Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP MỚI TRONG GIAI ĐOẠN 2006-2010 VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, ...

Tài liệu NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP MỚI TRONG GIAI ĐOẠN 2006-2010 VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN

.PDF
48
228
118

Mô tả:

NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP MỚI TRONG GIAI ĐOẠN 2006-2010 VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN
NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP MỚI TRONG GIAI ĐOẠN 2006-2010 VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN MỤC LỤC I. NHẬN THỨC MỚI VỀ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ NÔNG DÂN TỪ NHỮNG CHUYỂN BIẾN VÀI THẬP KỶ VỪA QUA TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 1. Trên thế giới 2. Ở Việt Nam II. THỰC TRẠNG HIỆN NAY CỦA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ NÔNG DÂN VIỆT NAM 1. Những thành tựu 2. Những yếu kém và những vấn đề cần giải quyết III. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP MỚI NHẰM ĐẨY NHANH CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2006-2010 1. Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững 2. Phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn 3. Phát triển các ngành, nghề phi nông nghiệp trong kinh tế nông thôn 4. Xây dựng đời sống văn hoá- xã hội mới, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc ở nông thôn KẾT LUẬN CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 1 I. NHẬN THỨC MỚI VỀ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ NÔNG DÂN TỪ NHỮNG CHUYỂN BIẾN VÀI THẬP KỶ VỪA QUA TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM Nhìn lại lịch sử phát triển của xã hội loài người, nông nghiệp luôn luôn giữ một vai trò quan trọng, là ngành sản xuất lương thực, thực phẩm cho xã hội, nhiều nguyên liệu cho công nghiệp, nhiều hàng cho xuất khẩu( khi ngoại thương phát triển). Bước vào thế kỷ XXI, với những thách thức về an ninh lương thực, dân số, môi trường sinh thái,… nông nghiệp được dự báo là vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng ấy. Trong thế kỷ XX, nông nghiệp thế giới đã có những bước tiến vượt bậc, phát triển từ giai đoạn sản xuất nông nghiệp truyền thống sang giai đoạn hiện đại hoá nông nghiệp, nhờ vậy kinh tế nông thôn và đời sống của người dân nông thôn cũng có nhiều chuyển biến. Đặc biệt, trong vài thập kỷ trở lại đây, với sự tiến triển nhanh chóng của những xu thế lớn trên thế giới, như cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế thị trường hiện đại, kinh tế tri thức,… nhận thức về nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã có những sự thay đổi. Ở Việt Nam chúng ta, một đất nước còn nặng về nông nghiệp, những thành tựu của 20 năm đổi mới vừa qua, đặc biệt là công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,… đã góp phần làm thay đổi nhận thức về nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Phần này trình bày khái quát những nhận thức mới trên thế giới và ở Việt Nam. 1. Trên thế giới Nhìn lại quá trình hiện đại hoá nông nghiệp thế giới trong thế kỷ XX, có thể thấy nổi lên ba đặc điểm cơ bản: (1) hiện đại hoá công cụ sản xuất nông nghiệp, có nghĩa là sử dụng một cách rộng rãi thiết bị cơ giới để thay thế sức người, gia súc và công cụ sản xuất truyền thống; (2) hiện đại hoá kỹ thuật sản xuất, có nghĩa là ứng dụng rộng rãi khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp; và (3) hiện đại hoá phương thức sản xuất, có nghĩa là chuyển nông nghiệp từ sản xuất cá thể tự cung tự cấp sang sản xuất xã hội quy mô lớn, có tính chuyên nghiệp hoá cao. Những đặc điểm này đã chi phối nhận thức của con người về phát triển nông nghiệp trong phần lớn thời gian của thế kỷ XX. Tuy nhiên, kể từ cuối những năm 1980, cùng với sự hình thành và tiến triển nhanh chóng của nhiều xu thế mới trên thế giới, nhận thức của con người về nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã có những thay đổi. CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 2 - Thứ nhất, sự ra đời và phát triển của quan điểm “Phát triển bền vững” đã làm nổi rõ vai trò của môi trường sinh thái trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, hình thành nên quan niệm “Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững” (SARD). Khái niệm “Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững” lần đầu tiên được đưa ra ở Hội nghị về Nông nghiệp và Môi trường của Tổ chức Nông Lương thế giới (FAO) tại Hertogenbosch năm 1991. Khái niệm này đã được khẳng định tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất tại Rio de Janeiro năm 1992 trong Chương 14 của Chương trình Nghị sự 21, và tiếp tục được tái khẳng định tại Hội nghị Thượng đỉnh về Phát triển bền vững tại Johannesburg năm 2002. Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững là một quá trình đa chiều, bao gồm: (1) tính bền vững của chuỗi lương thực (từ người sản xuất đến người tiêu thụ, liên quan trực tiếp đến cung cấp đầu vào, chế biến và thị trường); (2) tính bền vững trong sử dụng tài nguyên đất và nước về không gian và thời gian; và (3) khả năng tương tác thương mại trong tiến trình phát triển nông nghiệp và nông thôn để đảm bảo cuộc sống đủ, an ninh lương thực trong vùng và giữa các vùng. Quan niệm về phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững đã có ảnh hưởng đến các cách thực hành trong nông nghiệp. Các cách thực hành này phải đảm bảo tính chất bền vững, có nghĩa là phải đáp ứng đồng thời ba mục tiêu: (1) bền vững về sinh thái; (2) lợi ích về kinh tế; và (3) lợi ích xã hội đối với nông dân và cộng đồng. Trong số ba mục tiêu nêu trên, mục tiêu bền vững về sinh thái được coi là rất mới. Để đạt được mục tiêu này, các chủ thể canh tác nông nghiệp phải đồng thời thực hiện quản lý đất bền vững, quản lý sâu bệnh bền vững và bảo vệ đa dạng sinh học. Trong nông nghiệp, đa dạng sinh học được coi là nền tảng cơ bản của hệ thống canh tác, nó bao gồm nhiều dạng tài nguyên sinh học như: + Tài nguyên di truyền- vật liệu sống cơ bản cho sinh vật. + Thực vật và các loại cây trồng nông nghiệp: các giống bản địa, giống hiện đại (bao gồm giống lai và giống tạo bằng vật liệu di truyền công nghệ sinh học). + Các sinh vật sống trong đất có ảnh hưởng đến độ phì nhiêu của đất, cấu trúc và chất lượng đất. + Các công trình xuất hiện tự nhiên, vi khuẩn, nấm có khả năng kiểm soát côn trùng và bệnh hại đối với động vật, thực vật bản địa. CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 3 + Các dạng và thành phần hệ sinh thái nông nghiệp (đa canh/độc canh, quy mô lớn hay nhỏ, thuộc dạng có tưới nước hay nhờ nước mưa,…) không thể thiếu đối với chu kỳ dinh dưỡng, tính ổn định và sức sản xuất. + Nguồn tài nguyên “hoang dại” (loài và đơn vị loài/giống) của nơi cư trú tự nhiên có thể phục vụ nông nghiệp, thí dụ như côn trùng và tính ổn định của hệ sinh thái. Xét theo nghĩa rộng, đa dạng sinh học nông nghiệp không chỉ gồm tập hợp loài rộng lớn mà còn gồm nhiều phương thức nông dân có thể dựa vào để khai thác sự đa dạng sinh học trong sản xuất và quản lý cây trồng, đất, nước, côn trùng và các sinh vật khác. Ở nhiều quốc gia, đã có những đề xuất phải đánh giá hiện trạng của đa dạng sinh học, làm cơ sở xây dựng các chiến lược quốc gia nhằm bảo vệ và sử dụng bền vững đa dạng sinh học và đưa các chiến lược này trở thành một bộ phận của các chiến lược tổng thể phát triển quốc gia. Cùng với nông nghiệp, phát triển nông thôn bền vững đang trở thành chủ đề ngày càng được các quốc gia quan tâm. Phát triển nông thôn là lĩnh vực đa ngành, đặt trong mối quan hệ phức tạp giữa xã hội, tài nguyên thiên nhiên và môi trường bền vững. Nhận thức phổ biến trên thế giới cho rằng, để đạt được sự phát triển nông thôn bền vững, cần đảm bảo người dân nông thôn có phương kế sinh sống bền vững và được sống trong hệ sinh thái lành mạnh. Phát triển nông nghiệp bền vững có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển nông thôn bền vững. Quan niệm “Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững” xứng đáng được đặt ở vị trí trọng tâm trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn của các quốc gia đang phát triển. Hơn nữa, phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giúp các quốc gia sớm đạt được các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG), bởi vì nó có mối liên kết chặt chẽ với các mục tiêu này, cụ thể là xoá đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường (Sơ đồ 1). CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 4 Sơ đồ 1. Mối quan hệ giữa phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững (SARD) với các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, do Liên Hiệp Quốc nêu ra (MDG) Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững (SARD) An ninh lương thực Thâm canh bền vững Xoá đói giảm nghèo ( MDG) Quản lý tổng hợp tài nguyên thiên nhiên Bền vững môi trường ( MDG) - Thứ hai, cách mạng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, đã có tác động sâu rộng đến nông nghiệp. Công nghệ sinh học ngày nay có một nội dung rất quan trọng là sử dụng các kiến thức truyền thống và công nghệ hiện đại nhằm làm thay đổi vật chất gien trong thực vật, động vật, vi sinh vật và tạo ra các sản phẩm mới. Trong vài thập kỷ vừa qua, việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ sinh học đã từng bước làm cho nông nghiệp có sự nhảy vọt về chất. Cụ thể, việc ứng dụng công nghệ sinh học được thể hiện ở những điểm chính sau đây: + Kỹ thuật tạp giao vô tính: dùng kỹ thuật biến tính hiện có tạo ra những sinh vật kiểu mới hoặc lấy những đặc tính tốt của nhiều sinh vật khác nhau kết hợp làm một, định hướng cải biến di truyền. + Sinh vật cố định đạm: thông qua việc tìm hiểu về gien cố định đạm có thể cấy trực tiếp gien vào DNA của cây trồng, từ đó làm cho bản thân cây trồng có thể tự gom được đạm để giảm bớt lượng phân bón hoá học, hạn chế được ô nhiễm môi trường. + Dùng chất kích thích sinh trưởng: sử dụng kỹ thuật DNA để sản xuất chất kích thích không có tính hoá học và vô hại, có thể dùng để nâng cao sản lượng, chất lượng và có thể thúc đẩy hay kéo dài thời gian sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi. + Tác dụng quang hợp: tạo ra chất hữu cơ quan trọng của cây trồng, do vậy nâng cao hiệu suất quang hợp dẫn đến năng suất cây trồng có thể tăng lên. CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 5 + Phòng và chữa trị bằng sinh học: chế tạo ra thuốc diệt trùng, diệt cỏ thiên nhiên bảo đảm an toàn cho người sử dụng thuộc cũng như người tiêu thụ sản phẩm. Những lợi ích của việc ứng dụng công nghệ trong sinh học là rõ ràng. Bên cạnh việc nâng cao năng suất sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra nhiều sản phẩm mới, công nghệ sinh học còn đáp ứng các cơ hội mới về quan hệ đối tác toàn cầu giữa những nước phát triển có tiềm lực công nghệ mạnh và những nước đang phát triển giàu tài nguyên sinh vật nhưng thiếu vốn và kiến thức để khai tác các tài nguyên đó. Tuy vậy, công nghệ sinh học cũng gây ra những thách thức đối với phát triển nông nghiệp bền vững. Sự ra đời của các sản phẩm biến đổi gien, trong đó có các sinh vật biến đổi gien (GMO), là nguyên nhân làm dấy lên các cuộc tranh cãi dai dẳng về việc ứng dụng loại công nghệ mới này. Những vấn đề được nhiều người quan tâm là ảnh hưởng của các sản phẩm biến đổi gien đến sức khoẻ con người, tác động của việc ứng dụng công nghệ sinh học đến môi trường sinh thái, vấn đề đạo đức gắn liền với các sinh vật biến đổi gien, v.v. Vì vậy, nhiều người cho rằng, việc áp dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp là một xu hướng hiện hữu trong thế kỷ XXI, tuy nhiên người dân phải nhận thức được rõ những lợi ích và những rủi ro của công nghệ sinh học. Đây là một yêu cầu không thể thiếu theo đúng những nguyên tắc đã được thoả thuận trên tầm quốc tế về việc đánh giá rủi ro và quản lý mọi khía cạnh của công nghệ sinh học. - Thứ ba, trong xu thế phát triển mạnh của kinh tế thị trường và công nghiệp hoá, đô thị hoá, hiện đại hoá, nhận thức về kinh tế nông thôn đã có những thay đổi. Quan niệm về nông thôn truyền thống rằng “nông thôn là một xã hội được tổ chức trên nền tảng sản xuất nông nghiệp và dân cư của nó là những người làm ruộng” đã dần dần được thay thế bằng những quan niệm mới. Trên tầm quốc tế, hiện nay, quan niệm về nông thôn là không đồng nhất giữa các quốc gia, tuy nhiên có một số nét chung sau đây: + Nông thôn thường bao quát, trải dài theo không gian và thời gian của một quốc gia; nó gắn liền với lịch sử phát triển của quốc gia đó. + Nông thôn là nơi sinh sống, hoạt động của những người chủ yếu làm nghề nông, tức là nông dân. + Nông thôn luôn có sự phân tán và không đồng đều giữa các vùng. + Kết cấu hạ tầng vùng nông thôn thường kém hơn so với đô thị. + Hoạt động sản xuất đặc trưng và tiêu biểu ở vùng nông thôn là sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp và công nghiệp nông thôn. CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 6 + Nông thôn có bản sắc văn hoá, có truyền thống, có quan hệ xã hội mang tính đặc thù của cộng đồng theo phong tục của từng dân tộc, theo thiết chế của các dòng họ, luôn được xác định và lưu giữ lâu dài. Về kinh tế nông thôn, bên cạnh nông nghiệp, đã xuất hiện ngày càng nhiều các ngành, nghề phi nông nghiệp như tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Đáng chú ý là ở nhiều vùng nông thôn, nông nghiệp chỉ còn chiếm bộ phận nhỏ trong nền kinh tế và cảnh quan các nơi đó không khác nhiều so với cảnh quan đô thị. Do vậy, phương thức sản xuất và phương thức sinh hoạt xã hội, văn hoá ở các vùng nông thôn ngày nay đã thay đổi căn bản so với nông thôn truyền thống. Trong bối cảnh đó, đã hình thành mối quan hệ gắn kết giữa phần nông nghiệp và phần phi nông nghiệp ở nông thôn, và mối quan hệ này ngày càng được tính đến trong các chiến lược, chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn của các quốc gia. Ở nhiều nước, “Bộ Nông nghiệp” đã được chuyển thành “Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn”, hay nói chung hơn, “nông nghiệp” và “nông thôn” đã thành hai nội dung không thể tách rời trong quá trình hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển của các quốc gia có liên quan đến nông nghiệp và nông thôn. - Thứ tư, sự đa dạng hoá các ngành, nghề của kinh tế nông thôn như nêu trên đây đã dẫn tới sự đa dạng hoá nghề nghiệp của những người dân nông thôn. Số người dân nông thôn không làm nông nghiệp ngày càng tăng cả về số lượng tuyệt đối và về tỷ trọng trong dân số nông thôn. Quá trình dịch chuyển lao động này là tất yếu và chắc chắn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ trong thời gian tới. Vượt ra ngoài phạm trù kinh tế, hiện tượng này làm nảy sinh các vấn đề cần lưu tâm về cơ cấu dân cư, cơ cấu xã hội, các mối quan hệ xã hội, đời sống xã hội, văn hoá ở nông thôn. Xét ở khía cạnh khác, sự hình thành các tầng lớp xã hội khác nhau ở nông thôn có ảnh hưởng đáng kể đến tính đại diện của các chủ thể xã hội nông thôn trong việc ra quyết định, thực hiện và kiểm tra thực hiện quyết định. Điều này đã khuyến khích sự tham gia của người dân nông thôn vào việc hoạch định và thực thi các kế hoạch, chương trình, chính sách phát triển, góp phần làm cho “cách tiếp cận có sự tham gia” (PA) dần dần trở thành một thông lệ ngày càng phổ biến trên phạm vi toàn thế giới. 2. Ở Việt Nam Sau 20 năm đổi mới, bối cảnh kinh tế, xã hội của đất nước ta đã có những thay đổi rất to lớn. Quá trình đổi mới đã được khởi đầu từ lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, và cho đến nay, nông nghiệp, nông thôn vẫn là một trong những trọng tâm của đổi mới. Điều rất đáng chú ý là hiện nay nhận thức về nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã có nhiều thay đổi rõ rệt so với trước đây. Sự thay đổi này có thể CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 7 được coi là một sự đổi mới, phù hợp với bối cảnh kinh tế, xã hội mới của đất nước và những xu hướng chuyển biến trên tầm quốc tế như đã nêu trong phần I.1. - Thứ nhất, về tầm quan trọng và ý nghĩa của CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn: Nghị quyết 5 Trung ương khoá IX 1 đã vạch ra rằng một nhận thức về vai trò, vị trí của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn chưa đầy đủ và chưa sâu sắc. Đây là nguyên nhân chủ quan, có ảnh hưởng lớn đến các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn ở nước ta trong nhiều năm kể từ sau khi đổi mới. Khắc phục khiếm khuyết về nhận thức này, Nghị quyết Trung ương 5 đã khẳng định quan điểm: “Coi CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nước. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn” 2 . Đây là nhận thức làm cơ sở quan trọng cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn trong thời gian tới. - Thứ hai, về phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững: Quan điểm phát triển bền vững ngày càng trở nên thịnh hành trên phạm vi toàn thế giới. Ở nước ta, những cột trụ cơ bản của phát triển bền vững đang được các cơ quan hoạch định chính sách quan tâm, và chúng được tính toán để đưa vào hệ thống các chính sách phát triển kinh tế- xã hội trong thời gian tới. Trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Nghị quyết 5 Trung ương khoá IX đã khẳng định quan điểm: “Ưu tiên bảo vệ môi trường, phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai, phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững… Kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế và xã hội trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhằm giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của người dân nông thôn;… giữ gìn, phát huy truyền thống văn hoá và thuần phong mỹ tục” 3 . Quan điểm phát triển bền vững được đề cập ngày càng nhiều trong các tài liệu nghiên cứu của những nhà nghiên cứu về chủ đề này. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu cho rằng phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững là đòi hỏi đương nhiên và khả năng hiện thực, ở nước ta nó là một nhân tố then chốt để có thể đạt được các mục tiêu tổng thể về phát triển kinh tế- xã hội bền vững. 1 Nghị quyết 5 Trung ương khoá IX về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010, được Ban Chấp hành Trung ương thông qua ngày 18/3/2002. 2 Đảng CSVN (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 94. 3 Đảng CSVN (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 94, 95. CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 8 - Thứ ba, về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn: Đảng ta đã khẳng định chủ trương “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” là mô hình phát triển kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn là thành tố không thể tách rời trong mô hình tổng quát đó. Tuy nhiên, cũng giống như mô hình tổng quát, nhiều vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn chưa thực sự được làm sáng rõ. Cơ chế thị trường đã hiển hiện rõ nét ở hầu khắp các vùng, miền trên cả nước, thậm chí, trong chừng mực nào đó, thị trường nông sản hiện là một trong những thị trường có tính cạnh tranh cao nhất. Nhưng trên thực tế, việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và phát triển các loại thị trường ở các khu vực nông thôn đã gặp nhiều rào cản. Người dân nông thôn phải đối mặt với không ít vấn đề bức xúc về kinh tế và xã hội. Trong bối cảnh đó, nhu cầu làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở nước ta là hết sức cấp bách, trong đó cần chỉ ra những nét đặc thù và những nét khác biệt tương đối so với mô hình phát triển chung. - Thứ tư, về chế độ sở hữu và hình thức sở hữu trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn: Có thể nói rằng, nông nghiệp là lĩnh vực khơi nguồn cho sự đổi mới nhận thức về đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong nền kinh tế nước ta, gắn liền với sự ra đời của Chỉ thị 100 CT/TW (13/01/1981) về Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động trong HTX nông nghiệp. Nền kinh tế thời đổi mới, tính chất đa sở hữu trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã được khẳng định, và chúng ta nhận thức rõ rằng việc khuyến khích các thành phần kinh tế là động lực quan trọng để thúc đẩy nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển. Nghị quyết 5 của Trung ương khoá IX khẳng định quan điểm: “Dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc; phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ sản xuất hàng hoá, các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn” 4 . Sự đổi mới nhận thức đã mở đường cho sự ra đời của hàng loạt các chính sách đổi mới nông-lâm trường quốc doanh, các HTX nông nghiệp, và chính sách 4 Đảng CSVN (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 94, 95. CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 9 khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp dân doanh và kinh tế hộ ở nông thôn. Chúng ta cũng đã nhận thức rõ tầm quan trọng của mối quan hệ liên kết giữa các loại hình tổ chức sản xuất- kinh doanh trong quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản. Một số kinh nghiệm thành công gần đây về sự liên kết giữa người nông dân, người nuôi trồng, đánh bắt thuỷ- hải sản với các doanh nghiệp thu mua, chế biến và xuất khẩu, hoặc mô hình liên kết giữa ba nhà (nhà nông- nhà doanh nghiệpnhà khoa học), đã gợi ra rằng mối quan hệ liên kết giữa các thành phần kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn là một xu hướng ưu trội trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. - Thứ năm, về quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn: Trong khoảng một thập kỷ trở lại đây, công tác quy hoạch phát triển kinh tếxã hội nói chung, quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng đã được các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương quan tâm. Trong những năm qua, ngành nông nghiệp, nông thôn đã xây dựng quy hoạch các vùng kinh tế nông nghiệp, quy hoạch các ngành hàng chủ lực như lúa, ngô, cà phê, cao su, chè, rau hoa quả, điều, mía đường, chăn nuôi bò sữa, v.v. Công tác quy hoạch đã góp phần tích cực cho việc hoạch định và thực hiện kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn ở các vùng, các tỉnh, làm căn cứ cho việc xây dựng các dự án đầu tư, hợp tác quốc tế, kêu gọi đầu tư, đồng thời góp phần hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá lớn theo hướng CNH, HĐH. Tuy vậy, công tác quy hoạch nông nghiệp, nông thôn thời gian qua còn bộc lộ những nhược điểm, trong đó nổi lên vấn đề nhận thức chưa đầy đủ, chưa thống nhất của các cấp, các ngành đối với công tác này. Do vậy, đã dẫn đến tình trạng thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan, giữa các địa phương trong việc quản lý, chỉ đạo xây dựng và thực hiện quy hoạch, làm giảm hiệu quả và hiệu lực của công tác quy hoạch. Một vấn đề đáng quan tâm nữa là công tác quy hoạch các khu dân cư, làng, xã, thị trấn ở nông thôn chưa được chú trọng đủ mức. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác quy hoạch, Nghị quyết 5 của Trung ương khoá IX đã đặt giải pháp về công tác quy hoạch ở vị trí đầu tiên trong hệ thống giải pháp nhằm đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ 20012010. Nghị quyết khẳng định: “Quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn phải đặt trong tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội cả nước, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và thị trường;… Chú trọng làm tốt quy hoạch những vùng sản xuất hàng hoá tập trung (cây, con, sản phẩm, ngành nghề…); quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 10 hội; quy hoạch phát triển khu dân cư, xây dựng làng, xã, thị trấn; gắn kết chặt chẽ với an ninh- quốc phòng, phòng chống, hạn chế, giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc” 5 . - Thứ sáu, về xây dựng đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của người dân nông thôn: Ở nước ta, việc nâng cao đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của người dân nông thôn đã luôn luôn được coi là mục tiêu then chốt của các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn. Ngay từ trước đổi mới, Đảng ta đã nhận thấy sự cần thiết phải nâng cao thu nhập của nông dân. Việc ban hành và thực hiện Chỉ thị 100 CT/TW đã cải thiện một bước quan hệ phân phối, khuyến khích lợi ích vật chất của người nông dân nhờ có phần thu nhập vượt khoán. Trong hơn hai thập kỷ qua, sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn phát triển đã có tác động rất rõ rệt đến đời sống vật chất của người dân nông thôn. Trong lĩnh vực văn hoá và tinh thần, sự đổi mới nhận thức thể hiện rõ nét ở chỗ chúng ta đã thừa nhận vai trò quan trọng của gia đình, dòng tộc và cộng đồng trong hoạt động quản lý xã hội. Việc người dân được trao quyền rộng rãi hơn trong các hoạt động kinh tế, xã hội đã trở thành một xu thế phổ biến. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và các biện pháp cải cách hành chính đã tạo cơ hội cho người dân tham gia kiểm soát hoạt động nhà nước, quản lý xã hội và phát triển cộng đồng, khơi dậy tinh thần chủ động, sáng tạo của người dân nông thôn, đánh thức ý thức trách nhiệm và lòng tự hào của cá nhân và cộng đồng trong việc quản lý và làm chủ quê hương. Đây là cơ sở rất quan trọng để người dân nông thôn đa dạng hoá và nâng cao đời sống văn hoá và tinh thần của mình. Hiện nay, việc xây dựng đời sống văn hoá- xã hội của người dân nông thôn được coi là một trong những chủ trương lớn của công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Nghị quyết 5 của Trung ương khoá IV khẳng định chủ trương: “Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, xã văn hoá, phục hồi và phát triển văn hoá truyền thống, phát huy tình làng, nghĩa xóm, sự giúp đỡ và hỗ trợ nhau phát triển trong cộng đồng dân cư nông thôn. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các thiết chế văn hoá, bảo vệ và tôn tạo các di tích lịch sử, di sản văn hoá, danh lam thắng cảnh, đáp ứng yêu cầu hưởng thụ và phát huy tiềm năng sáng tạo của nhân dân. Phát triển công tác thông tin đại chúng và các hoạt động văn hoá, khuyến khích động viên những 5 Đảng CSVN (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 105. CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 11 nhan tố mới, kịp thời phê phán các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, xây dựng lối sống lành mạnh, bảo vệ thuần phong mỹ tục ở nông thôn” 6 . - Thứ bẩy, về các chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân: Quá trình đổi mới chính sách đã phản ánh rõ nét quá trình đổi mới nhận thức của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta về phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân nói chung. Các chính sách đổi mới về căn bản đã từng bước mở rộng việc sử dụng cơ chế thị trường để xử lý các vướng mắc trong quá trình phát triển và sử dụng ngày càng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển. Sự đổi mới chính sách được bắt nguồn trong lĩnh vực đất đai, sau đó được mở rộng sang các lĩnh vực khác như đầu tư, tín dụng, thị trường và các lĩnh vực đặc thù của nông nghiệp, nông thôn như khuyến nông, xóa đói giảm nghèo, v.v. Tính đến nay, sau 20 năm đổi mới, nước ta đã ban hành và thực hiện một hệ thống chính sách tương đối đồng bộ. Ở mức độ khái quát, có thể kể ra những chính sách chủ yếu sau đây: (1) Chính sách ruộng đất; (2) Chính sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn; (3) Chính sách đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn; (4) Chính sách tín dụng nông thôn; (5) Chính sách thị trường, giá cả và tỷ giá hối đoái; (6) Chính sách khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn; (7) Chính sách xuất, nhập khẩu, hội nhập kinh tế quốc tế và bảo trợ sản xuất; (8) Chính sách khuyến nông; (9) Chính sách việc làm và đào tạo nguồn nhân lực; (10) Chính sách xoá đói giảm nghèo; và (11) Chính sách về môi trường. Hiện nay, ở nước ta, việc đổi mới chính sách vẫn được coi là nhân tố then chốt để đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Do những thay đổi của bối cảnh mới, tầm quan trọng tương đối của mỗi chính sách trong cả hệ thống có thể thay đổi. Nội dung các chính sách có thể được bổ sung, hoặc có thể được tách ra từ bộ phận của các chính sách nêu trên đây để trở thành các chính sách độc lập. Chẳng hạn, bên cạnh chính sách ruộng đất, cần bổ sung chính sách mặt nước nuôi trồng thuỷ sản; hoặc chính sách đầu tư cần được phân chia thành các chính sách cụ thể hơn, trong đó có chính sách phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn; hoặc chính sách đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn cũng cần được phân chia thành các chính sách cụ thể hơn, trong đó có chính sách phát triển ngành nghề nông thôn; hoặc 6 Đảng CSVN (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 104. CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 12 cần bổ sung thêm những nội dung của phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững vào các chính sách hiện hành, v.v. Đây là những nội dung đang được các cơ quan chức năng nghiên cứu, phục vụ cho việc xây dựng cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010. II. THỰC TRẠNG HIỆN NAY CỦA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ NÔNG DÂN VIỆT NAM Dưới ánh sáng của những nhận thức mới được nêu trên đây, những đổi mới, cải cách về luật pháp, chính sách và hoạt động điều hành của Nhà nước đã được thực hiện. Sau 20 năm, nông nghiệp, nông thôn nước ta đã có những bước phát triển lớn, đời sống của người dân nông thôn đã có những đổi thay rõ rệt. Hiện nay là thời điểm thích hợp để đánh giá một cách toàn diện những hệ quả quan trọng của 20 năm đổi mới ấy. Phần này trình bày một số nét đánh giá khái quát, đặc biệt chú trọng đến những nội dung của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. 1. Những thành tựu 1.1. Thành tựu tăng trưởng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản Thành tích rất ấn tượng của ngành nông nghiệp nước ta trong nhiều năm qua là ngành đã đạt và duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục. Tính bình quân trong thời kỳ 1990-2004, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm ngành nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và thuỷ sản) đạt 3,9%/năm (Hình 1). Đây là thành tích ấn tượng bởi lẽ trên thế giới rất ít nước có thể đạt và duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và liên tục trong một thời kỳ dài như vậy. CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 13 Hình 1: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, 19902004 (tính theo giá so sánh năm 1994) Đơn vị: % 8 7 6.88 Tèc ®é t¨ng tr−ëng (%) 6 5.23 5 4.8 4.4 4.63 4.33 4.25 4 3.28 3 3.53 3.37 3.19 3.5 2.79 2.18 2 1 1 0 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 N¨m Nguồn: Tổng cục Thống kê. Quá trình tăng trưởng lâu dài và liên tục nêu trên cho thấy rằng năng lực sản xuất nông nghiệp của nước ta đã không ngừng tăng lên. Sản lượng lương thực bình quân đầu người luôn tăng năm sau cao hơn năm trước (Hình 2), góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Đây là cơ sở vững chắc để nước ta tiến nhanh hơn trên con đường CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Hình 2. Sản lượng lương thực bình quân đầu người, 1995-2004 Đơn vị: kg/người/năm S¶n l−îng l−¬ng thùc b×nh qu©n ®Çu ng−êi (kg) 500 433 450 400 373 388 399 408 1996 1997 1998 445 462 464 476 2002 2003 2004 434 350 300 250 200 150 100 50 0 1995 CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 1999 2000 N¨m 2001 14 Nguồn: Tổng cục Thống kê. Trong nền nông nghiệp, đã hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn với tỷ trọng sản phẩm hàng hoá và xuất khẩu đạt cao, hình thành các mối liên kết giữa sản xuất- chế biến- tiêu thụ và xuất khẩu hàng hoá nông sản 7 . Bên cạnh đó, thị trường đối với hàng hoá nông nghiệp và ở các vùng nông thôn đã phát triển mạnh, thúc đẩy việc nâng cao năng suất và chất lượng của sản xuất, sản phẩm. Đây là những yếu tố rất quan trọng tạo động lực cho phát triển nông nghiệp phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế, góp phần định hình con đường CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn nước ta trong những năm qua và những năm tới. 1.2. Thành tựu ứng dụng khoa học và công nghệ vào nông nghiệp Thành tựu ứng dụng khoa học và công nghệ đã góp phần tạo ra sự chuyển biến về chất của nền nông nghiệp nước ta. Nó không chỉ nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất, sản phẩm, thúc đẩy sản xuất hàng hoá, mà còn góp phần đưa nền nông nghiệp tiến gần tới cách tiếp cận phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững. Riêng trong giai đoạn 2001-2005, tổng kinh phí đầu tư cho nghiên cứu khoa học nông nghiệp của cả nước là 1.008 tỷ đồng (trong đó đã đầu tư cho 3 phòng thí nghiệm trọng điểm chuyên nghiên cứu về công nghệ tế bào thực vật và công nghệ tế bào động vật), với sự tham gia nghiên cứu của 7.286 nhà khoa học (trong đó có 508 tiến sĩ, 815 thạc sĩ, 3.116 kỹ sư) 8 . Các nhà khoa học tính toán rằng việc ứng dụng khoa học và công nghệ đã làm tăng khoảng 30% giá trị của ngành nông nghiệp. Những thành tựu khoa học và công nghệ được tạo ra và ứng dụng rộng rãi trong những năm qua tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu sau đây: cơ cấu mùa vụ; cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi; các giống mới có năng suất cao, thích hợp với các điều kiện sinh thái, chống dịch bệnh; các giống lai; các biện pháp bảo vệ thực vật; các công nghệ tưới tiêu; phương thức canh tác; các công thức thức ăn; vắc-xin phòng bệnh; quy trình nuôi dưỡng; công nghệ sau thu hoạch;... (Hộp 1). Đặc biệt, công nghệ sinh học đã được nghiên cứu và ứng dụng ngày càng sâu rộng trong nông nghiệp, mở ra triển vọng phát triển tốt trong tương lai. Các nhà khoa học nhận định rằng, nếu thực hiện tốt việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học, trong vòng 10-20 năm nữa, Việt Nam sẽ có đủ năng lực về con người và thiết bị để làm chủ được công nghệ sinh học hiện đại. 7 Đến nay, trong nông nghiệp nước ta, đã hình thành 15 vùng sản xuất nông sản hàng hoá và hàng hoá xuất khẩu, bao gồm: 2 vùng sản xuất lúa gạo, 2 vùng cao su, 2 vùng cà phê, 1 vùng trồng điều, 1 vùng mía đường, 1 vùng trồng tiêu, 2 vùng chè, 1 vùng cây ăn quả, 1 vùng chăn nuôi bò sữa và 1 vùng nuôi trồng thuỷ sản. 8 Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 144 (21/7/2005), tr. 6. CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 15 Hộp 1. Thành tựu ứng dụng khoa học và công nghệ trong một số lĩnh vực nông nghiệp Trong giai đoạn 1996-2004, các nhà khoa học Việt Nam đã tuyển chọn, tạo được 345 giống cây trồng nông nghiệp mới, trong đó có 149 giống lúa, 44 giống ngô, 14 giống lạc, v.v. Tính riêng trong hai năm 2003-2004, các giống cây trồng do các nhà khoa học Việt Nam tạo và sử dụng trong sản xuất chiếm tỷ lệ diện tích như sau: lúa 45,1% (Đồng bằng Sông Cửu Long 72%); ngô 46,6%; lạc 70,1%; v.v. Cùng với giống, biện pháp canh tác tổng hợp đã được ứng dụng có hiệu quả: ứng dụng công nghệ hạt giống trong hệ thống sản xuất 4 cấp; kỹ thuật thâm canh lúa 3 giảm-3 tăng (giảm giống gieo, phân bón, thuốc trừ sâu và tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả) đã được phát triển thành công trên diện rộng ở Đồng bằng Sông Cửu Long, tăng thu nhập bình quân 1 triệu đồng/ha/vụ; kỹ thuật quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây ăn quả, cây công nghiệp,… đã làm giảm lượng thuốc trừ sâu 2-6 lần, giảm chi phí sản xuất 1,5 triệu đồng/ha/vụ; v.v. Trong lĩnh vực chăn nuôi, việc ứng dụng phương thức chăn nuôi công nghiệp, bán công nghiệp đã nâng tỷ trọng chăn nuôi trong toàn ngành nông nghiệp tăng từ 17,9% năm 1986 lên 20% năm 2004. Trong lĩnh vực thuỷ nông, các nhà khoa học Việt Nam đã hoàn thành luận cứ khoa học áp dụng cho công tác quy hoạch thuỷ lợi, tính cân bằng, bảo vệ và sử dụng có hiệu quả nguồn nước cho 7 vùng sinh thái, đảm bảo tưới cho 7,1 triệu ha lúa, hơn 1 triệu ha rau màu, cây công nghiệp, tiêu úng cho 1,71 triệu ha đất nông nghiệp, cấp 5 tỷ m3 nước/năm cho sinh hoạt và nông nghiệp. Nhiều thành tựu cũng đạt được trong lĩnh vực cải tạo đất với việc cải tạo thau chua, rửa mặn cho 1 triệu ha đất phèn ở Đồng bằng Sông Cửu Long thành đất hai vụ lúa năng suất cao, áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước, tưới nhỏ giọt cho cây vùng đồi góp phần đưa năng suất lúa, cây ăn quả, cây công nghiệp tăng khoảng 1,2- 1,5 lần lại tiết kiệm 70% lượng nước tưới. Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 144 (21/7/2005), tr. 6. Một bước phát triển đáng chú ý nữa là sự hình thành các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta. Đến nay, đã có một khu nông nghiệp công nghệ cao hoàn thành và đi vào hoạt động ở Hà Nội, hai khu đang trong quá trình triển khai xây dựng tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng; và các địa phương khác như Lâm Đồng, Đà Nẵng, Khánh Hoà, Bình Dương, Sơn La, Bạc Liêu, Hưng Yên, CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 16 Thái Bình, Đồng Nai, Tây Ninh,… cũng đã có kế hoạch xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao. Đây là những khu sản xuất nông nghiệp sử dụng công nghệ gien để sản xuất giống cây trồng vật nuôi, sử dụng kỹ thuật tự động hoá, công nghệ thông tin để điều khiển các quá trình sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi. Khu nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội đi vào hoạt động từ tháng 9/2004 và cho đến nay được đánh giá là mang lại hiệu quả cao thực sự. Mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao được coi là một phương thức sản xuất mới và là xu thế tất yếu để thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, nhất là ở những vùng đồng bằng và ven đô thị. 1.3. Thành tựu phát triển các thành phần kinh tế ở nông thôn Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên chế độ đa sở hữu ở nước ta trong thời kỳ đổi mới đã khuyến khích sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế ở nông thôn. Sự phát triền này đã có hệ quả sâu rộng và to lớn đến nhiều lĩnh vực, đáng chú ý là: sự phát triển các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh ở nông thôn; sự phát triển các ngành, nghề ở nông thôn; sự phát triển của sản xuất hàng hoá quy mô lớn ở nông thôn; sự phát triển thị trường ở nông thôn; v.v. - Sự phát triển các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh ở nông thôn: Bên cạnh các loại hình tổ chức sản xuất- kinh doanh vốn đã có từ thời kỳ trước đổi mới như doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp, nông-lâm trường quốc doanh, hợp tác xã nông nghiệp, thì nông thôn ngày nay đã chứng kiến sự nổi lên của một loạt các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh năng động khác như doanh nghiệp dân doanh, trang trại, hộ kinh tế, và kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, các DNNN, nông-lâm trường quốc doanh và HTX nông nghiệp đang trong quá trình cải cách mạnh mẽ để phù hợp với cơ chế mới, cho nên số lượng đã giảm đi đáng kể so với trước đổi mới. HTX, sau một thời gian sụt giảm mạnh hồi đầu những năm 1990, đã bắt đầu hồi phục kể từ khi nước ta thực hiện Luật Hợp tác xã 9 . Đến nay, cả nước có khoảng 10 nghìn HTX cùng hàng nghìn tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Sự phát triển của các HTX đã đáp ứng tốt nhu cầu liên kết, hợp tác của các chủ thể kinh tế nhỏ lẻ ở nông thôn trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của kinh tế thị trường. Kinh tế trang trại là hình thức đặc trưng của kinh tế nông thôn. Kể từ khi đổi mới, sau một thời gian phát triển tương đối mang tính tự phát, kinh tế trang trại nước ta đã từng bước đi vào quỹ đạo phát triển thích hợp. Đặc biệt, từ sau khi có Nghị 9 Luật Hợp tác xã được ban hành năm 1996, có hiệu lực từ ngày 1/1/1997, và được sửa đổi năm 2003. CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 17 quyết 03/2000/NQ-CP ngày 2/2/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại, các trang trại đã gia tăng nhanh về số lượng, mở rộng về quy mô và bước đầu thể hiện tính chuyên môn hoá. Theo ước tính, hiện nay cả nước có khoảng 72 nghìn trang trại (tăng 11 nghìn trang trại so với năm 2001), huy động tổng vốn đầu tư (không tính giá trị đất) đạt hơn 11,5 nghìn tỷ đồng và giải quyết việc làm cho hơn 370 nghìn lao động. Trong nền kinh tế thị trường nước ta, kinh tế trang trại được coi là điểm tựa để phát triển kinh tế hàng hóa trên quy mô lớn, nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, mặt nước, tạo việc làm, đem lại cách làm mới, phá bỏ cách làm nhỏ lẻ, phát triển thị trường ở nông thôn. Bên cạnh các loại hình nêu trên, đặc biệt, kinh tế nông thôn Việt Nam càng sinh động bởi sự phát triển của các doanh nghiệp dân doanh, phản ánh rõ nét sự hiện diện của cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp dân doanh nông thôn tăng khá nhanh sau khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực, và tính đến cuối năm 2004 trên toàn quốc có khoảng 15.600 doanh nghiệp nông thôn (chiếm khoảng 10% tổng số doanh nghiệp dân doanh của cả nước). Trong số đó, doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng 57%, công ty TNHH chiếm 37,5% và công ty cổ phần chiếm 5,5%. Đây là một tín hiệu mới về việc nông dân đã nắm bắt được chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp hàng hoá và kinh tế nông thôn trên quy mô lớn. Sự phát triển của các doanh nghiệp nông thôn được coi là động lực mới của sản xuất nông nghiệp hàng hoá, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và tạo việc làm cho người lao động. Những chủ thể nêu trên đây cùng với khoảng 1,5 triệu hộ kinh doanh nông thôn đang trong quá trình vận động, có cạnh tranh và hợp tác, hướng tới một cơ cấu ngày càng có hiệu quả. Theo xu hướng vận động này, các trang trại nông thôn và doanh nghiệp dân doanh nông thôn được dự báo sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng. Nông trường Sông Hậu được đánh giá là một mô hình điển hình của mối liên hệ vận động theo xu hướng này (Hộp 2). Hộp 2. Nông trường Sông Hậu: một điển hình về chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp Kể từ năm 1996, Nông trường Sông Hậu bắt đầu bước vào giai đoạn đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông trường theo hướng CNH, HĐH. Một trong những ưu tiên hàng đầu là Nông trường thực hiện hỗ trợ, liên kết với các hình thức tổ chức sản xuất khác nhau để thực hiện “xã hội hoá sản xuất hàng xuất khẩu” trên phạm vi rộng nhằm tạo nguồn hàng lớn cho xã hội, tạo thêm sức mạnh trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế. CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 18 Theo hướng đó, trong thời gian qua, Nông trường đã thực hiện hỗ trợ các mô hình kinh tế trong nông nghiệp, thúc đẩy các thành phần kinh tế sản xuất nguyên liệu lớn, tạo nguồn cho chế biến xuất khẩu, đó là: - Phát triển kinh tế hộ: Hỗ trợ các bà con trong Nông trường với việc giải quyết 4 mâu thuẫn cơ bản trong sản xuất nông nghiệp hiện nay: cung cấp tiến bộ khoa học và công nghệ; cung cấp đủ vốn sản xuất cho bà con nông trường viên; bảo hiểm giá nông sản; và bao tiêu sản phẩm. - Hỗ trợ kinh tế hợp tác: Nông trường hỗ trợ kinh tế địa phương về lĩnh vực nông nghiệp như: các chương trình đê bao khép kín, giống cây trồng và vật nuôi; chương trình hỗ trợ HTX phát triển bằng các biện pháp như đầu tư giống mới, đầu tư phân bón trả chậm, hướng dẫn áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất (thí dụ, bón phân theo bảng so màu lá, hỗ trợ máy gieo lúa theo hàng…). - Liên kết với các trang trại: Hỗ trợ về định hướng sản xuất, tiến bộ về quản lý, về khoa học và công nghệ cũng như các thông tin; từng bước triển khai liên kết khai thác nguyên liệu, sản phẩm từ các trang trại để chế biến xuất khẩu. - Liên kết với các doanh nghiệp nhỏ và vừa: Hỗ trợ kinh nghiệm, kỹ thuật chế biến các sản phẩm nông nghiệp và Nông trường chịu trách nhiệm khâu tiêu thụ đầu ra. Nguồn: Chuyên đề Nông nghiệp, số 1/2004, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, có tại: http://www.agroviet.gov.vn. - Sự phát triển ngành, nghề ở nông thôn: Sự phát triển của các loại hình tổ chức sản xuất- kinh doanh ở nông thôn đã thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành, nghề phi nông nghiệp ở nông thôn. Bên cạnh sự ra đời của các ngành, nghề mới là sự khôi phục của các ngành, nghề truyền thống gắn liền với sự hồi phục của nhiều làng nghề truyền thống trong cơ chế thị trường. Theo thống kê, hiện nay cả nước có hơn 1.400 làng nghề, trong đó hai phần ba là làng nghề truyền thống có từ hàng trăm năm nay, bao gồm hàng triệu cơ sở sản xuất với nhiều loại hình tổ chức sản xuất từ hộ gia đình đến tổ sản xuất, tổ hợp tác, hợp tác xã và doanh nghiệp, thu hút khoảng 11 triệu lao động. Các làng nghề truyền thống thuộc ba nhóm sản xuất chính là nhóm chế biến hàng nông lâm sản chiếm 27%, nhóm tiểu thủ công nghiệp và xây dựng chiếm 33% và nhóm sản xuất và dịch vụ khác chiếm 40%. CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 19 Đặc biệt, những doanh nghiệp nông thôn thành lập theo Luật Doanh nghiệp có xu hướng rõ rệt nghiêng về việc lựa chọn các ngành, nghề phi nông nghiệp, nhất là công nghiệp. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tỷ trọng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông-lâm nghiệp và thuỷ sản trong tổng số doanh nghiệp nông thôn của cả nước đã giảm mạnh từ 13,2% năm 2000 xuống còn 5,2% năm 2003, trong khi tỷ trọng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp đã tăng tương ứng từ 40,5% lên 49,0% (Hình 3). Hình 3. Tỷ trọng doanh nghiệp nông thôn phân theo ngành, nghề tại thời điểm ngày 31/12 các năm 2000 và 2003 Đơn vị: % 60 49 50 46.3 45.8 Tû träng (%) 40.5 40 30 20 13.2 10 5.2 0 N«ng-l©m nghiÖp vµ thuû s¶n C«ng nghiÖp 2000 DÞch vô 2003 Nguồn: Tổng cục Thống kê. Bên cạnh các doanh nghiệp dân doanh nông thôn, các HTX và các trang trại cũng đang có những bước chuyển hướng tới các ngành, nghề phi nông nghiệp. Số HTX làm dịch vụ sản xuất, kinh doanh tổng hợp ngày càng gia tăng, ngoài việc làm tốt các dịch vụ hỗ trợ kinh tế hộ xã viên, còn thực hiện liên kết với các thành phần kinh tế khác trong việc tổ chức sản xuất, kinh doanh dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm cho xã viên và phát triển các ngành khác. Đồng thời, đã xuất hiện ngày càng nhiều các trang trại hoạt động kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, sản xuất với chế biến và kinh doanh tổng hợp; có thể nói, hình thức hoạt động này chính là xu hướng phát triển của kinh tế trang trại trong tương lai. - Sự phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn ở nông thôn: Đối với sản xuất nông nghiệp, bên cạnh các điều kiện về tự nhiên, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau là nhân tố CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan