ̣t Nam là quốc gia đa dân tô ̣c,lãnh thổ Viê ̣t Nam trải dài; văn hóa Viê ̣t Nam mang tính đa dạng, phong phú không chỉ trong cấu trúc tô ̣c người mà còn có sự khác biê ̣t giữa các vùng địa văn hóa. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó lại có sự thống nhất chung do yêu cầu của nền sản xuất nông nghiê ̣p lúa nước và chống ngoại xâm. Trước họa xâm lược, đã thành truyền thống, thành bản sắc văn hóa, dân tô ̣c Viê ̣t Nam đã cố 17 kết lại đă ̣t lên hàng đầu lợi ích chung cao nhất là đô ̣c lâ ̣p dân tô ̣c và chủ quyền quốc gia mà lịch sử không thể phủ nhâ ̣n được. Tư tưởng nghê ̣ thuâ ̣t quân sự Viê ̣t Nam là mô ̣t bô ̣ phâ ̣n cấu thành văn hóa Viê ̣t Nam, kết tinh nhiều giá trị, trí tuê ̣ và đạo lý Viê ̣t Nam. Tư tưởng nghê ̣ thuâ ̣t quân sự Viê ̣t Nam là kết quả tổng kết kinh nghiê ̣m với đă ̣c điểm và thực tiễn đánh giă ̣c của dân tô ̣c Viê ̣t Nam. Tư tưởng, nghê ̣ thuâ ̣t quân sự đó là tư tưởng, nghê ̣ thuâ ̣t quân sự của mô ̣t nước nhỏ, điều kiê ̣n kinh tế, quân sự có hạn, lại phải chống lại sự xâm lược của những cường quốc lớn có thực lực kinh tế, quân sự mạnh. Đó là tư tưởng “tránh cái hăng hái lúc ban mai”, là nghê ̣ thuâ ̣t “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”; là “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuâ ̣n, cả nước góp sức”; đề cao chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo cao cả “lấy đại nghĩa thắng hung tàn”; là nghê ̣ thuâ ̣t phát đô ̣ng và kết thúc chiến tranh đúng lúc. Đó cũng là xây dựng và sử dụng ba thứ quân (bô ̣ đô ̣i chủ lực, bô ̣ đô ̣i địa phương, dân quân du kích), thực hiê ̣n đánh du kích, đánh nhỏ, đánh tiêu hao tiến lên đánh chính quy với những chiến dịch lớn... Tất cả những kinh nghiê ̣m chống ngoại xâm của cha ông, kết hợp với tư tưởng quân sự tiên tiến của thời đại là cơ sở để hình thành tư tưởng nghê ̣ thuâ ̣t quân sự Viê ̣t Nam, do đó đã bổ sung và làm sâu sắc thêm bản sắc văn hóa Viê ̣t Nam. Chiến dịch lịch sử Điê ̣n Biên Phủ đã phát huy được tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, truyền thống đoàn kết của dân tô ̣c Viê ̣t Nam. Dựa vào quy luâ ̣t chung của đấu tranh vũ trang và chiến tranh cách mạng, căn cứ vào điều kiê ̣n cụ thể của đất nước, phát huy bản sắc văn hóa dân tô ̣c, Đảng Cô ̣ng sản Viê ̣t Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành công trong viê ̣c huy đô ̣ng sức mạnh toàn dân, vũ trang toàn dân tiến hành chiến tranh nhân dân chống xâm lược. Sự nỗ lực, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong chiến dịch Điê ̣n Biên Phủ được thể hiê ̣n trong toàn quốc từ vùng địch tạm chiếm đến vùng tự do, từ hâ ̣u phương đến tiền tuyến, trên cả mă ̣t trâ ̣n chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Ơ hâ ̣u phương, hàng triê ̣u nông dân đã dốc sức chi viê ̣n cho tiền tuyến đánh thắng. Nhờ vâ ̣y, chúng ta đã huy đô ̣ng hàng chục vạn dân công vâ ̣n chuyển hàng chục nghìn tấn nhu yếu phẩm, hàng chục nghìn tấn gạo, thực phẩm; hàng nghìn tấn vũ khí, 18 đạn dược phục vụ chiến dịch. Các lực lượng chiến đấu và phục vụ cho chiến đấu như: Thanh niên xung phong, Dân công hỏa tuyến, các Đô ̣i vâ ̣n tải tiền phương... được xây dựng và trưởng thành là những lực lượng quan trọng cho Điê ̣n Biên Phủ đánh thắng. Thực tế lịch sử đó đã chứng minh cho chân lý đúng đắn: Trong thời đại hiê ̣n nay, các cuô ̣c chiến tranh chính nghĩa chống xâm lược của mô ̣t dân tô ̣c biết lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy thô sơ thắng hiê ̣n đại trên nền sức mạnh làm chủ của toàn dân, có nghê ̣ thuâ ̣t quân sự đô ̣c đáo phù hợp với điều kiê ̣n lịch sử, sẽ đánh thắng mọi cuô ̣c chiến tranh xâm lược do các thế lực thù địch gây ra. Trâ ̣n Điê ̣n Biên Phủ là trâ ̣n quyết chiến chiến lược của cuô ̣c kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong chiến dịch này, nghê ̣ thuâ ̣t truyền thống “Tâ ̣n dân vi binh” với nét nổi bâ ̣t là chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diê ̣n, lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, tiến công địch bằng sức mạnh tổng hợp được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển lên tầm cao mới thể hiê ̣n bản sắc văn hóa, truyền thống quân sự Viê ̣t Nam. Đó là đấu tranh vũ trang kết hợp chă ̣t chẽ giữa lực lượng toàn dân và lực lượng vũ trang, giữa lực lượng quân sự và lực lượng chính trị. Đó là cuô ̣c tiến công không chỉ đơn thuần về mă ̣t quân sự mà là cuô ̣c tiến công toàn diê ̣n bằng bạo lực cách mạng vào quân địch. Lực lượng tiến hành không chỉ có ba thứ quân mà còn có lực lượng chính trị của toàn dân, thực hiê ̣n đánh địch trên cả ba vùng chiến lược, đánh địch toàn diê ̣n cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao... Đó cũng là cuô ̣c tiến công bằng sức mạnh tổng hợp của những nhân tố tạo lên sức mạnh của dân tô ̣c và sức mạnh của thời đại gắn kết chă ̣t chẽ với nhau đánh thắng kẻ thù. Chiến thắng lịch sử Điê ̣n Biên Phủ còn thể hiê ̣n đâ ̣m nét trong cách đánh với tư tưởng “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”, thực hiê ̣n đánh hiểm, đánh đau, đạt hiê ̣u quả tiêu diê ̣t địch cao nhất theo phương châm “đánh chắc, tiến chắc”. Trong tâ ̣p đoàn cứ điểm Điê ̣n Biên Phủ, quân viễn chinh Pháp rõ ràng có ưu thế tuyê ̣t đối về lực lượng, về vũ khí, trang bị kỹ thuâ ̣t. Vì vâ ̣y, cách đánh của ta là tiến công từng bô ̣ phâ ̣n quân địch, phá vỡ từng mảng trong hê ̣ thống phòng ngự của chúng, tiến lên tiêu diê ̣t toàn bô ̣ quân địch trong toàn bô ̣ cứ điểm. Đây là sự sáng tạo tư tưởng tiến công, từ tiến 19 công cục bô ̣, bô ̣ phâ ̣n đến toàn bô ̣. Cách đánh thông minh, sáng tạo đó đã loại bỏ được ưu thế tuyê ̣t đối về lực lượng và vũ khí trang bị hiê ̣n đại của quân Pháp. Ngày nay toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang đẩy mạnh công cuô ̣c đổi mới, đẩy mạnh công nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa đất nước vì dân giàu, nước mạnh, xã hô ̣i công bằng, dân chủ, văn minh. Trong khi thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng hô ̣i nhâ ̣p kinh tế quốc tế để áp đă ̣t các giá trị văn hóa của chúng, thực hiê ̣n tham vọng đồng hóa về văn hóa các dân tô ̣c trên thế giới. Vì vâ ̣y, bảo vê ̣ và phát huy bản sắc văn hóa dân tô ̣c trở thành mô ̣t nhiê ̣m vụ trọng yếu trong chiến lược bảo vê ̣ Tổ quốc, mô ̣t yêu cầu cơ bản trong bảo vê ̣ đô ̣c lâ ̣p chủ quyền quốc gia. Do đó, mỗi người dân phải nhâ ̣n thức được tầm quan trọng của viê ̣c bảo vê ̣ và phát huy bản sắc văn hóa dân tô ̣c trong chiến lược bảo vê ̣ Tổ quốc, từ đó vâ ̣n dụng và thực hiê ̣n sáng tạo trong sự nghiê ̣p đẩy mạnh công nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa theo định hướng xã hô ̣i chủ nghĩa. Kiên trì mục tiêu đô ̣c lâ ̣p dân tô ̣c và chủ nghĩa xã hô ̣i trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vê ̣ và giữ gìn những giá trị cơ bản, cốt lõi, những truyền thống, tâ ̣p quán tốt đep của phẩm chất, cốt cách Viê ̣t Nam, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại làm giàu thêm bản sắc và tính tiên tiến của nền văn hóa Viê ̣t Nam. Chiến thắng lịch sử Điê ̣n Biên Phủ bắt nguồn mô ̣t cách logic từ tiến trình phát triển của cuô ̣c kháng chiến chống thực dân Pháp, mà ở đó, tính chính nghĩa, tài nghê ̣ chỉ đạo, trí thông minh, lòng yêu nước, bản sắc văn hóa của con người Viê ̣t Nam được tỏa sáng và phát huy tác dụng. Trong khi đó quân đô ̣i viễn chinh Pháp không những sai lầm về chiến lược, chiến thuâ ̣t mà quan trọng hơn đó là cuô ̣c chiến tranh phi nghĩa, do đó không thể phát huy được mọi tiềm năng để đối phó với chiến tranh nhân dân của dân tô ̣c Viê ̣t Nam có bề dày lịch sử văn hóa. Chiến thắng lịch sử Điê ̣n Biên Phủ là hê ̣ quả của yếu tố đó, do đó nó trở thành mô ̣t tất yếu lịch sử. Bản sắc văn hóa đó ngày nay cần được bảo vê ̣ và phát huy trong sự nghiê ̣p bảo vê ̣ Tổ quốc.(Lê Thị Hương Giang, 2018; NGUYỄN HỮU CẦN, 2021; PGS, TS. LƯƠNG THANH HÂN, 2020; Thông tấn xã Việt Nam, 2021) 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng