Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Lịch sử Những cuốn sách làm thay đổi thế giới - Robert B. Downs...

Tài liệu Những cuốn sách làm thay đổi thế giới - Robert B. Downs

.PDF
53
373
97

Mô tả:

NHỮNG CUỐN SÁCH LÀM THAY ĐỔI THẾ GIỚI Robert B. Downs Hoài Châu và Từ Huệ dịch Nhà xuất bản Lao Động 2003 Mục lục Lời giới thiệu Phần thứ nhất : Thế giới con người 1. Ông Hoàng - Niccolò Machiavelli 2. Lương tri - Thomas Paine 3. Quốc phú luận - Adam Smith. 4. Luận về nguyên tắc dân số - Thomas Malthus. 5. Dân sự bất phục tòng - Henry David Thoreau. 6. Túp lều bác Tom - Harriet Beecher Stowe. 7. Tư bản luận - Karl Marx. 8. Ảnh hưởng uy lực trên biển cả trong lịch sử - Alfred T. Mahan. 9. Căn bản địa lý của lịch sử - Sir Halford J. Mackinder. 10. Cuộc chiến đấu của tôi (Mein kampf) - Adolf Hiler. Phần thứ hai : Thế giới khoa học. 11. Vũ trụ tuần hoàn - Nicolaus Copernicus. 12. Vai trò của tim - William Harvey. 13. Nguyên tắc toán học - Sir Isaac Newton. 14. Nguồn gốc muôn loài - Charles Darwin. 15. Đoán mộng - Sigmund Freud. 16. Thuyết tương đối - Albert Einstein. Lời giới thiệu 16 tác phẩm được Robert B. Downs trình bày trong cuốn sách này gồm đủ loại : chính trị, kinh tế, y học, triết học…; xuất hiện từ cuối thời Trung cổ tới giữa thế kỷ XX. Theo tác giả, đây là những tác phẩm từng gây được những ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài ở phương Tây và ở cả phương Đông, có tác động lớn lao tới đời sống nhân loại, xứng đáng được gọi là "Books That Changed World" - Những tác phẩm biến đổi thế giới. Dẫu thế giới quan và nhân sinh quan của tác giả có nhiều điểm khác chúng ta, và sự nhận định của tác giả không hiếm khi thiếu chính xác, song đây quả là một cuốn sách rất nên tham khảo. Nó giới thiệu với chúng ta, theo trình tự thời gian, những kiến thức và tư tưởng của hàng trăm ngàn trang sách viết bằng những thứ tiếng khác nhau, đã được thu gọn. Hy vọng rằng, công phu của tác giả cũng như của các dịch giả và sự ủng hộ của Nhà xuất bản, sẽ giúp ích phần nào cho bạn đọc xa gần trong những giờ nghiên cứu ngoại khóa hay những giờ giải trí. Rất mong nhận được sự góp ý của các bạn. Chân thành cám ơn. Thiên Trung 1. ÔNG HOÀNG Niccolò Machiavelli Trải qua hơn bốn thế kỷ, trong suy nghĩ mọi người trên khắp thế giới, tiếng "Machiavelian" đồng nghĩa với một cái gì quỉ quái, phản phúc, xấu xa, độc ác và đồi trụy. Tính từ ấy bắt nguồn từ cái tên Niccolò Machiavelli là một biểu tượng của nhà chính khách đầy mưu mô, thủ đoạn, giả đạo đức, vô luân lý, tráo trở và bất nhân mà triết lý duy nhất là cứu cánh biện minh cho phương tiện. Khắp thiên hạ đều cho rằng đối với Machiavelli, cái luật chính trị "cao" nhất là luật tùy thời. Ở Anh vào thế kỷ XVII, "Già Nick" là hiệu danh dùng để bổ nghĩa cho cả hai danh từ riêng Machiavelli và quỉ Satan. Có thể nào bào chữa cho bị cáo, hay liệu có trường hợp giảm khinh nào không ? Cái tiếng dữ ấy đồn xa chỉ vì một cuốn sách, cuốn "Ông Hoàng" viết năm 1513, nhưng mãi đến năm 1532 mới xuất bản, nghĩa là năm năm sau khi tác giả của nó từ trần. Không có tác phẩm văn học nào thoát khỏi sự liên hệ với thời đại của nó và trong trường hợp cuốn "Ông Hoàng" điều đó lại càng đúng. Thế mà cuốn sách ấy chứa đựng những bài học cho muôn đời. Người ta không biết rõ về cuộc đời của Machiavelli kể từ năm 1498 trở về trước. Năm đó, 1498, Machiavelli 29 tuổi đã là Bộ trưởng Ngoại giao Cộng hòa Florence. Ông giữ chức vụ này trong 18 năm. Vì công việc ngoại giao ông được đi Tuscany, vượt qua bên kia rặng núi Apennines tới Roma, và sau đó vượt qua cả núi Alpes. Ông được quen biết nữ Bá tước Caterina Sforza; các ông Pandolfo Petrucci, nhà độc tài xứ Siena; Ferdinand xứ Aragon, Louis XII nước Pháp, Hoàng đế Maximillan, Đức Giáo Hoàng Alexander VI, Đức Giáo Hoàng Julius II và Cesare Borgia. Giữa Florence và các tiểu quốc Venice, Pisa, Milan và Naples luôn xảy ra những mối bất hòa. Thời đó, chính trị suy đồi đến độ không thể tưởng tượng nổi. Là người rất sành tâm lý, Machiavelli như cá gặp nước, ông có dịp thi thố tài năng trong những nhiệm vụ thương thuyết thật khó khăn. Sự thực tế hay trân tráo đối với các vấn đề chính trị của ông về sau này hẳn là do kinh nghiệm mà có, bởi ông đã học được cái bí quyết coi thường mọi động lực khác mà chỉ chú trọng đến lòng tham và ích kỷ. Rồi bất hạnh xảy tới. Nhờ viện trợ của Tây Ban Nha, họ Medecis lật đổ chế độ Cộng hòa và tái lập nền thống trị ở Florence. Machiavelli bị cách chức, tống giam, tra tấn và sau cùng bị đày về một trang trại nhỏ gần San-Casciano. Ông sống ẩn dật nơi đó cho đến khi mất, năm 1527, trừ một vài chuyến xuất ngoại rất ngắn hạn. Trong những năm dài ẩn dật buồn nản, sự giải trí của ông là soạn sách : Ông Hoàng, Những bài diễn văn, Nghệ thuật chiến tranh và Lịch sử xứ Florence , tất cả đều đặc biệt liên quan đến chính trị thời xưa và đương thời. Khó mà nhận định được tình cảm của ông đối với việc công ra sao, ngoại trừ một vấn đề mà ông cảm xúc chân thành. Ông là một nhà ái quốc chân chính hết lòng mong muốn cho nước Ý được thống nhất và hùng cường. Bình thường ông nhận xét sự việc một cách lạnh lùng, hoài nghi, một nhà trí thức thuần túy không biết câu nệ. Nhưng một khi bàn về sự thống nhất nước Ý thì ông say sưa, hùng hồn, nồng nàn và linh hoạt. Tình trạng nước Ý hồi đầu thế kỷ XVI bi thảm đến nỗi có thể làm cho kẻ yêu nước rơi nước mắt. Đương thời của Machiavelli, một biến động lớn về chính trị, kinh tế và thần học đang ngấm ngầm nổi lên ở Ý. Ở những nơi khác : Anh, Pháp và Tây Ban Nha sau nhiều năm tranh đấu đã tạm hoàn thành thống nhất quốc gia. Trái lại ở Ý quan niệm về một tổ chức quốc gia hay liên bang vẫn còn chưa được nghĩ tới. Bấy giờ có năm guồng máy chính trị lớn cai trị nước Ý : Milan, Florence, Venice, Tòa Thánh và Naples. Lớn mạnh nhất là Venice. Sự phân chia chính trị năm bè bảy mối là một nguyên nhân làm cho nước Ý suy yếu và ngoại bang dòm ngó. Khởi đầu là vua Charler VIII nước Pháp xâm lăng năm 1494 và vị vua này vừa rút binh khỏi nước Ý độ vài năm thì đến lượt vua Louis XII và Ferdinand xứ Argon, cả hai đều đồng ý chia đôi vương quốc Naples. Hoàng đế Maximilian phái binh tới chinh phục Venice. Quân đội Đức, Thụy Sĩ, Pháp và Tây Ban Nha giày xéo và đánh lẫn nhau trên đất Ý. Trong khi đó thì giữa người Ý với người Ý gây hấn lẫn nhau, thù hận, cướp bóc và giết chóc nhau như cơm bữa. Cộng hòa này khai chiến với Cộng hòa kia, ganh tỵ uy quyền lẫn nhau không thể nào hợp nhất thành một mặt trận cùng chống ngoại thù. Tòa Thánh bấy giờ đang ở giai đoạn suy yếu nhất trong lịch sử, lo sợ có đối thủ mạnh cướp mất quyền lực thế gian, nên muốn duy trì tình trạng chia năm xẻ bảy hơn là thực hiện thống nhất đất nước. Lúc bấy giờ có lẽ Machiavelli là người sáng suốt hơn cả, đã nhận thức được những nguy cơ đang đe dọa nước Ý. Trong cuộc sống ẩn dật bất đắc dĩ ngày đêm suy ngẫm về những thảm họa đã giáng xuống đất nước thân yêu, ông đi tới kết luận là hy vọng duy nhất có thể cứu vãn xứ sở là phải có một đại lãnh tụ và vị lãnh tụ ấy phải cường mạnh và quyết liệt để thu phục những tiểu quốc nhỏ bé, thống nhất họ lại thành một quốc gia đủ sức tự bảo vệ và đánh đuổi ngoại xâm. Một lãnh tụ cỡ đó phải kiếm ở đâu ? Trong cuốn "Ông Hoàng", Machiavelli trình bày quan niệm của ông về bậc lãnh tụ lý tưởng đó và tỉ mỉ vạch rõ con đường mà vị đại lãnh tụ ấy phải theo để đi tới thành công. Mặc dù Machiavelli đề tặng cuốn "Ông Hoàng" cho Lorenzo de Medici đương trị vì xứ Florence lúc bấy giờ, nhưng vai chính cuốn sách lại là Cesare Borgia, con của Đức Giáo Hoàng Alexander VI, mới mười bảy tuổi đã là Hồng y. Cesare Borgia còn là một tướng lãnh tài ba đã chinh phục tỉnh Romagna và là một nhà độc tài, tàn ác. Năm 1502 Machiavelli được cử đi sứ tại triều đình Cesare Borgia và, đúng như Nevins đã bình luận, Machiavelli "đã thán phục Borgia hết sức khi thấy nhà độc tài này đã khéo léo áp dụng sự thận trọng và sự táo bạo, lời nói ngọt ngào mà hành động lại đẫm máu, lạnh lùng trí trá như thế nào và giả dối ra sao, lúc khủng bố để khuất phục thiên hạ thì tàn nhẫn đến mức độ nào, cả khi áp dụng chế độ độc tài để kìm kẹp một tiểu quốc thì hiệu quả ra sao". Nhờ sử dụng sự phản trắc, độc ác và bội tín, Cesare đã thành công rực rỡ, nhưng chỉ là thành công nhất thời. Machiavelli vốn là người chủ trương trung thành với một chính thể cộng hòa nhưng khi nghiên cứu tình trạng tuyệt vọng và bi thảm của nước Ý, ông tin rằng một mẫu người như Cesare Borgia mới đáng là lãnh tụ lý tưởng để chấm dứt tình trạng hỗn loạn bấy giờ. Và rồi với lòng ái quốc nhiệt thành, cảm hứng vì viễn tượng thống nhất quốc gia, ý thức được nhu cầu khẩn trương lúc ấy và cơ hội ngàn năm một thuở dành cho người mới lên cầm quyền, Machiavelli trút hết lòng nhiệt thành và năng lực dồi dào vào công việc soạn cuốn "Ông Hoàng". Tác phẩm hoàn thành trong sáu tháng cuối năm 1913, và sau đó ít lâu được đệ lên triều Vua Lorenzo với lời đề tặng của tác giả như sau : "Trộm nghĩ không còn gì đáng giá để kính tặng ngài, hơn là dâng ngài nhàn lãm, để có thể hiểu được trong một khoảng thời gian ngắn nhất tất cả những kinh nghiệm mà tôi đã học hỏi được cùng lúc với nhiều gian khổ và nguy hiểm". Luận cứ căn bản trong cuốn "Ông Hoàng" là : thịnh vượng của xứ sở biện minh cho tất cả mọi phương tiện và trong cuộc sống công cộng và đời tư có những tiêu chuẩn luân lý khác nhau. Theo luận thuyết này, vì công ích, nhà chính khách có quyền có những hành động bạo tàn và lừa đảo vốn là những hành động chắc chắn sẽ bị lên án và có thể bị coi như là trọng tội trong những quan hệ giữa cá nhân. Nói cho đúng ra Machiavelli chủ trương phân biệt giữa đạo đức và chính trị, Ông Hoàng là một thứ kim chỉ nam cho những bậc vua chúa (có người nói là cho những bạo chúa), dạy cách chiếm đoạt và duy trì quyền bính, tuy quyền bính đây không phải là để làm lợi cho nhà cầm quyền mà là để làm lợi cho dân, để xây dựng cho dân một chính thể ổn định, đủ sức chống lại cách mạng cũng như ngoại xâm. Làm thế nào để tạo được ổn định và an ninh ? Trường hợp những thể chế quân chủ thế tập thì khỏi cần bàn tới nhiều, vì với trí thông minh và mẫn tuệ trung bình, nhà cầm quyền thế tập tất nhiên có thể nắm giữ việc điều khiển chính phủ. Trái lại một nền quân chủ mới thành lập gặp nhiều khó khăn phức tạp hơn. Việc cai trị sẽ tương đối dễ đàng, nếu lãnh thổ mới bị chinh phục và sáp nhập thuộc cùng một dân tộc và ngôn ngữ với quốc gia đi thôn tính, đặc biệt là nếu theo hai nguyên tắc này : "Thứ nhất phải tuyệt diệt dòng họ đã cai trị xứ này, thứ hai là luật lệ và sưu thuế phải để nguyên không thay đổi". "Nhưng nếu như lãnh thổ mới chiếm được thuộc một dân tộc khác, có ngôn ngữ, phong tục và luật lệ riêng thì khó khăn sẽ gấp bội và muốn vượt qua được cần phải có thật nhiều may mắn và khéo léo". Machiavelli đề nghị những biện pháp kiểm soát mà nhà cầm quyền phải tự thân hành đến ngự trị trên lãnh thổ đó, phải di dân sang (như thế đỡ tốn hơn là đóng quân), phải kết thân với những nước láng giềng yếu hơn mình và phải gắng sức làm suy yếu những nước mạnh. Không theo những luật căn bản đó, Louis XII nước Pháp đã thất bại và mất hết đất đai chinh phục được. Khi nghiên cứu vấn đề làm thế nào để cai trị các miền chinh phục được, Machiavelli trình bày ba phương pháp nhờ đó có thể cai trị được một quốc gia vốn đã quen "sống dưới chính luật pháp của mình và trong tự do... Phương pháp thứ nhất là tiêu diệt quốc gia ấy; thứ hai là thân hành tới sống ở đó; thứ ba là để xứ đó sinh hoạt theo kỷ cương luật pháp cũ, buộc xứ đó triều cống và trao quyền cho vài người bản xứ. Những người này sẽ tìm cách giữ cho toàn thể dân chúng còn lại là bạn của quốc gia thống trị". Trong ba phương pháp ấy Machiavelli cho hai phương pháp đầu là vẹn toàn hơn cả. Tuy nhiên, nếu đô thị hay xứ nào mới chiếm được đó quen sống dưới chế độ một Vương giả mà dòng họ vừa bị tuyệt diệt thì người dân địa phương một mặt vì quen sống phục tùng và mặt khác đã quen bị bóc lột tất không thể nào lựa chọn được một thủ lãnh mới. Họ lại chưa từng biết thế nào là tự do, tất còn lâu mới nổi dậy được để chống lại chính quyền mới, một người ngoài cuộc có thể dễ dàng thu phục và lôi kéo họ về với mình. Bàn thêm về "các tân vương quốc", Machiavelli khuyên rằng "Phải luôn luôn nhớ là tâm lý quần chúng không nhất trí, dễ thuyết phục họ bao nhiêu thì lại khó giữ cho họ tin mình bấy nhiêu. Vì thế ta cần chuẩn bị để khi quần chúng không còn tự ý tin nữa, thì buộc họ phải tin bằng võ lực". Tiếp theo tác giả ca ngợi Cesare Borgia là vị lãnh tụ tài ba đặc biệt có quyền phản bội và phạm tội giết người. "Khi nhớ lại những hành động của quận công Borgia, tôi không biết trách cứ ông như thế nào, mà trái lại tôi nhận thấy rằng, tôi có bổn phận đưa ông ta ra làm gương cho bất cứ ai nhờ may mắn hay do người khác đưa lên nắm chính quyền. Bởi vì có tinh thần cao thượng và hoài bão lớn lao, quận công Borgia không thể nào xử sự khác được… Vị tân vương này nhận định rằng điều cần thiết để bảo tồn cho mình nơi đất mới là phải đắc nhân tâm, phải thắng mọi trở lực hoặc bằng võ lực hoặc bằng xảo trá, phải làm cho dân vừa mến vừa sợ, quân binh trung tín và tôn sùng, phải tiêu diệt những kẻ có uy quyền hay có lý do để hại mình, phải đổi mới trật tự và nề nếp cũ, vừa nghiêm khắc, vừa hòa hoãn, khoan hồng và rộng rãi, phải tiêu diệt đám quân phản phúc và lập những đạo binh mới, phải duy trì tình hữu nghị với vua chúa bằng cách nào để khi họ giúp thì hết lòng mà gây hấn thì dè dặt. Tất cả những ông Hoàng có quan điểm đó không thể tìm đâu ra một tấm gương sáng hơn về các hành vi của vị quận công này. Một kẻ tiếm quyền khi thôn tính được một xứ rồi phải cấp tốc định việc trừng phạt ngay, rồi sau đó ra ân để thu phục nhân tâm... ân huệ nên ban bố từ từ, chút một, như vậy dân chúng được thụ hưởng đầy đủ hơn. Một ông vua sáng suốt nên nhớ rằng trừng phạt chỉ là một trong nhiều phương pháp để chỉ huy những bầy tôi. Điều cần thiết cho một vị vương là được lòng dân vì nếu không thế sẽ không còn biết nương dựa vào đâu lúc gặp cơn hoạn nạn... Đừng để ai dẫn chứng câu tục ngữ xưa : "Xây dựng trên dân chúng là xây dựng trên cát" để chống lại tôi vì điều đó có thể đúng trong trường hợp cá nhân của một công dân quá tin ở tình cảm của thiên hạ đối với mình và cứ tưởng thiên hạ sẵn sàng cứu mình khi mình bị kẻ thù hay công tố viên ức chế. Nhưng một đấng anh hùng can đảm và có khả năng lãnh đạo, biết bảo tồn an ninh trật tự trong xứ, sẽ chẳng bao giờ nuối tiếc đã xây dựng củng cố an ninh cho mình trên lòng thương mến của nhân dân. Luận về thuộc quốc của Giáo hội, tức là những vương quốc dưới quyền cai trị trực tiếp của Giáo hội, Machiavelli có những nhận định châm biếm vừa chua chát vừa nghiêm khắc hơn hết. Nhờ công lao hay may mắn mà những thuộc quốc này được bảo vệ bởi những giáo lệnh khả kính và hữu hiệu đến nỗi uy quyền của những vị vua chúa các vương quốc này được hoàn toàn bảo đảm mặc dù họ sống hay hành động cách nào tuỳ ý. Họ là những ông chúa duy nhất có đất đai mà không phải bảo vệ, có bầy tôi mà không phải cai quản. Ở đây cũng như trong những tác phẩm khác, Machiavelli lên án gay gắt Giáo hội La Mã ở đầu thế kỷ XVI đã không chịu thống nhất nước Ý để đối phó với ngoại bang. Ông chủ trương phải phân biệt hoàn toàn Giáo hội và quốc gia. Vì một chính phủ mạnh cần có quân đội mạnh, Machiavelli cho vấn đề quân sự là tối quan trọng và dành khá nhiều chỗ bàn tới vấn đề này. Đương thời ông, phần lớn những tiểu quốc Ý quen dùng lính đánh thuê, hầu hết là người ngoại quốc, trong việc quốc phòng. Machiavelli biện luận rằng những binh sĩ như thế "vô dụng và nguy hiểm" và một quân đội quốc gia tùy thuộc vào sức mạnh vũ trang, người cai trị phải coi vấn đề quân sự là mối bận tâm chính yếu. Machiavelli dành nhiều chương nói về cách cư xử của các ông Hoàng, cư xử thế nào cho phải trong nhiều trường hợp khác nhau. "Giữa lối sống thường nhật và cái đạo sống mà người ta phải theo có một sự khác biệt rất lớn...Điều cần thiết cho một vị vương nào muốn giữ vững địa vị của mình là phải biết cư xử đúng hơn là chỉ biết tốt và phải biết tùy trường hợp mà sử dụng hay không sử dụng đến lòng tốt... Một vị vương được trời phú cho những đức tính vẫn được coi là tốt thì ai cũng phải nhận là đáng ca ngợi, nhưng khó mà có thể có đủ những đức tính ấy, thường xuyên thực thi những đức tính ấy... Cho nên làm chúa thì phải cẩn trọng để biết cách tránh điều ô nhục gây ra bởi những đồi trụy có thể làm mình mất ngôi". Một ông Hoàng phải bất chấp sự mang tiếng là hà tiện vì tiêu xài tiền bạc, của cải, hoặc chính mình hay của bề tôi, hoặc của thiên hạ... Đối với những cái gì không phải của mình hay của con dân, ông Hoàng phải ban bố chi phí rộng rãi... Bởi vì rộng rãi bằng tài sản của người khác (tài sản chiếm được trong các cuộc chiến tranh chinh phục) chẳng những không làm giảm mà còn làm tăng thêm oai danh của mình. Nhưng đem cho tài sản của mình đi nghĩa là làm thiệt hại đến mình. Chẳng gì tự hại mình bằng sự hoang phí vì làm mất đi phương tiện giúp mình tiêu xài rộng rồi trở thành nghèo túng và bị khinh nhờn, hoặc để khỏi bị nghèo túng mà hoá ra tham lam và bị thù ghét. Nhà vua phải nhớ rằng độc ác là một khí giới tốt để giữ cho bề tôi khỏi lục đục và phục tùng. "Bởi vì ai mà biết dẹp một tình trạng rối loạn bằng một vài biện pháp cứng rắn làm gương, về sau tất sẽ có thể nhân từ hơn người lúc đầu quá khoan hồng, cứ để cho cái sảy nẩy cái ung, rồi kết quả là đi đến cướp đoạt và đổ máu làm tổn thương đến toàn thể xứ sở, trong khi ấy thì sự tàn ác của nhà vua chỉ gây thiệt hại cho những cá nhân". Machiavelli tuyên bố trong một đoạn văn nổi tiếng: "Do đó mới có vấn đề nên để cho dân yêu hơn là sợ hay là để cho dân sợ hơn là yêu. Chắc hẳn có người trả lời là phải làm sao vừa được yêu vừa được sợ : Song le yêu và sợ khó có thể đi đôi với nhau, cho nên, nếu buộc phải chọn lựa thì tốt hơn nên để cho dân sợ hơn yêu. Bởi vì con người nhiều khi vô ơn bội nghĩa, nông nổi, giả dối, chỉ biết lo tránh hiểm nguy, tham lam; chỉ hết lòng với ta khi ta còn có thể ban ơn cho họ; sẵn sàng nhảy vào lửa, hy sinh tài sản, sinh mệnh và con đẻ dứt ruột cho ta khi quyền lực vẫn nằm trong tay ta". Thật là hết sức trơ tráo mặc dù Machiavelli sau khi cân nhắc nặng nhẹ giữa yêu và sợ đã khuyên rằng : "Nhà vua phải hết sức tránh, đừng để cho thần dân oán ghét". Trong cuốn "Ông Hoàng" không có chương nào bị chỉ trích và lên án cho bằng chương 18 bàn về "bậc vua chúa giữ chữ tín cách nào". Sở dĩ tính từ "Machiavellian" có cái nghĩa xấu xa là vì chương này hơn là do những phần khác của cuốn này. Ở chương đó tác giả đồng ý rằng, giữ chữ tín thì đáng ngợi khen lắm, nhưng ông cũng cho rằng để duy trì quyền lực chính trị, lừa dối, giả đạo đức và bội tín là cần thiết và có thể tha thứ được. "Có hai cách chiến đấu, một là theo luật pháp, hai là dùng vũ lực. Phương pháp thứ nhất hợp cho loài người, phương pháp thứ hai thích hợp với thú vật. Nhưng bởi vì phương pháp thứ nhất thường không hiệu quả cho nên cần phải dùng đến phương pháp thứ hai. Vì thế nhà vua phải biết sử dụng cả hai cho khéo... Nhưng vì cần phải biết sử dụng cái thiên tính của con thú một cách thông minh, nhà vua phải chọn cả hai loại sư tử và cáo, vì sư tử không biết tránh cạm bẫy và cáo tại không thể tự vệ nổi trước bầy sói... Một ông vua khôn ngoan không cần và cũng không phải giữ lời khi vì chữ tín mà tự mình làm tổn thương mình và khi những nguyên nhân buộc phải hứa đã đổi thay. Nếu bản chất của tất cả mọi người đều tốt thì đó không phải là một lời khuyên tốt, nhưng vì thiên hạ lắm kẻ bất lương và không giữ lời hứa đối với nhà vua, thì ngược lại nhà vua cũng chẳng cần phải giữ chữ tín đối với họ, và cũng chẳng có một ông vua nào phải mất công tìm những lý do thỏa đáng để khỏa lấp một điều thất tín... Nhưng bản tính con người vốn chất phác, và vốn hoàn toàn bị chi phối vì những nhu cầu trước mắt đến nỗi ai muốn lừa dối họ, sẽ luôn luôn tìm thấy những kẻ sẵn lòng làm người chịu bịp... Như vậy, nên tỏ ra vẻ đại lượng, thủy chung, nhân đạo, mộ đạo và chính trực và cũng nên như vậy thực sự; nhưng tâm não phải giữ cho được thật cân bằng để khi cần không phải tỏ ra đại lượng, thủy chung, nhân đạo, mộ đạo và chính trực thì có thể và biết cách làm trái ngược lại... Mọi người chỉ thấy cái vỏ bề ngoài chứ ít kẻ thấy được cái bản chất thực của nhà vua." Machiavelli còn khuyến cáo là một ông vua cần phải tránh làm cho dân oán ghét hay khinh bỉ. Có hai phương pháp chính cho một ông vua chuốc lấy căm hờn đó là "tham lam và can thiệp vào tài sản và thê thiếp của con dân... Người ta khinh một ông vua lang chạ, phụ bạc, nhu nhược, nhút nhát hay do dự". Vả lại, nhà cầm quyền phải được lòng dân nhờ tự tay ban phát ân huệ và "để mặc cho các quan tòa trách nhiệm gia hình, và tất nhiên cách xếp đặt tổng quát mọi sự việc có thể gây ra bất mãn". Ngay cả những thành lũy cũng không cứu được một ông vua bị dân chúng thù ghét. Để chỉ dẫn nhà vua "về cách cư xử phải thế nào", Machiavelli đã tha thiết khuyên rằng: "… Một ông vua phải tỏ ra là một kẻ chuộng tài và phải cất nhắc những con dân nào tài giỏi trong mọi ngành nghề. Vì vậy có bổn phận khuyến khích làm cho họ được dễ dãi tiếp tục nghề nghiệp, bảo trợ con dân dù là trong ngành thương nghiệp, nông nghiệp hay bất cứ nghề nghiệp gì khác, để cho họ không bị xao lãng trong việc tô điểm thêm cơ nghiệp mà không sợ bị cướp đi mất, hoặc ngần ngại khuếch trương xí nghiệp vì sợ phải đóng thuế". Machiavelli đã tỏ ra rất mực cảm phục chế độ La Mã xưa và ông đã gợi lại hình ảnh chế độ ấy để khuyên nhà vua hãy "tìm cách cho dân chúng hưởng lạc qua các buổi lễ lạt và các cuộc trình diễn vào những mùa thích hợp trong năm". Machiavelli rất tin tưởng ở định mệnh và sự may rủi, có lẽ đó là một ảnh hưởng của thái độ chung thời ông đối với khoa chiêm tinh. Ông viết :"Tôi cho rằng có thể là vận mệnh đã làm chủ một nửa những hành động của chúng ta và để quyền kiểm soát một nửa hay non một nửa những hành động còn lại cho chúng ta". Tuy nhiên ông cũng chỉ tin vừa phải thuyết định mệnh thôi, vì ông cho rằng con người có thể ảnh hưởng được phần nào tới số mệnh và ông chủ trương "nên xông xáo hơn là thận trọng. Vì định mệnh cũng như một người đàn bà, muốn trị được, cần phải đánh đập và mạnh tay cương, và chúng ta thấy rằng định mệnh cũng như một người đàn bà, luôn luôn ưu đãi những người trẻ, vì họ ít câu nệ và liều lĩnh tàn bạo hơn; điều khiển với nhiều dũng cảm hơn". Cuốn "Ông Hoàng" được kết luận với chương "một lời hô hào để giải phóng nước Ý", một lời kêu gọi thức tỉnh lòng ái quốc. Thời của một vị tân quân đã tới, một vị "anh hùng nước Ý nào đó" đứng lên vì nước Ý trong "cái tình trạng khốn nạn hiện nay" bị nô lệ còn hơn dân Do Thái, bị áp bức còn hơn dân Ba Tư, chia rẽ còn hơn dân thành Athène không lãnh tụ, không trật tự, bị hành hạ, bóc lột, xâu xé ra từng mảnh nhỏ, bị chà đạp, và bỏ phế đến hủy diệt trong mọi lãnh vực... Chúng ta đã thấy nước Ý cầu nguyện Thượng đế ban cho một vị cứu tinh để cứu quốc gia này thoát khỏi mọi sự tàn bạo dã man và mọi áp bức ấy như thế nào. Chúng ta cũng thấy nước Ý đã sẵn sàng và sốt sắng ra sao để đi theo bất cứ tiêu chuẩn nào nếu có chỉ một người nào đó thôi nêu được tiêu chuẩn đó lên. Machiavelli đã chấm dứt lời thỉnh cầu hùng biện ấy trong những dòng sau : "Vì đó, cơ hội chót cho nước Ý nhận định người giải phóng không thể để cho trôi qua được Trong tất cả những tỉnh của nước Ý đã đau khổ vì bị tràn ngập quân ngoại bang, vị tân quân sẽ phải được tiếp đón với một tình cảm mến như thế nào, với một khát vọng phục hận như thế nào, lòng sùng bái và những giọt nước mắt như thế nào. Đó là điều tôi thấy không có một tiếng nào có thể diễn tả ra được. Còn có cánh cửa nào không mở ra để đón vị tân quân ấy ? Còn có người nào từ chối không phục tùng và còn có ai ganh ghét cản trở bước đường của vị ấy ? Còn có người Ý nào không tôn kính người ấy ?". Trên ba thế kỷ rưỡi đã trôi qua trước khi mộng của Machiavelli nhìn thấy một Quốc gia Ý thống nhất, thoát khỏi ách chiếm đóng và đô hộ của ngoại bang được trở thành sự thực. Những bản chép tay cuốn "Ông Hoàng" đã được lưu truyền trong khoảng thời gian Machiavelli còn sống và nhiều năm sau đó. Tới năm 1532, cuốn sách này đã được Đức Giáo Hoàng Clement VII chấp nhận cho xuất bản. Vị Giáo Hoàng này là người anh em họ của Ông Hoàng được tác giả đề tặng cuốn sách. Trong vòng hai mươi năm sau, cuốn "Ông Hoàng" đã được tái bản tới lần thứ hai mươi lăm. Cộng đồng Trent ra lệnh hủy diệt những tác phẩm của Machiavelli. Ở La Mã người ta tố cáo ông là một kẻ vô thần. Và ở đây cũng như ở mọi nơi khác bên Âu châu, người ta đã cấm lưu hành, tàng trữ những tác phẩm của ông. Ở Đức, các tu sĩ Dòng Tên đã đốt hình nộm của ông. Cả người Thiên Chúa giáo và người theo đạo Tin lành đều đua nhau lên tiếng chống ông. Vào năm 1559, tất cả những tác phẩm của Machiavelli đều bị liệt vào loại sách cấm. Mãi cho tới thế kỷ XIX, tiếng tăm của Machiavelli mới được bênh vực và biện minh phần nào. Những phong trào cách mạng ở châu Mỹ, ở Pháp, ở Đức và những nơi khác nữa đã gây ra khuynh hướng mạnh mẽ muốn thế tục hóa chính quyền, tách rời chính quyền với Giáo hội. Cuộc chiến đấu cho tự do của Ý đã đạt tới tột điểm thành công vào năm 1870, là nhờ nguồn cảm hứng của nhà đại ái quốc Ý Machiavelli. Trong một thiên tiểu luận rất sâu sắc, H.Douglas Gregory đã chứng minh rằng nhờ tuân theo những quy tắc của Machiavelli, nhà lãnh tụ Ý, Bá tước Cavour đã thống nhất được nước Ý và đuổi được kẻ xâm lăng, trong khi đó thì nếu theo bất cứ một bài học nào khác sẽ chỉ đem lại tai họa và thất bại. Các nhà độc tài và vua chúa chuyên chế trong mọi thời kỳ đều tìm được rất nhiều lời khuyên lợi ích trong cuốn "Ông Hoàng", điều ấy không thể chối cãi được. Bảng danh sách những độc giả say mê cuốn sách rất quan trọng : Hoàng đế Charles đệ ngũ và bà Catherine de Medicis đã tán thưởng tác phẩm. Oliver Cromwell đã kiếm được một bản "Ông Hoàng" chép tay và đã áp dụng những nguyên tắc của cuốn sách đó trong Chính phủ Cộng hòa Anh quốc. Hai ông vua Pháp Henry đệ ngũ và Henry đệ tứ lúc bị ám sát còn cầm cuốn "Ông Hoàng" trong tay. Cũng một cuốn sách đó đã giúp cho Fréderick Đại đế tạo ra chính sách của nước Phổ thời ấy. Vua Louis thứ 14 đã coi "Ông Hoàng" là cuốn sách gối đầu giường được ưa thích hơn hết. Người ta đã tìm thấy một cuốn "Ông Hoàng" có ghi những chú thích trong xe ngựa của Hoàng đế Napoléon ở Waterlo. Những ý kiến về cách cai trị của Napoléon đệ tam đã chính thức bắt nguồn cũng từ cuốn "Ông Hoàng", và Bismark cũng đã là một đệ tử trung thành của Machiavelli. Gần đây hơn nữa, cứ theo như chính lời của Hitler thì "Ông Hoàng" là nguồn cảm hứng thường xuyên của ông ta lúc nghỉ ngơi. Về phần Benito Mussolini, ông này đã từng tuyên bố : "Tôi tin rằng cuốn "Ông Hoàng" của Machiavelli phải là sách chỉ nam tuyệt tác của nhà chính khách. Học thuyết của tác giả ngày nay vẫn hợp thời vì trong vòng bốn trăm năm vẫn không có những gì là thay đổi sâu xa trong trí não người ta hay là trong những hoạt động của các quốc gia". (Về sau ý kiến của Mussolini đã thay đổi vì vào năm 1939 đảng Phát xít Ý đã cho liệt Machiavelli vào danh sách những tác giả tân và cựu bị cấm không được cho lưu hành). Mặt khác nhiều nhà phân tích các biến cố lịch sử sâu sắc đã viết rõ ràng rằng chung cục cuộc đời những nhà độc tài như Hitler, Mussolini thường là bi đát vì họ đã không chú ý đến hay là đã hiểu sai một số những nguyên tắc căn bản do Machiavelli đề ra. Những người nghiên cứu sâu xa học thuyết của Machiavelli đã đồng ý là không đọc đầy đủ cả hai tác phẩm "Luận bàn" (Discourses) và "Ông Hoàng" (The Prince) sẽ không thể hiểu được đầy đủ những ý tưởng của ông. Tác phẩm "Luận bàn" được Machiavelli hoàn thành trong vòng năm năm trời và cũng được xuất bản một năm cùng với cuốn "Ông Hoàng", là một tác phẩm công phu hơn nhiều. Người ta cho rằng có một sự khác biệt lớn giữa hai tác phẩm ấy. Đó là cuốn "Luận bàn" bàn về "cái phải thế" còn cuốn "Ông Hoàng" bàn về "cái là thế ". Cuốn "Ông Hoàng" được hoàn toàn dành cho những vấn đề của các vương quốc, tức là các quốc gia do những vị quốc vương đơn độc cai trị. Còn cuốn "Luận bàn" thì được bàn về những nguyên tắc cai trị phải được áp đụng ở những nước cộng hòa. Đọc và so sánh hai tác phẩm nói trên người ta phải giật mình mà kết luận rằng : Machiavelli là một người tin đặc biệt vào lý tưởng Cộng hòa. Ông không ưa gì chế độ chuyên chế và ông cho rằng một chính phủ tốt hơn hết là một chính phủ hòa hợp được các nguyên tắc cai trị của hai thể chế dân quyền và quân quyền. Không có nhà cầm quyền nào có thể yên vị nếu không chiếm được sự ủng hộ của dân chúng. Những quốc gia vững bền hơn hết là những quốc gia có những ông vua cai trị với những quyền hạn được hạn chế do hiến pháp. Như người ta đã nhận thấy, theo quan điểm của Machiavelli thì sự phán đoán của dân chúng rất trung thực, khi ông chỉ trích câu phương ngôn xưa : "Xây dựng trên dân chúng là xây dựng trên cát". Theo ông, chính phủ lý tưởng là chính phủ Cộng hòa La Mã xưa, như ông đã thường nhắc tới trong tác phẩm "Luận bàn". Như vậy thì tại sao Machiavelli lại viết tác phẩm "Ông Hoàng" khi ông cho rằng một chính phủ cộng hòa cho một quần chúng tự do là có giá trị hơn mọi thứ chính phủ khác ? Cuốn "Ông Hoàng" đã được viết ra cho một thời đặc biệt và cũng vì một số điều kiện đặc biệt nữa. Machiavelli đã chắc chắn nhận thức được rằng không thể thiết lập được chế độ cộng hòa cho có hiệu quả tốt ở nước Ý vào thế kỷ XVI. Ông Hoàng đã được viết ra vì mục đích duy nhất giúp cho một người hùng phương sách cứu dân Ý thoát ra khỏi cái tình trạng tuyệt vọng của họ và khỏi cái tình thế chính trị thối nát lúc bấy giờ. Phải đương đấu với cơn khủng hoảng trầm trọng lúc ấy, dân Ý không thể phân định quá tỉ mỉ thứ vũ khí có thể cứu được họ. Hiện nay vẫn còn có nhiều ý kiến rất dị biệt về Machiavelli mặc dù mọi cố gắng đã được thực hiện để khôi phục lại tên tuổi ông. Tình trạng do Giuseppe Prezzolini mô tả vài năm trước đây vẫn còn thịnh hành: "Bây giờ chúng ta có Machiavelli của các tu sĩ Dòng Tên, một kẻ thù của Giáo hội, Machiavelli của các nhà ái quốc, Đấng cứu thế của một nước Ý thống nhất và của dòng họ cai trị Savoy, Machiavelli của quân phiệt, tiền phong của quân đội quốc gia, Machiavelli của các triết gia đã sáng tạo ra một đường lối tư tưởng mới, tinh thần thực tiễn; và Machiavelli của những nhà văn, chiêm ngưỡng lối hành văn mạnh mẽ và cú pháp táo bạo của ông. Và tất cả những Machiavelli ấy đều là chính đáng cả". Thật khó mà chối cãi được rằng không có ai trước Karl Marx lại có một ảnh hưởng cách mạng tới tư tưởng chính trị như là Machiavelli. Ông xứng đáng được tặng danh hiệu "Nhà sáng lập môn chính trị học". 2. LƯƠNG TRI Thomas Paine Không một người bình thường nào đã tiên đoán được cái tương lai rực rỡ của Thomas Paine, khi ông tới châu Mỹ vào năm ba mươi bảy tuổi. Cho tới tuổi ấy đời ông chỉ là một chuỗi những thất bại và thua thiệt. Công việc nào ông bắt tay vào làm cũng đều đi đến kết quả không ra gì. Vì lý do nào chỉ trong vòng một ít năm, mà Thomas Paine, một người di cư vừa mới đặt chân tới Tân Thế giới lại nổi danh là một trong những tác giả Anh ngữ xuất sắc hơn hết ; một trong những nhân vật được tranh luận hơn hết trong lịch sử Hoa Kỳ ; một tay phiến động và là một cách mạng gia mà ai cũng biết tên tuổi ; người ta sợ và ghét, hoan hô và ca ngợi tận hang cùng ngõ hẻm tất cả những thuộc địa Anh ở châu Mỹ, ở Anh và cả ở Tây Âu nữa ? Hình như cuộc hành trình qua đại dương đã ảnh hưởng tới việc biến đổi kỳ dị con người và tính tình của ông đầu hôm sớm mai từ một kẻ tầm thường biến thành một thiên tài. Tuy nhiên nếu nhìn trở lại chuỗi ngày ấu thơ của Paine ta sẽ thấy rõ là thật ra thời kỳ ấy không phải bỏ đi mà đó là một cách chuẩn bị cho cuộc đời mới của ông. Ông sinh ở Thetford, một quận ở Norfolk thuộc miền Đông nước Anh, vào ngày 29 tháng Giêng năm 1737. Cha ông là một tín đồ giáo phái "Quaker", còn mẹ ông theo Anh giáo. Ngay khi vào đời, ông đã nếm cảnh cùng cực thiếu thốn và làm việc nặng nhọc. Cho đến năm mười ba tuổi, Thomas Paine theo học một trường trung học. Theo lời ông thì chính tại trường này, ông đã "hấp thụ được một nền giáo dục thật là tốt và một số kiến thức hữu ích đáng kể". Thực hành vốn trái ngược với lý thuyết - nên tài linh mẫn về khoa học và phát minh của ông đã nổi bật lên ngay từ hồi đó và ông vẫn giữ được tài năng ấy qua suốt cả cuộc đời bận rộn. Sau thời kỳ giáo dục ngắn ngủi ấy, Paine bắt đầu tập sự học nghề của cha làm áo nịt phụ nữ. Ba năm học nghề; rồi phần thì vì cái quyến rũ của biển khơi, phần vì quá chán ngán công việc buồn tẻ đương làm, ông đã trốn khỏi nhà để đăng vào đoàn thủy thủ tàu cướp biển "Nỗi kinh hoàng" (Terrible) do một viên thuyền trưởng có cái tên ghê gớm là Tử Thần chỉ huy. Được cha giải thoát, ông lại trở về tiếp tục nghề cũ cho tới năm mười chín tuổi. Rồi ông lại lao mình đăng vào đoàn thủy thủ tàu "Hoàng đế nước Phổ", cũng một tàu cướp biển, trong một thời gian ngắn. Rồi khi đã chán cái quan niệm lãng mạn về đời thủy thủ, ông lại trở về tiếp tục nghề cha, nhưng lần này thì ở London chứ không ở Thetford như trước nữa. Cửa tiệm ông giúp việc lần này ở gần Drury Lane. Lúc nhàn rỗi, ông đi dự các lớp thuyết giảng về thiên văn học. Tiếp đó là những năm buồn lo, bối rối, lạc lõng. Ở Sandwich, ông lập gia đình với một cô hầu mồ côi mẹ, nhưng chưa được một năm thì người vợ này chết. Nhạc phụ ông làm nghề thu thuế công quản; và Paine cũng bị lôi cuốn vì cái nghề này dành cho ông nhiều nhàn rỗi và nhiều lợi ích khác. Paine được thu nhận làm một viên chức sở thuế công quản. Thật không còn gì làm mất bè bạn và cảm tình một cách chắc chắn hơn nữa vì nghề của ông là bắt bọn buôn lậu, và kẻ giàu, người nghèo cũng đều chống lại ông cả. Sau khi bị cất chức vì thiếu tinh thần không thi hành luật lệ được nghiêm chỉnh, ông đã trở lại nghề làm áo nịt trong một thời gian ngắn, rồi lại xoay qua dạy học với một số lương đói rách là 25 bảng Anh một năm ở Kensington. Được sở thuế công quản tái tuyển dụng, ông tục huyền vào năm 1771 và theo vợ cùng bà nhạc về làm việc trong một hiệu bán tạp hóa và thuốc lá ở Lewes, để tăng thêm thu nhập. Trong mấy năm này, Paine đã dành nhiều thì giờ để lui tới nhà White Hart Tavern, tham dự những buổi hội họp ở một câu lạc bộ xã hội với tư cách là hội viên. Với mục đích xây dựng ông đã sáng tác những vần thơ châm biếm và những bài ca ái quốc, và có khi lại viết những bài báo về những vấn đề đứng đắn hơn, ông cũng thường hay tranh luận sôi nổi về những vấn đề hàng ngày. Vì ông có tài ăn nói nên các đồng nghiệp của ông đã đề cử ông làm phát ngôn viên cho họ nhân một dịp đòi tăng lương và cải thiện điều kiện làm việc. Paine đã dành nhiều tuần lễ sau đó để chuẩn bị một bản điều trần nhan đề : "Tình trạng lương bổng của các nhân viên sở thuế công quản và ý kiến về sự thối nát bởi cái nghèo túng của nhân viên sở thuế công quản". Vào mùa đông năm 1772 - 73 , Paine đã đi London để trình bản thỉnh nguyện với các nghị sĩ quốc hội và các viên chức khác. Nhưng chẳng những bản thỉnh nguyện bị bác bỏ mà Paine còn bị sa thải luôn với lý do là đã sao lãng bổn phận; cửa hàng bán thuốc lá bị vỡ nợ, đồ đạc, và vật dụng riêng của Paine được đem bán để cứu ông thoát tù vì nợ, và ông phải rời xa vợ ông. Thế là gần trung niên, ông lại phải sống cô độc không một đồng dính túi. May mắn là trong thời kỳ Paine lưu trú ở London, ông đã gặp Benjamin Franklin lúc ấy đang làm ủy viên đại diện các thuộc địa Anh ở Hoa Kỳ. Có thể là vì đã nhận thấy thiên tài của Paine nên Franklin đã thuyết phục Paine hãy sang châu Mỹ thử thời vận. Franklin viết cho con rể là Richard Bache ở Philadelphia giới thiệu Paine là "một thanh niên tháo vát có giá trị", Franklin cũng đề nghị nên dùng Paine đứng bán hàng, làm phụ giáo trong một trường học, hay làm một phụ tá giám thị. Lá thư của Franklin là vốn liếng chính của Paine khi ông đặt chân đến Philadelphia vào đầu tháng Chạp năm 1774. Tuy nhiên Paine cũng đã đem theo một thứ vốn liếng loại khác quý vô giá. Đó là kinh nghiệm bản thân. Ông đã biết ở bên Anh công lý đã được áp dụng tàn ác như thời cổ xưa như thế nào; ông cũng đã biết cái nghèo hèn ty tiện; ông cũng đã từng được nghe và đã từng đọc nhiều về quyền tự nhiên của con người, ông cũng đã thấy cái hố sâu phân cách hàng triệu dân thường với con số vài ngàn tôn thất và quý tộc ở bên Anh, và ông cũng biết kế hoạch bầu cử vào thứ dân nghị viện Anh ở địa phương thối nát ra sao; ông cũng không lạ gì sự đồi trụy và ngu ngốc của vương thất bên Anh lúc ấy. Vì đã suy nghĩ kỹ càng về những vấn đề đó nên Paine đã có một tấm lòng trắc ẩn sâu xa đối với nhân loại, một lòng yêu chế độ dân chủ và phải khuyến khích thúc đẩy để đạt tới một công cuộc cải cách chính trị và xã hội toàn diện. Ngay sau khi tới Philadelphia, Paine đã được một tờ báo mới ra đời lúc ấy là tờ Pensylvania Magazine mời làm chủ bút và ông đã giữ chức vụ này gần suốt mười tám tháng là quãng thời gian tờ báo này sống được. Và gần như ngay lúc ấy, nhờ xuất bản một bản tiểu luận lên án tình trạng nô lệ của người da đen và mạnh mẽ ủng hộ công việc giải phóng những người nô lệ này, Paine đã đột nhiên mở đầu cho cái công nghiệp lâu dài chiến đấu để bảo vệ công lý của ông từ đấy trở đi. Năm tuần lễ sau, một hội những người Hoa Kỳ đầu tiên chống chế độ nô lệ đã được thành lập ở Philadelphia. Tiếp theo đó ông đã tham gia vào công việc đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ, đề nghị những đạo luật quốc tế quy định bản quyền của các tác giả, tố cáo những tàn ác đối với loài vật, chế giễu tập tục đấu gươm hay đấu súng, và đòi bãi bỏ chiến tranh để thay vào đó bằng đàm phán mỗi khi có bất hòa giữa các quốc gia. Tuy nhiên chính giữa lúc ông viết những điều trên thì ông cũng không thể không đóng một vai trò quan trọng, một cuộc chiến tranh quốc tế đang lan rộng nhanh chóng. Những trận đánh ở Concord, Lexington và ở đồi Bunker đã diễn ra vào mùa xuân 1775. Sau "cuộc tàn sát ở Lexington" vào tháng Tư, Paine đã viết cho Bejamin Franklin như sau : Tôi thấy thật khổ tâm khi phải nghe đạn lửa tàn phá quốc gia réo bên tai đúng lúc tôi đặt chân tới. Ở mười ba thuộc địa của Anh tại châu Mỹ, người ta rất chia rẽ về thái độ cần phải theo lúc ấy, đi từ thái cực này sang thái cực khác. Người như Samuel Adams và John Hancock thì ủng hộ chiến tranh, còn nhóm bảo thủ lại vẫn trung thành với vua nước Anh. George Washington, Benjamin Franklin và Thomas Jefferson thuộc nhóm các lãnh tụ vẫn xác nhận lòng trung thành với nước Anh và tỏ ra không mấy tin ở ý tưởng phân ly và độc lập. Cả hai đệ nhất và đệ nhị Đại lục Quốc hội đều chấp nhận những quyết định xác nhận lòng trung thành của họ đối với Vương quyền, và chỉ thỉnh cầu được thanh thỏa những yêu sách của họ. Ngay giữa những luồng tư tưởng bất nhất, giữa sự xung đột của các quan niệm và xúc động, giữa sự lôi kéo và giằng co ấy, có một người đã nhận thấy rõ ràng chiều hướng và kết quả có thể xảy ra của các biến cố. Ngay từ đầu, Thomas Paine đã quan niệm cuộc phân ly giữa Anh và Hoa Kỳ là không thể tránh được. Ông đã dành cả mùa thu năm 1775 để ghi lại những ý tưởng của ông. Trước khi xuất bản, Paine đã đưa tác phẩm của mình cho nhiều bè bạn đọc; một trong những người bạn của ông là bác sĩ Benjamin Rush đã đề nghị nên đề tựa là Lương Tri - (Common Sense) - và đã giúp Paine tìm một nhà xuất bản. Đó là Robert Bell gốc người Scotland vừa là một nhà bán sách, vừa là chủ nhà in, ở Philadelphia. Cuốn Lương Tri ra đời ngày 10 tháng Giêng năm 1776, "do một người Anh viết ra"; đó là một cuốn sách nhỏ dày bốn mươi bảy trang giá hai shilling. Trong vòng ba tháng, 120.000 ấn bản đã được bán ra, và tổng cộng số tiền thu được ước lượng lên tới nửa triệu, một tỷ lệ bán trong dân chúng tương đương với số 30 triệu ấn bản ở Hoa Kỳ ngày nay. Rất có thể là tất cả những người trí thức đương thời ở mười ba thuộc địa đã đọc cuốn sách ấy. Mặc dầu số sách lớn lao đã bán được, Paine quyết định không nhận một đồng tiền bản quyền nào. Không bao giờ trong lịch sử văn học có một cuốn sách ngay sau khi xuất bản đã có ảnh hưởng sâu rộng có thể so sánh được với cuốn Lương Tri. Đó là một tiếng kèn kêu gọi những dân Mỹ thuộc địa chiến đấu cho nền độc lập của xứ sở họ - không hòa giải, không do dự. Paine đã chỉ cho họ thấy là chỉ có cách mạng mới là giải pháp độc nhất để giải quyết vấn đề tương tranh giữa họ với nước Anh và Hoàng đế nước Anh George III. Paine đã tuyên bố : "vì không có gì khác nữa ngoài sự tương tranh, vậy thì, vì Thượng đế, chúng ta hãy chia tay nhau hẳn. Phải chăng chúng ta đã trả quá đắt cái giá đòi thủ tiêu những sắc luật, nếu đó là tất cả những lý do chiến đấu... Trả với cái giá một trận đánh ở đồi Bunker vì luật pháp hay vì đất đai là quá điên rồ... Đó không phải là việc riêng của một thành phố, một quận, một tỉnh hay là một vương quốc, mà là của một đại lục… Đó không phải là việc làm trong một ngày, một năm hay một thời đại; cả hậu thế cũng bị liên hệ trong cuộc tranh đấu ấy... Bây giờ là lúc gieo hạt giống cho tình đoàn kết giữa lục địa, cho niềm tin và danh dự... Dây liên lạc giữa lục địa quá lỏng lẻo... Độc lập là dây liên lạc duy nhất ràng buộc chúng ta lại với nhau". Đây là một đoạn giới thiệu cuốn Lương Tri tương đối ôn hòa: "Có thể những tình cảm nói tới trong những trang sau đây chưa được hợp thời cho lắm để được mọi người tán thưởng; nếu đã từ lâu chúng ta không cho một điều nào đó là sai thì cái thói quen đó sẽ làm cho ta thấy điều sai kia có cái vẻ bên ngoài đúng và thói quen đó sẽ khiến chúng ta lớn tiếng hò hét bênh vực cho phong tục. Nhưng rồi sự xôn xao ấy sẽ sớm lắng dần xuống. Thời gian làm cho người ta thay đổi ý kiến nhiều hơn là lẽ phải". Phần đầu cuốn sách nhỏ này luận về nguyên thủy và bản chất của chính quyền với sự ứng dụng đặc biệt vào hiến pháp của nước Anh. Triết lý về chính quyền của tác giả đã được diễn tả ra trong một số những câu đại loại như sau: "Chính quyền, ngay cả khi ở một tình trạng tốt đẹp hơn hết, cũng chỉ là một thứ tội ác cần thiết...; ở tình trạng tồi tệ hơn hết thì chính quyền ấy ở thế không thể dung thứ được. Chính quyền, cũng như y phục, là biểu hiện của tình trạng ngây thơ đã mất; cung điện của vua chúa đã được xây dựng trên những căn lều đổ nát nơi thiên đường... Văn minh càng hoàn hảo bao nhiêu thì nền văn minh ấy càng ít có dịp có một chính quyền hoàn hảo bấy nhiêu". Paine lý luận là nguồn gốc và nguyên ủy của chính quyền đã "vì thế giới không cai trị được bằng đức hạnh, mà trở nên cần thiết; đây cũng là mục đích của chính quyền, tức là tự do và an ninh". Giữa xã hội và chính quyền có một dị biệt sâu sắc. Con người bị lôi cuốn vào xã hội, vì qua sự hợp tác với người khác, một số nhu yếu cần thiết của con người có thể được thỏa mãn. Trong tình trạng này, con người có một số quyền tự do bình đẳng. Đúng lý tưởng thì con người phải được sống trong hòa bình và hạnh phúc mà không có chính phủ, nếu như những "xúc động của lương tâm" được "trong sáng, thuần nhất, và được tuân theo một cách không cưỡng lại được". Vì con người vốn hèn yếu và bất toàn trên phương diện đạo đức nên mới cần đến một quyền thế để kìm hãm họ lại; và quyền thế đó là do chính quyền mà có. Tuy nhiên an ninh, tiến bộ và niềm an ủi của con người lại lệ thuộc vào xã hội nhiều hơn là vào chính quyền. Tập quán và phong tục xã hội, mối liên lạc và quyền lợi giữa người với người có ảnh hưởng mạnh hơn là những thể chế chính trị. Sau đó Paine đã "trình bày một vài nhận xét về hiến pháp mà người Anh vốn lấy làm tự hào". Ông phê bình như sau : "Phải nhìn nhận rằng hiến pháp ấy đã là cao thượng vì được quy định vào giữa một thời kỳ nô lệ và đen tối. Khi bạo lực chà đạp thế gian thì chỉ một sự thoát ly nhỏ nhoi khỏi bạo lực ấy cũng đã là một cứu rỗi vẻ vang rồi. Nhưng có thể chứng minh dễ dàng cái bất toàn, và cái mầm rối loạn trong hiến pháp ấy cũng như không thể thực hiện được những gì mà có vẻ đã hứa hẹn". Để được coi là bổn phận chính yếu của chính quyền tức là trách nhiệm, thì Paine lại cho là hoàn toàn không có trong hiến pháp Anh. Hiến pháp ấy phức tạp đến nỗi thật không thể nào xác định được ai là kẻ chịu trách nhiệm về bất cứ một điều gì. Phần độc nhất đáng ca ngợi trong hiến pháp ấy là quyền của người dân Anh, ít nhất là trên lý thuyết, là được cử người vào Hạ nghị viện. Paine đề nghị một chế độ có một quốc hội lập pháp được bầu cử theo thể thức dân chủ cho các thuộc địa [1] một Tổng thống và một nội các, với ngành hành pháp chịu trách nhiệm trước quốc hội. Nhưng Paine đã dành cho thể chế quân chủ kế thừa những lời lẽ phũ phàng hơn hết và niềm khinh bỉ đau độc hơn hết. Ông tấn công toàn thể nguyên tắc của chế độ quân chủ, và đặc biệt là thể chế quân chủ nước Anh. "Chế độ quân chủ trước hết được những kẻ dị giáo đưa vào thế giới; rồi dân Do Thái (Israel) rập theo tập tục ấy. Đó là một phát minh thành công hơn hết của ma quỉ để dẫn dắt đến sự tôn thờ ngẫu tượng. Người dị giáo thần thánh hóa những ông vua đã qua đời của họ. Chúng ta đã đem cái tội ác thừa kế nối ngôi ghép thêm vào cái tội ác quân chủ chế độ. Và khi cái tội ác quân chủ chế độ là một bại hoại và hạ thể chúng ta thì tội ác thừa kế nối ngôi được đòi hỏi như một vấn đề chính nghĩa, lại là một xỉ nhục và bắt buộc đối với hậu thế... Một trong những chứng cớ tự nhiên chắc chắn hơn hết về cái điên rồ của quyền thừa kế ngôi vua là Tạo hóa đã bài bác quyền ấy. Tạo hóa đã chẳng thường đem quyền ấy ra mà giễu cợt khi khiến cho các vua chúa sinh ra những kẻ thừa kế bất tài, bạc nhược sao ?" Trong con mắt Paine, quyền thừa kế ngai vàng ở Anh thật đáng nghi ngờ nếu đi ngược dòng thời gian tới thời kỳ nước này bị chinh phục. Ông đã viết :"Một đứa con hoang người Pháp, đã đổ bộ lên với một bầy cướp võ trang rồi tự lập làm vua nước Anh dù không có sự đồng tình của dân bản xứ, nói đúng ra chỉ là một kẻ lừa bịp láo lếu. Chắc chắn là không làm gì có chuyện thiên mệnh ở đây". Nếu chế độ quân chủ bảo đảm chỉ sản xuất ra có những con người tốt và khôn ngoan, thì cũng chẳng có gì là đáng trách cứ, nhưng chế độ ấy đã mở cửa cho những kẻ ngu ngốc, những kẻ tàn ác và những kẻ không xứng đáng... người nào tự coi mình như sinh ra để mà trị vì, còn những kẻ khác sinh ra để tuân lệnh, sẽ sớm trở thành ngạo mạn; được tuyển chọn ưu đãi trong đa số nhân loại, còn lại đầu óc họ sẽ sớm bị đầu độc vì địa vị... Khi lên nắm chính quyền, thường thường họ là những kẻ ngu dốt hơn ai hết, và không thích đáng với địa vị hơn ai hết trong suốt bờ cõi. Để cho những ông vua còn nhỏ tuổi hay quá lão ngự trị trên ngai vàng cũng tạo ra vô vàn điều bất hạnh; trong trường hợp trước, thực quyền cai trị đất nước ở trong tay một nhà nhiếp chính, và trong trường hợp sau, quyền ấy lại lệ thuộc vào tính tình bất nhất của một ông vua quá già, suy nhược. Để chống lại lập luận cho rằng chế độ quân chủ thừa kế ngăn ngừa được nạn nội chiến, Paine đã nhấn mạnh là từ ngày bị thôn tính, Anh đã trải "không dưới tám lần nội chiến và mười chín cuộc nổi loạn". Ông kết luận: Ở Anh - một ông vua chả có gì để làm hơn là gây chiến và làm mất đất, nói nôm na là đã làm nghèo quốc gia và gây ra những mối bất hòa ở trong nước. Thật là một chuyện tốt đẹp cho một người mỗi năm được lĩnh tám trăm ngàn bảng Anh và lại còn được tôn thờ luôn nữa! Đối với xã hội và Thượng đế, một người lương thiện còn có giá trị nhiều hơn là tất cả những tên vua chúa bất lương từ trước đến nay. Trong nhiều đoạn Paine đã đặc biệt gắt gao chua chát đối với Hoàng đế Georges đệ tam. Sau trận tàn sát ở Lexington, ông viết :"Tôi không nhìn nhận tên Hoàng đế Pharaông này của nước Anh, một ông vua có tâm tính chai đá, cau có; tôi khinh cái kẻ vô hạnh, với cái danh hiệu giả mạo; Cha của thần dân đã có thể bình tâm nghe con dân bị tàn sát, và vẫn ngủ yên được với máu của họ trong lương tâm". Trong một đoạn sau ông thêm :"Có người hỏi : Còn vua Mỹ thì ở đâu ? Tôi sẽ trả lời bạn là ông ấy ngự trị ở trên và không gây tai họa gì cho nhân loại như là tên hôn quân ở nước Anh". Sau khi đã phát biểu mạnh mẽ những ý tưởng bình dân về một chính thể quân chủ, Paine đã đề cập đến "Một vài ý nghĩ về hiện trạng doanh thương Mỹ". Ông đã nhấn mạnh vào những nhân chứng kinh tế để chủ trương phân ly với nước Anh. Về chủ trương của nhóm Tories[2] cho rằng châu Mỹ đã phát triển nhờ mối liên hệ với Anh, Paine đã trả lời: "Châu Mỹ cũng đã phát triển như hiện nay và chắc chắn là hơn thế nữa, nếu không còn một quốc gia châu Âu nào có bất cứ một liên quan gì với châu Mỹ. Những sản phẩm thương mại nhờ đó châu Mỹ trở nên giàu có được, là những nhu yếu của đời sống, luôn luôn sẽ có thị trường khi mà dân châu Âu vẫn còn cần ăn... Lúa mì của chúng ta sẽ bán được giá trên bất cứ một thị trường châu Âu và những thứ hàng hóa mà chúng ta phải bỏ tiền ra nhập cảng, chúng ta sẽ mua ở nơi nào chúng ta muốn". Paine đã bác bỏ luận điệu cho rằng Anh đã che chở cho thuộc địa của mình chống lại người Tây Ban Nha, người Pháp và người da đỏ với lời bình luận như sau: "Nước Anh có thể sẽ bảo vệ nước Thổ Nhĩ Kỳ vì những lý do tương tự là để bảo vệ an toàn cho nền thương mại và thuộc quốc của mình", và trong bất cứ trường hợp nào, sự bảo vệ ấy cũng được thực hiện bằng "tiền của chúng ta cũng như là tiền của nước Anh". Paine thừa nhận là một trong những dây liên lạc bền chặt hơn hết đã ngăn cản Hoa Kỳ phân ly với nước Anh là cái quan niệm đầy tình cảm coi nước Anh như một mẫu quốc. Nếu đúng như thế, thì "hành vi kia của nước Anh lại càng thêm sỉ nhục hơn nữa. Ngay các thú dữ cũng không ăn thịt con, và ngay cả đến những dân mọi rợ cũng không khai chiến với chính gia đình họ... Từ ngữ quốc gia họ hàng hay mẫu quốc đã được Hoàng đế Anh và bọn thần tử ký sinh giả nhân giả nghĩa chấp dụng, với cái hậu ý thấp kém là để gây một ảnh hưởng bất chính đối với lòng dễ tin của chúng ta. Châu Âu là quốc gia bà con của châu Mỹ, chứ không phải nước Anh". Ông nhấn mạnh rằng Tân thế giới đã từng là "nơi trú ngụ cho những người ở khắp cả châu Âu bị ngược đãi vì yêu chuộng quyền tự do công dân và tự do tín ngưỡng. Ngay tại tỉnh này cũng không có tới một phần ba dân số thuộc dòng giống người Anh. Vì vậy, tôi cả quyết cho rằng từ ngữ nước mẹ hay nước anh em chỉ áp dụng cho nước Anh là sai lầm, ích kỷ, thiển cận và hẹp hòi". Paine cho rằng có rất nhiều điểm bất lợi trong việc tiếp tục liên hệ với nước Anh. Và ta đã thấy được trong đoạn ông viết sau đây một phần nào ý kiến mà sau này được diễn tả ra qua lời cảnh cáo của George Washington, đó là phải "sáng suốt trong đường lối liên minh thường xuyên với bất cứ miền nào trên thế giới hải ngoại" và qua chính sách của Thomas Jefferson như sau "Hòa bình, mậu dịch, và tình bạn chân thật với tất cả mọi quốc gia - không liên kết riêng với bất cứ một quốc gia nào". "… Vì, bất cứ sự tùng phục hay sự lệ thuộc nào vào nước Anh cũng đều lôi cuốn thẳng lục địa này vào những cuộc chiến tranh và tranh chấp ở châu Âu, và sẽ gây ra cho chúng ta những mối bất hòa với những quốc gia khác đang tìm cách kết thân với chúng ta. Đối với những quốc gia ấy, chúng ta chẳng giận hờn cũng chẳng phiền trách. Vì châu Âu là thị trường mậu dịch của châu Mỹ, vậy chúng ta phải tránh những liên hệ thiên vị với bất cứ phần đất nào ở đó. Quyền lợi chính của châu Mỹ là tránh xa khỏi những cuộc tranh chấp ở châu Âu. Điều mà chúng ta không bao giờ có thể làm được vì sự phụ thuộc với Anh, là chúng ta phải nghiêng về phía nước Anh để làm tăng giá trị cho chính sách của quốc gia này. Châu Âu khó có hòa bình lâu dài vì chế độ vương quốc đã bắt rễ quá đậm ở đây, và khi xảy ra chiến tranh giữa nước Anh với bất cứ một quốc gia nào, nền thương mại của châu Mỹ sẽ sụp đổ, vì châu Mỹ liên hệ với Anh. Những điều bất tiện lợi nhiều vô kể trong guồng máy chính quyền Anh, sau khi được kiểm điểm lại, Paine kết luận: "Anh không đủ sức thi hành công lý ở cái đại lục này, công việc ấy sẽ sớm trở thành nặng nề và rắc rối khó có thể điều hành cho có kết quả khả quan được, nếu quyền lực ấy xa chúng ta quá và không hiểu gì về chúng ta cả; vì nếu quốc gia ấy không thể chinh phục ta được, ắt họ không thể cai trị ta được. Gửi một bản báo cáo hay một bản thỉnh nguyện đi một nơi xa hàng ba, hay bốn ngàn hải lý, rồi đợi chờ tới bốn hay năm tháng mới nhận được trả lời, rồi cần phải tới năm hay sáu tháng nữa để giải thích; chỉ trong vài năm sự việc này thành điên rồ và ngây ngô... Cho rằng một hải đảo sẽ vĩnh viễn cai trị một đại lục thì thật là phi lý. Chưa bao giờ ta thấy có trường hợp một vệ tinh lại lớn hơn là một hành tinh chính của nó". Đối với những người hoài nghi và yếu bóng vía còn tin là Hoa Kỳ vẫn có thể sống hòa nhịp và hòa giải với Anh được, Paine đã viện đến những lý lẽ cảm động như sau: "Bạn có thể trả lại cho chúng tôi quãng thời gian đã qua đi không ? Bạn có thể hoàn lại cái trong trắng thuở ban đầu cho một cô gái điếm không ? Cũng như bạn sẽ chẳng thể nào hòa giải được nước Anh và châu Mỹ. Bây giờ sợi dây cuối cùng đã đứt rồi, dân ở Anh đang chống lại chúng tôi rồi. Có những sự tổn hại mà tạo hóa không thể tha thứ được; vì nếu tạo hóa có thể tha thứ được những tổn hại ấy thì tạo hóa không còn là tạo hóa nữa. Cũng giống như một người đã yêu không tha thứ cho kẻ đã cướp mất người tình của mình thì đại lục này sao lại tha thứ được cho những người Anh sát nhân! Trong khi áp bức còn đè nặng lên thế giới bên ngoài, châu Mỹ phải mở rộng cánh cửa tự do và sửa soạn một nơi ẩn trú cho những người bị ngược đãi". Paine đã dành chương cuối cùng cuốn sách nhỏ của ông cho một vài nhận xét rất thực tế về "khả năng hiện thời của châu Mỹ", nhằm phác họa công trình xây dựng lòng tự tin của người Mỹ và thuyết phục họ rằng họ có nhân lực, kinh nghiệm chế tạo và nguyên liệu thiên nhiên chẳng những đủ để đánh bại được Anh mà nếu cần còn thắng được cả thế giới thù địch chống lại họ nữa. Hoa Kỳ hồi đó còn là thuộc địa đã có một đạo quân lớn được võ trang và có kỷ luật. Chỉ trong một thời gian ngắn, người ta có thể kiến tạo một hạm đội so sánh được với Anh vì nhờ có một số lượng đáng kể như dầu chai, cây, sắt và dây nhợ , và "Đóng tàu là cái tài mà Mỹ vẫn lấy làm hãnh diện hơn hết, nên sớm muộn rồi Mỹ cũng sẽ vượt được toàn thế giới". Một hạm đội là một điều cần thiết trong bất cứ trường hợp nào, để phòng thủ và bảo vệ, vì lẽ hạm đội Anh "ở cách xa đây ba hay bốn ngàn hải lý đã tỏ ra rất ít hứa hẹn và trong những trường hợp bất ngờ, thì lại hoàn toàn vô hiệu". Về sau Paine bị lôi cuốn vào những cuộc tranh luận về tôn giáo. Ghi lại quan điểm của Paine về vấn đề tôn giáo ở giai đoạn này trên đường sự nghiệp của ông là một điều lợi ích: "Về vấn đề tôn giáo thì tôi chủ trương rằng bổn phận thiết yếu của tất cả mọi chính phủ là phải che chở tất cả mọi tín ngưỡng, và tôi thấy không còn việc nào mà một chính phủ lại cần phải làm hơn là việc ấy nữa. Một luận chứng có vẻ như muốn chống lại một Giáo hội được thiết lập và có chủ trương phân quyền giữa Giáo hội và quốc gia... Riêng tôi thì tôi hoàn toàn tin tưởng một cách có ý thức là sở dĩ có những dị biệt về quan niệm tôn giáo ở giữa chúng ta là vì đó là phạm vi Đấng Toàn Năng : điều đó làm cho phạm vi lòng nhân ái của đạo Ki-tô chúng ta trở thành rộng lớn hơn. Nếu chúng ta chỉ biết suy tưởng có một chiều, thì khuynh hướng tôn giáo của chúng ta sẽ cần phải được thử thách, chứng minh; và trên nguyên lý tự do ấy, tôi thấy tên các loại tôn giáo khác nhau giữa chúng ta cũng giống như tên các đứa trẻ trong một gia đình, có khác là điểm tên thánh mà thôi". Tóm lại những lý do khiến ông tin tưởng là "không có gì giải quyết được nhanh chóng những vấn đề của chúng ta cho bằng một bản tuyên ngôn độc lập rõ ràng và dứt khoát", Paine đã viện ra bốn yếu tố để kết luận cuốn Lương tri: 1. Bao lâu mà Hoa Kỳ còn bị coi là thuộc quốc của Anh thì sẽ không có một quốc gia nào khác lại có thể đứng ra hòa giải những mối bất hòa giữa Anh và Hoa Kỳ; 2. Nước Pháp hay Tây Ban Nha sẽ chẳng giúp Hoa Kỳ để nối kết lại sự đứt đoạn và siết chặt lại mối bang giao giữa Hoa Kỳ và Anh, vì làm như thế sẽ thiệt hại cho quyền lợi của quốc gia họ; 3. Khi người dân Mỹ nhìn nhận mình là thần dân của Anh thì những quốc gia khác sẽ coi họ như là những kẻ phiến loạn, và do đó chỉ được ít cảm tình cho họ; 4. Kết quả sẽ cực kỳ tốt đẹp nếu dân Mỹ lập một bản tuyên ngôn nói rõ sự bất bình và ý định cắt đứt mọi liên hệ với Anh để gửi tới tất cả mọi quốc gia khác, bày tỏ ý chí hoà bình thân thiện và sự mong muốn thiết lập bang giao thương mại với các quốc gia ấy. Để kết luận, Paine vẫn chủ trương là... …Cho đến khi độc lập được tuyên bố, Hoa Kỳ sẽ vẫn cảm thấy như một người cứ lần lữa hoãn lại hết ngày này sang ngày khác một công việc khó chịu, tuy vẫn biết là việc đó phải giải quyết; vẫn ghét bắt tay vào việc; mà vẫn mong cho việc đó xong đi, và vẫn cứ luôn luôn bị ám ảnh vì những ý tưởng của công việc cần thiết đó. Vì vậy, thay vì nhìn nhau e ngại nghi ngờ, mỗi người trong chúng ta hãy chìa bàn tay thành thật thân hữu cho người láng giềng của ta và đoàn kết lại để vạch ra một đường lối, một đường lối được coi như là một cử chỉ vị tha, sẽ chôn vùi trong lãng quên tất cả mọi bất hòa trước. Hãy để cho cái tên đảng Tự do và đảng Bảo thủ tàn lụi đi. Và chúng ta chớ nên để lọt vào tai bất cứ những gì không phải là điều : một công dân tốt, một người bạn cởi mở và kiên quyết, và chân thành ủng hộ quyền lợi của nhân loại và một châu Mỹ với những quốc gia tự do và độc lập. Đó là nội dung bức Thông điệp cách mạng do cuốn Lương Tri thông báo cho dân Mỹ đi từ những lý lẽ bình phàm, thực tế, thiết thực cho tới những lời kêu gọi trĩu nặng tình cảm, mãnh liệt có khuynh hướng của một kẻ sinh ra đã có máu phiến động. Hậu quả cấp biến và mãnh liệt của cuốn Lương Tri có thể dẫn chứng được bằng những đoạn trích trong những văn kiện của một số các nhà lãnh tụ đương thời lưu lại. Những mối hồ nghi của George Washington đã tan biến khi ông viết cho Joseph Reed ở Norfolk :"Chỉ một vài bằng chứng nảy lửa nữa như những bằng chứng đã được phô diễn ở Falmouth và Norfolk thêm vào với cái lý thuyết đúng và phép lý luận vững chắc chứa đựng trong cuốn sách nhỏ Lương Tri sẽ không làm cho người ta phải bối rối quyết định về tính cách thích đáng của vấn đề phân ly nữa"; và một vài tuần sau cũng lại George Washington đã viết cho Reed : "Nhờ những lá thư riêng vừa ở Virginia gửi tới, tôi thấy cuốn Lương Tri của Paine đã làm cho tư tưởng nhiều người ở đó thay đổi một cách thật kỳ diệu". John Adams cũng đã viết cho bà vợ ông như sau :"Tôi gửi mình một cuốn sách nhỏ nhan đề là Lương Tri, viết để bênh vực những lý thuyết mà chúng ta có lý do để hy vọng sẽ sớm tạo thành tín ngưỡng chung của mọi người". Sau khi đọc xong, Abigail đã trả lời lá thư đó như sau : "Lương Tri, giống như một tia sáng, đã tới đúng lúc để làm sáng tỏ những mối nghi ngờ và ấn định sự lựa chọn của chúng ta". Benjamin Rush đã viết : "Những tác phẩm của Paine đã tung nổ ngay từ máy in với một hiệu quả ít thấy trong làng sách báo vào bất cứ thời nào và ở bất cứ xứ sở nào"; Tướng Charles Lee đã thêm : "Tôi nhìn nhận tác phẩm ấy đã thuyết phục được tôi"; Franklin ghi nhận là : "Tác phẩm ấy đã có một hiệu quả phi thường"; và William Henry Drayton đã thuật lại là : "Bản tuyên ngôn đó đến như một tiếng sét nổ giữa các nghị sĩ" của Quốc hội Đại lục. Trong cuốn Lịch sử Cách mạng Hoa Kỳ, Sir George Trevelyan đã bình luận như sau : "Thật khó mà đặt tên cho một tác phẩm đã có ngay một hiệu quả cấp kỳ, bao la và lâu dài đến như thế... Cuốn sách đó đã được ăn cắp, trích lục, nhại lại và bắt chước phiên dịch sang tiếng của mọi quốc gia đang khao khát chế độ tân Cộng hòa... Cứ theo như báo chí đương thời thì cuốn Lương Tri đã cho hàng ngàn người tán thành chủ trương độc lập mà trước đấy họ không thể chịu đựng được ý tưởng đó. Tác phẩm đó đã tạo được phép lạ và biến nhiều người thuộc nhóm Tories[3] thành người của phe Whigs[4] . Trong vòng có vài tháng sau khi cuốn Lương Tri xuất hiện, đa số các tiểu bang đã chỉ thị các đại diện của họ bỏ phiếu ủng hộ nền độc lập của Hoa Kỳ, chỉ có tiểu bang Maryland là tỏ ra do dự và New York là chống lại. Vào ngày 4 tháng 7 năm 1776, chưa đầy sáu tháng sau khi cuốn sách nhỏ danh tiếng của Paine được phát hành, Quốc hội họp tại Philadelphia đã tuyên bố Hoa Kỳ là một quốc gia độc lập ở Châu Mỹ. Mặc dù Paine không viết bản tuyên ngôn độc lập đó, song ông đã cộng tác chặt chẽ với Thomas Jefferson khi bản tuyên ngôn được soạn thảo và ngoại trừ điều khoản chống nô lệ mà Paine ủng hộ, bị bỏ qua không đề cập đến, những nguyên tắc Paine đã đề ra đều được ghi vào bản tuyên ngôn nổi tiếng này. Tuy nhiên cuốn Lương Tri lại chỉ có một ảnh hưởng gián tiếp tới sự nghiệp của đời Paine về sau đó. Ta có thể kể sơ qua được điểm nổi bật nhất. Ngay sau khi Hoa Kỳ tuyên bố độc lập, ông đã gia nhập đoàn quân Cách mạng. Là một phát ngôn viên hoạt bát vì chính nghĩa Hoa Kỳ, ông đã hăng say góp phần vào công cuộc xây dựng nền thống nhất và tinh thần quốc gia bằng một loạt tác phẩm nhỏ, mỗi cuốn đều có nhan đề là Cuộc khủng hoảng. Cuốn đầu tiên được bắt đầu bằng những dòng sau : "Đây là lúc thử thách dũng khí của mọi người. Trong cuộc khủng hoảng này, người chiến sĩ và nhà ái quốc tùy thời [5] sẽ co đầu rụt cổ trước bổn phận đối với xứ sở, nhưng kẻ nào ở trong hàng ngũ chiến đấu lúc này thì kẻ ấy đáng được mọi người yêu mến và biết ơn". Vài tháng sau nhận thấy Paine có tài tuyên truyền và xây dựng tinh thần các chiến sỹ, Quốc hội đã rút ông ra khỏi quân đội và cử ông làm Thư ký ủy ban Ngoại giao - nói đó đúng là vị Ngoại trưởng đầu tiên của Hoa Kỳ. Những cuộc tranh luận xung khắc đã buộc ông phải từ chức, và sau đó ông được cử giữ chức vụ Thư ký Quốc hội Tiểu bang Pennsylvania. Vào năm 1781, ông được cử sang Pháp cùng với John Laurens để vận động chính phủ nước này trợ giúp về tài chính cho chính phủ Hoa Kỳ lúc ấy đang lâm bước cực kỳ khó khăn; cũng ngay trong năm đó, ông đã trở về Hoa Kỳ với tiền bạc và nhiều vật dụng trợ giúp khác. Vào năm 1783, là năm Cách mạng đã hoàn tất, Paine quay sang những phát minh về cơ khí; ông đã vẽ kiểu cây cầu treo bằng sắt đầu tiên và ông cũng đã thí nghiệm về năng lực của hơi nước. Paine quyết định tham khảo ý kiến các kỹ sư Pháp và Anh về một số vấn đề kỹ thuật, nên tới năm 1787, ông lại sang châu Âu và lưu lại đây mười lăm năm. Cuộc Cách mạng Pháp nổ bùng ít lâu sau khi Paine tới châu Âu, ông đã nhiệt liệt ủng hộ vì ông cho biến cố này là một chứng minh cho những ý tưởng dân chủ của ông trước kia. Để bênh vực cuộc cách mạng và để đáp lại những lời công kích của Edmund Burke, ông đã viết tác phẩm nổi tiếng Những quyền lợi của con người. Vì những lý thuyết trình bày trong tác phẩm trên, ông buộc phải vội vã trốn khỏi Anh để khỏi bị bắt vì tội phản quốc. Ông trốn sang Pháp và được bầu vào Quốc ước Hội nghị. Hội đồng cách mạng với tư cách đại diện cho thành phố Calais; vì nhằm mục đích cứu vua Louis thứ 16 thoát khỏi bị xử tử, Paine đã tuyệt giao với những nhà cách mạng quá khích như Robespierre và Marat. Nên khi nhóm này lên nắm chính quyền, họ cho bắt Paine, và giam giữ ông mười tháng. Ông bị tước bỏ danh hiệu công dân danh dự Pháp; và thiếu chút nữa thì bị đưa lên đoạn đầu đài. Ông được trả tự do nhờ sự can thiệp của Đại sứ Hoa Kỳ James Monroe và về nghỉ dưỡng sức ở nhà vị Đại sứ này. Tác phẩm vĩ đại của Paine vào thời kỳ này là The Age of Reason (Tuổi trưởng thành). Đôi khi tác phẩm này được coi như là một "bản Thánh kinh của những người vô thần". Thật ra Paine là một người ngoan đạo, tin tưởng nơi một Thượng đế và tin về đời sau và dù đã chỉ trích bản Cựu Ước nặng nề, tác phẩm The Age of Reason đã được Paine viết để chống lại làn sóng vô thần mạnh mẽ đã tràn ngập nước Pháp trong thời Cách mạng. Tuy nhiên, các nhà thần học và các nhóm Chính thống giáo đã gay gắt lên án Paine là một kẻ vô tín ngưỡng và cấp tiến nguy hiểm. Khi Paine trở về Mỹ năm 1802, ông không còn được tiếp đón như một vị anh hùng cách mạng nữa. Trái lại, các nhà lãnh tụ chính trị và những giáo hữu ngoan đạo coi như đã thực sự khai trừ ông, vì ông là tác giả cuốn The Age of Reason và cũng vì những thuyết chính trị cấp tiến của ông. Khi ông đã an cư ở New Rochelle thuộc thành phố New York, ông đã bị truất mất quyền bầu cử với lý do ông không phải một công dân Mỹ. Người ta cũng đã tìm cách mưu sát ông. Sau bảy năm trời bị hắt hủi tàn nhẫn, bị thù ghét không thể tưởng tượng được, bị bỏ rơi, nghèo nàn và đau yếu liên miên, ông đã mất vào năm 1809, thọ 72 tuổi. Người ta đã khước từ không cho chôn ông ở nghĩa địa của giáo phái "Quaker". Những nỗi khổ đau, những lọc lừa giả dối và những tổn hại bạo tàn trong những năm cuối cùng của Paine vẫn tồn tại cho tới mãi thời gần đây. Théodore Roosevelt vẫn coi Paine là một kẻ "vô thần nhỏ bé và ghê tởm" mặc dù Paine chẳng ghê tởm, chẳng nhỏ bé và cũng chẳng vô thần, cũng như danh hiệu "đế quốc" gán cho Tòa thánh La Mã mà Tòa thánh La Mã chẳng phải là một đế quốc, và cũng chẳng phải là La Mã. Cho tới năm 1933 một chương trình nói về Paine đã bị cấm phát thanh ở đài New York. Rồi tới năm 1945, tên ông mới được ghi vào đài kỷ niệm những danh nhân của Hoa Kỳ, tức là ông chỉ được hưởng vinh dự ấy bốn mươi lăm năm sau ngày thành lập đài kỷ niệm này. Cũng trong năm đó, thị trấn New Rochelle đã phục hồi quyền công dân bị truất từ năm 1806 cho vị anh hùng Cách mạng Paine. Có lẽ ông là người xứng đáng với danh hiệu "Người khai sáng nước Hoa Kỳ độc lập" hơn ai hết. Ông là người đầu tiên đã dùng danh từ "Hợp Chủng Quốc ở châu Mỹ". Chính ông đã tiên đoán là danh hiệu "Hợp Chủng Quốc ở châu Mỹ" sẽ rền vang trong lịch sử y như danh hiệu Vương quốc Anh vậy. Chính ông đã tuyên bố : "Trong một giới hạn rộng lớn, chính nghĩa của Hoa Kỳ là chính nghĩa của toàn thể nhân loại". Không có dấu hiệu nào chứng tỏ bản tính của Paine rõ hơn câu : "Nơi nào không có tự do thì nơi đó là đất nước tôi" mà ông đã dùng để đáp lại câu : "Đâu có tự do thì đó là đất nước tôi" của Franklin. Ngay ở thời ông, cũng không phải chỉ toàn có những người hận thù và hiểu lầm ông. André Jackson đã dám nói là : "Thomas Paine không cần đến những đền đài kỷ niệm do bàn tay con người xây cất; ông đã tự xây cất cho ông một đài kỷ niệm trong thâm tâm tất cả những người yêu chuộng tự do". ___ [l] Đây là nói về các thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ lúc bấy giờ vẫn chưa nổi lên chống lại Anh để lập thành Hoa Kỳ như ngày nay. [2] Nhóm Bảo thủ ở Mỹ chủ trương không nên tách rời khỏi Anh vào thời Hoa Kỳ mở cuộc chiến tranh phân ly với nước này và sau đó trở thành một quốc gia độc lập. [3] Xem chú thích ở phần trên. [4] Một đảng chính trị được thành lập ở Hoa Kỳ vào năm 1834, chống lại đảng Dân chủ, Đảng Whigs có chủ trương gần giống như Đảng Cộng hoà ngày nay. [5] Nguyên văn : người chiến sĩ vào mùa hè và nhà ái quốc trời nắng : The summer soldier and the sunshine patriot. 3. QUỐC PHÚ LUẬN Adam Smith Chừng hai tháng sau khi tập "Lương tri" của Thomas Paine đã làm cho bản tuyên ngôn Độc lập và nhiều biến cố quan trọng khác của cuộc cách mạng Hoa Kỳ diễn biến dồn dập, một cuốn sách có ảnh hưởng sâu rộng sau này trong một lãnh vực khác của đời sống, xuất hiện ở London. Không giống như tập văn nẩy lửa của Paine, hai cuốn "Nghiên cứu về bản chất và nguyên do sự trù phú của các Quốc gia" rất chừng mực của Adam Smith là một trái bom nổ chậm, khởi đầu ít được chú ý, và phải đợi tới cả trăm năm sau khi Adam Smith qua đời, bộ sách mới có ảnh hưởng toàn diện. Năm 1776, có thể rất hợp lý gọi là năm kết thúc một giai đoạn và mở đầu cho một giai đoạn khác. Cuộc cách mạng Mỹ đã bùng nổ, cuộc cách mạng Pháp đang âm ỉ, và cuộc cách mạng kỹ nghệ được châm ngòi bằng sự phát giác ra năng lực hơi nước, đang xúc tiến mau lẹ. Một nhà bình luận đã gọi thời trước đó là "thời Tăm tối của Hiện đại". Ở Anh, mọi lãnh vực sinh hoạt kinh tế, gần như nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước. Giá cả, lương bổng và giờ lao động đều được ấn định, sự sản xuất được qui định, nền ngoại thương, kể cả xuất nhập cảng, hoàn toàn ở trong tay nhà nước định đoạt. Chiến tranh gần như là một biến cố thường trực. Chính sách Quốc gia chủ trương quân lực và hải quân mạnh, dân số đông, giành giật, cướp thuộc địa ở khắp thế giới, và làm suy yếu những quốc gia đối thủ thí dụ như Pháp, bằng đường lối cạnh tranh chính và bất chính. Giai cấp cầm quyền chống đối lại dữ dội mọi đề nghị nhằm phân phối tài sản một cách công bình. Giáo dục chỉ dành cho một thiểu số được ưu đãi, hình luật vô cùng khắc nghiệt, dân quyền chỉ có ở trên lý thuyết nhiều hơn là trong thực tế. Đã qua bao thế hệ, giai cấp quí tộc địa chủ vẫn nắm giữ guồng máy nhà nước, nhưng một giai cấp mới và mạnh gồm những nhà buôn, nhà kỹ nghệ, đã mọc lên, đòi hỏi và được thụ hưởng những đặc quyền riêng. Theo quan điểm của giai cấp mới này thì xuất cảng là đáng cầu, nhập cảng là tai họa, tiền không được ra khỏi xứ, cán cân thương mại phải giữ sao cho có lợi, lương công nhân phải hạ, giờ lao động phải nhiều, quan thuế phải cao để bảo vệ hàng nội hóa, cần phải có một hạm đội hàng hải thương thuyền hùng hậu và sau hết là mọi biện pháp giúp đỡ thương giới phải làm sao cho có lợi cho cả quốc gia. Dưới áp lực của giai cấp mới, quốc hội đã chấp thuận nhiều đạo luật dựa vào những quan niệm kể trên. Trong tình trạng đó, Adam Smith xuất hiện với ý định phá vỡ những thành kiến mà ông cho là sai lầm và nguy hại. Cuộc đời của Smith từ trước cho đến giai đoạn này có thể coi như một sự chuẩn bị cho công trình vĩ đại mà ông đang bắt tay vào. Sinh quán ở Scotland, năm 14 tuổi (1737) Smith ghi tên theo học trường đại học Glasgow. Tại đây Smith thụ giáo với Francis Hutcheson, một giáo sư lỗi lạc, vẫn thường nhắc nhở niềm tin tưởng ở nguyên tắc : "Hạnh phúc tối đa của đại đa số". Chính niềm tin đó của Francis Hutcheson đã trở nên chủ thuyết của Smith. Sau đó ông theo học trường đại học Oxford, và trong sáu năm ở đây ông dành rất nhiều thì giờ để đọc đủ các loại sách. Trở về Scotland, Smith làm giảng sư ở Edinburgh, và đến năm 1751 ông được bổ làm giáo sư luân lý và siêu hình học, rồi ít lâu sau làm giáo sư triết học (moral philosophy) tại trường đại học Glasgow. Trong 12 năm liền ông được nổi tiếng vì có biệt tài giảng dạy, và nổi tiếng về một tác phẩm bán rất mạnh nhan đề là "Triết lý về các tình cảm luân lý" - một tác phẩm được dư luận đương thời coi có giá trị hơn bộ Quốc phú luận. Vì được trả lương hậu hĩ hơn, Smith từ chức giáo sư để làm bạn đồng hành và là thầy dạy tư cho một nhà quí tộc trẻ tuổi trong cuộc du lịch ba năm ở châu Âu. Trong chuyến đi này ông đã làm quen với các nhà kinh tế học, triết lý và chính trị học nổi tiếng ở châu Âu, nhất là ở Pháp. Từ năm 1759, Adam Smith đã phác định nội dung bộ sách sau này là bộ Quốc phú luận. Ông mất rất nhiều thời gian suy tư, nghiên cứu, quan sát, tiếp xúc với đủ mọi lớp người, mất rất nhiều thời gian duyệt đi duyệt lại trước khi trao tác phẩm vĩ đại của đời ông cho nhà in. Ba năm trước khi sách xuất bản, ông luôn có mặt ở London thảo luận về nội dung Quốc phú luận với Benjamin Franklin, khi đó là đại diện của Mỹ thuộc Anh. Ngày 9 tháng 3 năm 1776, bộ Quốc phú luận của Adam Smith được phát hành, và từ đó sách được tái bản không biết bao nhiêu lần và được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Vì nội dung có tính cách bách khoa nên bộ Quốc phú luận không phải chỉ là một bộ sách thông thường về kinh tế học. Một nhà phê bình gọi đây là bộ "Lịch sử và nhận định về văn minh châu Âu". Mở đầu với những trang khảo luận về vấn đề loại lao công, Adam Smith lược qua các lãnh vực cứu xét về nguồn gốc và việc sử dụng tiền tệ, giá cả vật phẩm nhu yếu, lương bổng công nhân, thị trường chứng khoán, lợi tức đất đai, giá trị vàng bạc, sự khác biệt giữa loại lao động sản xuất và lao động không sản xuất. Sau đó tác giả phân tích sự phát triển kinh tế ở châu Âu từ khi đế quốc La Mã tan rã, phân tích và phê bình chính sách thuộc địa và chính sách thương mại của các quốc gia châu Âu. Ông cũng đề cập đến các vấn đề như lợi tức của đế quốc, phòng thủ và công lý ở các xã hội nguyên thủy, nguồn gốc và sự phát triển binh đội ở châu Âu. Smith cũng không bỏ qua các vấn đề lịch sử giáo dục thời Trung cổ, phê bình nền đại học đương thời, lịch sử thê quyền của Giáo hội, sự tiến triển của công trái, và kết luận ông cứu xét về những nguyên tắc đánh thuế và các chế độ lợi tức công cộng. Tiền đề tổng quát mà Adam Smith dùng làm nền tảng cho bộ Quốc phú luận có dáng dấp tư tưởng của Niccolò Machiavelli; thí dụ như ông nhận định rằng : người ta ai cũng vì tư lợi, ham giàu chỉ là một khía cạnh của lòng vị kỷ , và mọi hoạt động của con người đều vì lý do tư lợi cả. Điều đặc biệt là Smith không những không lên án những khuynh hướng đó mà ông còn tin rằng chính lòng vị kỷ của cá nhân sẽ đưa tới sự trù phú của xã hội. Ông cho rằng : Quốc gia sẽ trở nên phồn thịnh "nếu mọi cá nhân không ngừng nỗ lực để cải thiện cuộc sinh hoạt của riêng mình... Anh hàng thịt, anh làm rượu, anh làm bánh mang đồ ăn đến cho ta chính là vì lợi riêng của cá nhân họ, chúng ta kêu gọi không phải lòng nhân từ của họ mà kêu gọi đến lòng ích kỷ của họ, chúng ta không bao giờ nói với họ về những nhu cầu của chúng ta mà chỉ nói với họ về mối lợi riêng của họ". Vì sách Quốc phú luận có những đoạn tương tự nên Ruskin đã gọi tác giả là "con người Scotland kém trí, thiếu học, chuyên khuyên điều phi nghĩa : Phải ghét Chúa, ghét Thượng đế, phải từ bỏ luật lệ của Ngài và thèm thuồng tài sản của láng giềng". Adam Smith chủ trương rằng : kỹ nghệ mới chỉ có thể phát triển được bằng các phân công và tích lũy tư bản. Cả hai khía cạnh này đều vì tư lợi và "sự xếp đặt tự nhiên" theo quan niệm của các nhà triết học thế kỷ XVIII. Như vậy vô hình trung, bàn tay Thượng đế đã dẫn dắt con người, để cùng một lúc phục vụ quyền lợi riêng tư và quyền lợi của tập thể. Nhận định đó dĩ nhiên đưa tới kết luận là chính phủ chỉ nên can thiệp ở mức tối thiểu vào cuộc sinh hoạt kinh tế. Ở một bình diện khác Thomas Paine cũng có nhận định tương tự khi ông viết : "một Chính phủ tốt đẹp nhất là một Chính phủ cai trị ít nhất". Để chứng tỏ những điều lợi của sự phân công, Adam Smith đã nêu ra trường hợp chế tạo đinh ghim :"Một công nhân không biết nghề... không quen sử dụng máy móc... giỏi ra một ngày làm được một chiếc đinh ghim, và chắc chắn không thể nào làm được 20 chiếc một ngày. "Phân tách sự chế tạo đinh ghim" làm mười tám công việc khác nhau, chia cho nhiều người làm trong xưởng máy tôi đã thấy một xưởng máy đinh ghim nhỏ chỉ dùng có mười công nhân... mà có thể sản xuất tới bảy mươi tám ngàn chiếc đinh ghim một ngày". Đó là "kết quả của sự phân công hợp lý và sự phối hợp những động tác khó khăn". Theo Adam Smith, sự phân công đã có từ các xã hội nguyên thủy. Ông viết: "Trong một bộ lạc săn bắn hay chăn nuôi, thí dụ như có một người giỏi làm cung tên và thường hay đổi cung tên lấy súc vật, lấy thịt thú. Anh thấy rằng trao đổi như vậy anh có nhiều thú, nhiều thịt hơn là chính anh đi rừng, và vì lẽ đó anh mới lấy nghề làm cung tên làm nghề chính của anh... Một người khác giỏi làm sườn, làm mái lều, giỏi làm nhà lưu động… Cũng vì lý do tư lợi một người thứ ba trở nên thợ rèn, thợ chế đồ đồng; người thứ tư thợ thuộc da... ai cũng biết chắc có thể đổi sản phẩm mình dùng không hết lấy sản phẩm của người khác, và chính điều đó khuyến khích mọi người chuyên hẳn một việc, và trau dồi tài nghệ đến mực hoàn hảo..." Sau đó nghiên cứu về tiền tệ, và giá cả, Adam Smith đề ra một nguyên tắc, thường bị các nhà phi kinh tế học đả kích, nhưng lại được các lý thuyết gia chủ nghĩa xã hội sau này coi như là một khẩu lệnh. Ông viết :"Chỉ có giá trị lao động là không bao giờ thay đổi. Chỉ có lao động là tiêu chuẩn thực và tối hậu để định giá và so sánh sản phẩm ở bất kỳ ở đâu và thời buổi nào. Lao động là giá trị thực của sản phẩm; tiền bạc chỉ để nói lên cái giá trị ấy mà thôi". Trong Quốc phú luận không đoạn nào có giọng văn trực ngôn và đôi khi công phẫn bằng ở những đoạn Adam Smith bình luận về sự chênh lệch quyền lợi giữa giới chủ và thợ, và ông phản đối quan niệm của phái doanh thương cho rằng : lương bổng hạ buộc công nhân phải làm việc nhiều và do đó nước Anh được thêm thịnh vượng. Về điểm trên Smith nhận định : "Công nhân muốn hưởng lương, càng cao càng hay, chủ nhân muốn trả lương càng hạ càng tốt. Công nhân sẵn sàng vận động để đòi tăng lương, chủ nhân sẵn sàng vận động để hạ lương công nhân". Ông viết tiếp: "Trong những cuộc tranh chấp về lương bổng luôn luôn xảy ra, rất dễ đoán bên nào được, bên nào thua. Giới chủ, có ít người nên dễ vận động. Luật pháp nếu không cho phép thì cũng không cấm họ vận động, nhưng luật pháp lại cấm sự vận động của các công nhân. Không có một đạo luật nào chống vận động để hạ lương công nhân, nhưng lại có rất nhiều đạo luật cấm vận động đòi tăng lương. Trong một cuộc tranh chấp về lương bổng, giới chủ có thể cầm cự được lâu dài hơn nhiều. Một địa chủ, một trại chủ, một chủ nhà máy hay một thương gia, không có công nhân vẫn có thể sống một hay hai năm dựa vào tư bản họ đã tích lũy được. Trong khi đó đa số công nhân thất nghiệp không thể nào sống nổi một tuần lễ, rất ít người sống được một tháng và gần như không thể có người sống được một năm. Cuối cùng dù chủ cần công nhân cũng như công nhân cần đến chủ, nhưng sự "cần" của đôi bên không cấp thúc như nhau. Cảm tình của Smith đối với hạng công nhân lương hạ bộc lộ trong những đoạn văn như sau: "Xã hội chính trị lớn nào cũng gồm có đại đa số gia công, nông dân, và công nhân mọi giới. Cải thiện cuộc sinh hoạt của đại đa số nhân dân không thể coi là một trở ngại cho sự thịnh vượng của toàn thể xã hội. Không một xã hội nào có thể thịnh vượng và hạnh phúc nếu tầng lớp rộng lớn nhất, phải sống trong cảnh bần cùng khổ ải. Hơn nữa để cho bọn người cung cấp cái ăn, cái mặc, cái ở cho toàn thể xã hội, được hưởng một phần những sản phẩm do chính họ sản xuất ra như được đủ ăn, đủ mặc, đủ ở, chỉ là chuyện công bình mà thôi... Trả công rộng rãi... làm tăng tiến sở đắc của giới lao động. Người ta ai cũng thế, đồng lương cao hạ khuyến khích làm việc nhiều hay ít, hay hay dở... ở những nơi trả lương cao chúng ta thường thấy công nhân hoạt động, cần mẫn, lanh lợi hơn ở những nơi trả lương hạ". Ông viết tiếp: "Các thương gia, chủ xưởng máy phàn nàn rằng : tăng lương lại phải tăng giá cả và do đó sự tiêu thụ ở trong nước và nước ngoài bị giảm sút. Họ không nói gì cả về việc tiền lời của họ tăng lên. Họ im lặng về những hậu quả ác hại do số lợi tức của chính họ gây ra. Họ chỉ phàn nàn về đồng tiền công của kẻ khác". Hai mươi năm trước khi sách "Những nguyên tắc về dân số" của Malthus được xuất bản, Adam Smith đã tiên đoán thuyết của tác giả trên khi ông viết : "Loài động vật nào cũng chỉ có thể sinh sôi nẩy nở trong phạm vi phương tiện sinh sống cho phép. Ở xã hội văn minh, sự kiện thiếu phương tiện sinh sống đã hạn định sự sinh sản của giai cấp cùng khổ. Vì lẽ đó trong giai cấp này đa số thiếu nhi bị yểu tử". So sánh với những thắng lợi của lao động ngày nay, chúng ta không thể tưởng tượng được rằng những sự trói buộc lao động có tính cách phong kiến vẫn hằng còn tồn tại trong thế kỷ của Adam Smith mà việc cấm tổ chức mọi hình thức công đoàn chỉ là một. Những trói buộc khắc nghiệt hơn cả vẫn là luật lệ về học nghề và định cư lập nghiệp. Qui chế học nghề có từ thời nữ hoàng Elizabeth. Theo lời Smith, qui chế đó ấn định rằng "bất kỳ người nào nếu muốn hành một nghề nào đó ở Anh đều phải qua ít nhất là bảy năm học nghề". Trong thời gian đó, người học nghề chỉ có đủ cơm ăn và dĩ nhiên những người chủ vô lương tâm lợi dụng đạo luật để khai thác công nhân học nghề sống ở trong tình cảnh chẳng khác gì nô lệ. Smith tố cáo luật lệ học nghề và vạch trần ra rằng : không làm gì phải mất đến hàng năm để học nghề vì đa số các nghề chỉ mất chừng vài tuần lễ là làm được. Hơn nữa luật lệ học nghề là một sự xâm phạm bất chính vào quyền tự do làm ăn của công dân, muốn làm gì tùy ý và đâu trả lương cao thì làm. Đạo luật về định cư cũng ai oán không kém. Smith viết :"Tôi dám nói rằng, trong giới cùng khổ ở Anh, hiếm có người nào bốn mươi tuổi mà không có kinh nghiệm bản thân về sự ác độc của đạo luật định cư". Đạo luật này, cũng như đạo luật về học nghề, được ban hành từ thời Nữ hoàng Elizabeth và nhằm mục đích cứu tế cho những người nghèo. Mỗi một khu đều có trách nhiệm cấp dưỡng cho những người nghèo. Để ngăn chặn con số này có thể tăng lên, luật lệ bắt buộc những người mới tới định cư phải có đủ phương tiện sinh sống. Áp dụng đối với lao động, đạo luật định cư có tác dụng biến họ thành một lớp tù nhân mãn kiếp khó có thể rời bỏ quê hương để tìm đường đi làm ăn ở nơi khác. Theo Adam Smith, đạo luật định cư là
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan