TIỂU LUẬN:
Những bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam từ mô hình kinh tế thị trường
XHCN ở Trung quốc
Lời nói đầu
Quá trình xây dựng mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc
đã trải qua một phần tư thế kỷ. Trên con đường ấy, Trung Quốc đã phải “dò đá qua
sông”, vừa cải cách, vừa tìm tòi các biện pháp thích hợp, vừa không ngừng rút kinh
nghiệm. Thành công bước đầu của mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung
Quốc là biểu trưng cho thành công của những khối óc đột phá về lý luận và quả cảm
trong thực tiễn. Đặng Tiểu Bình đã từng nói: “Bản chất của chủ nghĩa xã hội là giải
phóng sức sản xuất, phát triển sức sản xuất, xoá bỏ bóc lột, xoá bỏ phân hoá hai cực, cuối
cùng đạt tới cùng giàu có”. Mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc
chính là một nỗ lực nhằm đưa xã hội Trung Quốc phát triển theo con đường chủ nghĩa xã
hội “mang đặc sắc Trung Quốc”, thể hiện rõ nhất tinh thần của câu nói mà Đặng Tiểu
Bình đã nêu ra.
Việt Nam là nước láng giềng, có nhiều điểm tương đồng về văn hoá, lịch sử với
Trung Quốc. Đặc biệt, trong thời hiện đại, Việt Nam cũng đã đi con đường phát triển
kinh tế – xã hội mà cả “người anh cả” Liên Xô (cũ) và Trung Quốc đã đi qua. Vì thế, có
thể nhận thấy mô thức đi lên của Việt Nam, những “vấp váp” của Việt Nam đều ít nhiều
mang dáng dấp những gì mà cả Liên Xô (cũ) và Trung Quốc đã trải qua. Đó là cung cách
quản lý kế hoạch tập trung cao độ, đó là phong trào xây dựng hợp tác xã tràn lan (ở
Trung Quốc là xây dựng công xã nhân dân), đó là phong trào lập các xí nghiệp quốc
doanh…, tất cả đều là sản phẩm của tính chủ quan duy ý chí. Tuy nhiên, đứng trước “một
cuộc khủng hoảng thực sự của chủ nghĩa xã hội”, Trung Quốc và Việt Nam – dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở từng nước – đều đã kịp thời và mạnh dạn tiến hành một
cuộc cải cách toàn diện về kinh tế – xã hội, để cùng tiến bước trên con đường xây dựng
nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Trên bước đường cải cách nói chung và cải cách
kinh tế nói riêng, Việt Nam có thể đúc kết và tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ mô
hình kinh tế của Trung Quốc, rút ngắn thời gian chúng ta phải mày mò bước đi. Vẫn biết
mỗi nước có đặc điểm tự nhiên, xã hội khác nhau, xuất phát điểm kinh tế cũng không
giống nhau, nên mô hình kinh tế cũng không thể dập khuôn, máy móc. Nhưng dù sao,
thực tiễn mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc vẫn là một điểm
nhìn tham chiếu bổ ích cho Việt Nam, vẫn để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm
thiết thực, có giá trị.
I. Lí LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm kinh tế thị trường
Kinh tế hàng hoá là một hình thái tổ chức kinh tế mà ở đó, các sản phẩm được sản
xuất ra nhằm mục đích để trao đổi hay để bán. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển
cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều
được mua bán thông qua thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh
nghiệp đều biểu hiện thông qua quan hệ mua bán hàng hoá và dịch vụ trên thị trường.
Mục đích của các thành viên khi tham gia vào thị trường là tìm kiếm lợi ích cho mình
theo sự điều tiết của giá cả trên thị trường.
Xét về mặt lịch sử, kinh tế hàng hoá có trước kinh tế thị trường. Chỉ khi nào kinh
tế hàng hoá tăng trưởng nhanh, thị trường được mở rộng, phong phú, đồng bộ, các quan
hệ thị trường tương đối hoàn thiện mới có kinh tế thị trường. Như vậy, kinh tế thị trường
không phải là một giai đoạn khác biệt, độc lập, đứng ngoài kinh tế hàng hoá mà là giai
đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá.
2. Những điều kiện hỡnh thành kinh tế thị trường
- Sự xuất hiện của thị trường sức lao động:
Đây là điều kiện đầu tiên quyết định sự hình thành của kinh tế thị trường, bởi vì
nó là công cụ để thoả mãn nhu cầu về lợi nhuận cho các nhà kinh doanh, nhờ giá trị sử
dụng đặc biệt của nó. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động đã làm cho
đồng tiền không chỉ đơn thuần là phương tiện mua bán thông thường mà còn là vốn, là tư
bản, là điều kiện đầu tiên để giúp cho các nhà kinh doanh đạt được mục đích là lợi
nhuận. Từ đó dẫn tới sự ra đời các thị trường như thị trường vốn, thị trường tiền tệ…
- Phải tích luỹ được một số tiền nhất định
Thực ra cho đến nay, mọi người đều thừa nhận kinh tế thị trường là thành tựu
chung của nhân loại và nó được sử dụng như một công cụ để thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Song trong lịch sử, chủ nghĩa tư bản là xã hội đầu tiên biết sử dụng kinh tế thị trường.
Vì thế, cũng có thể rút ra từ lịch sử hình thành chủ nghĩa tư bản những vấn đề chung cho
sự hình thành của một nền kinh tế thị trường. Những biện pháp tích luỹ tiền mà giai cấp
tư sản áp dụng trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ nói lên rằng: để chuyển từ kinh tế hàng
hoá giản đơn sang kinh tế thị trường, tất yếu phải có một thời kỳ tích luỹ tiền tệ.
- Cần có hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng tương đối phát triển
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh tế đều có thể được biểu hiện
bằng các chỉ tiêu tiền tệ. Vì vậy, tốc độ lưu chuyển các nguồn vốn tiền tệ rất lớn và hệ
thống của nó rất phức tạp. Sự phát triển của hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng chính
là điều kiện để đáp ứng nhu cầu lưu chuyển vốn tiền tệ cho các doanh nghiệp cũng như
các tổ chức kinh tế, trên cơ sở đó duy trì được sự cân đối giữa cung và cầu về vốn tiền tệ
ở cả tầm vĩ mô cũng như vi mô.
- Phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển
Một trong những vấn đề có tính quy luật của sự hình thành và phát triển kinh tế thị
trường là hệ thống kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước, nhằm đảm bảo cho sự lưu
thông thông suốt của hàng hoá và tạo được môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh
thuận lợi cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư.
- Tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước
Ngày nay, thuyết kinh tế thị trường hoàn toàn tự do không còn thích hợp nữa.
Trong điều kiện mới, nhà nước phải can thiệp bằng nhiều biện pháp, ở những mức độ
khác nhau để điều tiết thị trường, phát triển và bảo vệ nền kinh tế quốc gia, chống khủng
hoảng, giành thắng lợi trong cạnh tranh trên thị trường thế giới.
3. Đặc trưng của kinh tế thị trường
Lịch sử kinh tế thế giới đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế thị trường, với nhiều
đặc điểm khác nhau, nhưng tất cả đều mang những đặc trưng chung của kinh tế thị
trường:
- Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao
Các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường bao gồm các doanh nghiệp, các hộ
kinh doanh, các cá nhân và cả nhà nước. Họ chính là người đề ra các quyết sách kinh tế,
các kinh doanh kinh doanh, họ phải tự chịu trách nhiệm về tính khả thi của các quyết
sách, quyết định được ban hành, cũng như phải gánh chịu rủi ro nếu có.
Chỉ có nền kinh tế hàng hoá dựa trên sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản
xuất mới có được đặc trưng này. Nó hoàn toàn không thể có trong nền kinh tế kế hoạch
hoá, tập trung bao cấp.
- Dung lượng, chủng loại hàng hoá trong nền kinh tế thị trường rất phong phú, đa
dạng, do vậy mọi nhu cầu tiêu dùng của con người dễ dàng được thoả mãn.
Đặc trưng này cũng không thể có được trong một nền kinh tế hàng hoá kém phát
triển. Chỉ có trong nền kinh tế thị trường, với trình độ phát triển cao của lực lượng sản
xuất, của phân công và chuyên môn hoá lao động, mới có được đặc trưng này.
- Giá cả được xác định ngay trên thị trường.
Theo lý luận giá trị của Mác, giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá.
Mà giá hàng hoá lại là sự kết tinh của hao phí lao động xã hội cần thiết. Song trên thực
tế, giá cả không chỉ được quyết định bởi giá trị hàng hoá, còn chịu ảnh hưởng khá lớn
của quan hệ cung cầu. Sự biến động của quan hệ cung cầu kéo theo sự biến động của giá
cả và ngược lại.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, giá cả là phạm trù kinh tế trung tâm, vừa là
chiếc “phong vũ biểu” phản ánh tình trạng của thị trường, lại vừa là công cụ thông qua
cung cầu để điều tiết hoạt động của các chủ thể kinh tế.
- Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường.
Mọi động lực của cạnh tranh suy đến cùng đều xuất phát từ lợi ích kinh tế. Trong
cuộc cạnh tranh đó, tất yếu có người được người thua. Tuy nhiên, cần phân biệt cạnh
tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh.
Cạnh tranh lành mạnh là tình trạng cạnh tranh diễn ra trong khuôn khổ của pháp
luật và bằng những biện pháp kinh tế – kỹ thuật, qua đó nâng cao năng suất lao động, số
lượng và chất lượng hàng hoá, dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả trong kinh
doanh. Cạnh tranh lành mạnh là động lực phát triển của nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh không lành mạnh là những quan hệ cạnh tranh được tiến hành bằng
những hình thức, biện pháp phi kinh tế, vi phạm pháp luật, thu lời bất chính. Quan hệ
cạnh tranh kiểu này gây thiệt hại cho người tiêu dùng, đồng thời cũng gây thiệt hại cho
xã hội nói chung, nên cần nghiêm trị bằng pháp luật.
- Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở.
Bởi kinh tế thị trường lấy trao đổi làm mục đích của sản xuất kinh doanh, mà đã
trao đổi thì phải “mở cửa”, hướng ra bên ngoài). Trên thực tế, không thể tồn tại một nền
kinh tế thị trường theo kiểu “đóng kín”, không có giao lưu kinh tế với bên ngoài. Thực
tiễn phát triển kinh tế thị trường ở các nước trên thế giới đều chứng minh điều đó.
II. Mễ HèNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TRUNG QUỐC
1. Quỏ trỡnh hỡnh thành và xõy dựng thể chế kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở
Trung Quốc
1.1. Quá trình hình thành mục tiêu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa ở Trung Quốc (giai đoạn 1978-1992)
Vào thời kỳ đầu mới xây dựng đất nước, Trung Quốc đã xác lập thể chế kinh tế kế
hoạch hoá tập trung thống nhất cả nước nhằm thích ứng với đòi hỏi về thống nhất tài
chính và kinh tế, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp
và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa cũng như việc tập trung sức lực xây dựng công
nghiệp hoá bước đầu. Trong điều kiện lúc bấy giờ, thể chế đó đã từng phát huy vai trò
quan trọng. Nhưng cùng với quy mô kinh tế không ngừng mở rộng, quan hệ kinh tế ngày
càng phức tạp, thì những tệ nạn “quản quá chặt” của thể chế này dần dần bộc lộ ra. Cộng
thêm sau đó Trung Quốc lại coi những biện pháp đúng đắn về phát huy vai trò thị trường
và phát triển kinh tế hàng hoá là “chủ nghĩa tư bản” và chống lại nó, làm cho nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa dần mất đi sức sống.
Sự thay đổi nhận thức, từ “nền kinh tế cân đối có kế hoạch” sang nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa, là một quá trình tìm tòi, đấu tranh lâu dài, trước hết là trên lĩnh
vực lý luận. Người Trung Quốc gọi đó là quá trình “dò đá qua sông”. Sau hơn 10 năm kể
từ khi chuyển sang cải cách (từ năm 1978), Trung Quốc mới dần dần chủ trương thiết lập
“nền kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa”; đến Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung
Quốc (10/1992) mới chính thức chủ trương “mục tiêu cải cách thể chế kinh tế là xác lập
nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”. Quá trình này có thể chia làm ba bước:
Bước 1: Từ “hạn chế luận” tiến tới “bổ sung luận” (1978-1982)
Trước đây, lý luận kinh tế học xã hội chủ nghĩa chủ trương cần phải hạn chế điều
tiết của thị trường, tiến tới thủ tiêu nó bằng kế hoạch hoá. Hội nghị Trung ương 3 khoá
XI năm 1978 là bước ngoặt lớn, có ý nghĩa sâu xa trong lịch sử Đảng Cộng sản Trung
Quốc, đánh dấu Trung Quốc đã bước sang thời kỳ mới cải cách mở cửa và xây dựng hiện
đại hoá xã hội chủ nghĩa. Hội nghị đã khôi phục và phát triển đường lối tư tưởng mácxít
do Mao Trạch Đông đề xướng, quả quyết đề ra quyết sách chiến lược về chuyển trọng
điểm công tác của Đảng và Nhà nước sang xây dựng hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa, nêu
ra thay đổi từ nhiều mặt, mối quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng không thích ứng
với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thay đổi tất cả các phương thức quản lý, phương
thức hoạt động và phương thức tư tưởng không còn phù hợp. Từ đó, cuộc cải cách thể
chế kinh tế theo hướng thị trường của Trung Quốc đã được mở ra. Cuộc cải cách bắt đầu
từ nông thôn, thực hiện chế độ khoán hộ gia đình, cho phép nông dân được hưởng quyền
tự chủ sản xuất lớn hơn, đã huy động mạnh mẽ tinh thần tích cực của đông đảo quần
chúng nông dân. Năm 1982, Đại hội XII của Đảng Cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh
phải kết hợp chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác với thực tế cụ thể của Trung Quốc, đi
con đường của mình, xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc; căn cứ vào
thực tiễn cải cách qua mấy năm, đã nêu ra nguyên tắc cải cách thể chế kinh tế là “kinh tế
kế hoạch là chính, điều tiết thị trường là bổ sung”.
Bước 2: Từ “bổ sung luận” tiến tới “kết hợp luận” (1983-1987)
Từ giữa những năm 80, công cuộc cải cách, mở cửa ở Trung Quốc đi vào chiều
sâu và phát triển nhanh chóng, đặc biệt ở các vùng ven biển, trong khi đó cải cách ở
thành thị lại có xu hướng chậm hơn, khó đáp ứng được đòi hỏi của tăng trưởng. Lý
thuyết “kinh tế thị trường là bổ sung” ngày càng tỏ ra không phù hợp. Mặt khác, thực
tiễn lại cho thấy có nới rộng thị trường thì mới có thể làm sống lại xí nghiệp, từ đó phát
triển nhanh nền kinh tế.
Năm 1984, đáp ứng đòi hỏi phát triển của tình hình cải cách thể chế kinh tế từ
nông thôn tới thành thị, Hội nghị Trung ương 3 khoá XII đã ra “quyết định về cải cách
thể chế kinh tế”, nêu rõ kinh tế hàng hoá là giai đoạn không thể bỏ qua trong phát triển
kinh tế – xã hội, kinh tế xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc là nền kinh tế hàng hoá có kế
hoạch trên cơ sở chế độ công hữu, điều đó về lý luận đã đột phá quan niệm truyền thống
coi kinh tế kế hoạch và kinh tế hàng hoá là đối lập với nhau.
Năm 1987, Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc trình bày lý luận giai
đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội một cách có hệ thống, khái quát hoàn chỉnh đường lối cơ
bản của Đảng trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, chỉ ra thể chế kinh tế hàng hoá
có kế hoạch xã hội chủ nghĩa phải là thể chế thống nhất nội tại giữa kế hoạch và thị
trường, vai trò của kế hoạch và thị trường đều phủ khắp toàn xã hội, nêu rõ mô hình quản
lý kinh tế “nhà nước điều tiết thị trường, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp”, làm cho
cuộc cải cách theo hướng thị trường lại tiến thêm một bước quan trọng. Sau hội nghị
Trung ương 4 khoá XIII, Đảng Cộng sản Trung Quốc lại nêu rõ phải xây dựng thể chế
kinh tế và cơ chế vận hành mà kinh tế kế hoạch kết hợp với sự điều tiết thị trường, thích
ứng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá có kế hoạch. Những tìm tòi trong hơn 10 năm
đó đã đặt nền móng cho việc cuối cùng xác định mục tiêu cải cách về xây dựng thể chế
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Bước 3: Từ “kết hợp luận” tiến tới “cơ sở luận” (1988-1992)
Các nhà khoa học và lãnh đạo Trung Quốc đều cho rằng bước 2 là bước tiến vô
cùng quan trọng, có ý nghĩa lớn, song chưa thật triệt để. Nó chưa giải quyết được vấn đề
lớn là kế hoạch và thị trường, cái gì là cơ sở trong vận hành kinh tế. Do những mắc mớ
trong lý luận nên chính sách của Nhà nước cuối những năm 80 có nhiều lúng túng, trong
khu vực Nhà nước, diện các xí nghiệp thua lỗ tăng lên. Trong khi đó, ở các vùng nông
thôn ven biển, những khu chủ nghĩa mới hình thành mà quốc hữu không chiếm ưu thế thì
sự phát triển ngày một tăng lên. Những hiện tượng này tạo ra cách nghĩ: nếu không phá
bỏ cách nghĩ kinh tế kế hoạch kiểu cũ, xác lập đúng mức cần thiết vai trò của thị trường
thì công cuộc cải cách ở Trung Quốc sẽ gặp trở ngại lớn, thậm chí thất bại. Trong bối
cảnh ấy, Đặng Tiểu Bình đi thị sát miền Nam Trung Quốc vào đầu những năm 1992 và
đưa ra những luận điểm mới về kinh tế thị trường:
- Kế hoạch nhiều hơn một chút hay thị trường nhiều hơn một chút không phải là sự
khác biệt bản chất giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản. Kinh tế kế hoạch
không có nghĩa là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản cũng có kế hoạch; kinh tế thị
trường không có nghĩa là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội cũng có thị trường.
Kế hoạch và thị trường đều là những biện pháp kinh tế.
- Giữa chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường không tồn tại mâu thuẫn căn bản. Vấn
đề là dùng phương pháp gì mới có thể phát triển mạnh mẽ hơn sức sản xuất xã
hội. Chỉ thực hiện kinh tế kế hoạch sẽ trói buộc sự phát triển của sức sản xuất, kết
hợp kinh tế kế hoạch với kinh tế thị trường lại với nhau, thì càng giải phóng được
sức sản xuất, đẩy nhanh kinh tế phát triển.
- Kế hoạch và thị trường đều là phương pháp. Chỉ cần có lợi cho phát triển sản xuất,
thì có thể vận dụng. Nó phục vụ cho chủ nghĩa xã hội, tức là của chủ nghĩa xã hội;
phụ vụ cho chủ nghĩa tư bản, tức là của chủ nghĩa tư bản.
Trình bày súc tích này về căn bản đã xoá bỏ những trói buộc tư tưởng lâu năm coi
kinh tế kế hoạch và kinh tế thị trường thuộc phạm trù của chế độ cơ bản của xã hội, làm
cho nhận thức của giới lãnh đạo và khoa học ở Trung Quốc có bước đột phá quan trọng.
Tháng 10/1992, Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã trình bày lý luận xây
dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc của Đặng Tiểu Bình một cách có hệ
thống, chính thức xác định: “Mục tiêu cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc là xây
dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, và coi thị trường là có vai trò cơ sở
trong việc bố trí phân phối các nguồn lực dưới sự khống chế của Nhà nước. Điều đó đã
chỉ rõ phương hướng cho việc xây dựng thể chế kinh tế mới xã hội chủ nghĩa ở Trung
Quốc.
1.2. Quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc
(giai đoạn 1992-2003)
Sau Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, cuộc cải cách với mục tiêu xây
dựng thể chế thị trường xã hội chủ nghĩa được triển khai toàn diện tại Trung Quốc. Năm
1993, Hội nghị Trung ương 3 khoá XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua
“quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, vạch
ra bức tranh và khung cơ bản của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Quyết định
đó trở thành cương lĩnh hành động chỉ đạo cuộc cải cách thể chế của Trung Quốc.
Năm 1997, Đại hội XV của Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định lý luận Đặng
Tiểu Bình là tư tưởng chỉ đạo của toàn Đảng, nêu ra cương lĩnh cơ bản trong giai đoạn
đầu của chủ nghĩa xã hội, xác lập chế độ kinh tế cơ bản lấy chế độ công hữu xã hội chủ
nghĩa làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển, yêu cầu rõ ràng phải kiên trì
phương hướng cải cách kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Hơn 10 năm từ Đại hội XIV trở lại đây, Trung Quốc tiếp tục đi sâu cải cách kinh
tế nông thôn, đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp quốc hữu, chuyển biến chức năng quản lý
kinh tế của chính quyền, hình thành và phát triển hệ thống thị trường, kiện toàn và hoàn
thiện hệ thống điều tiết vĩ mô, tăng cường xây dựng chế độ pháp luật của kinh tế thị
trường, đẩy nhanh một loạt các cải cách về tài chính, thuế, tiền tệ, ngoại thương, ngoại
hối, đầu tư, giá cả, bảo đảm xã hội, nhà ở, việc làm…, việc xây dựng thể chế kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa đã giành được những bước tiến. Năm 2002, Đại hội XVI của
Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra mục tiêu trong 20 năm đầu của thế kỷ này phải xây
dựng nên thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa hoàn thiện và hệ thống kinh tế có
sức sống hơn, mở cửa hơn.
2. Hàm nghĩa và đặc trưng của kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc
Kể từ khi Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra mục tiêu cải cách
xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đến nay, giới lý luận và cơ quan
công tác thực tế của Trung Quốc đã tiến hành tìm tòi, thảo luận sâu sắc về hàm nghĩa của
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, thông thường người Trung Quốc cho rằng:
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế mà thị trường đóng vai trò nền tảng đối
với phân phối tài nguyên trong điều kiện xã hội chủ nghĩa, là nền kinh tế kết hợp giữa cơ
chế vận hành kinh tế thị trường với chế độ xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ những quan điểm trên, so với kinh tế thị trường trong điều kiện tư
bản chủ nghĩa và kinh tế kế hoạch trước đây, đặc trưng của kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa có thể quy nạp vào mấy điểm như sau:
- Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế mà thị trường đóng vai trò điều
tiết nền tảng trong việc phân phối tài nguyên, chứ không phải là nền kinh tế mà
biện pháp hành chính đóng vai trò điều tiết nền tảng trong việc phân phối tài
nguyên.
- Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế kết hợp giữa cơ cấu sở hữu lấy
chế độ công hữu là chủ thể, nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại và cơ chế thị trường.
Nếu không lấy chế độ công hữu làm chủ thể, có thể gọi là kinh tế thị trường,
nhưng nhất thiết không thể gọi là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
- Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế có sự điều tiết vĩ mô của nhà
nước, nó không phải là kinh tế bị bỏ mặc tự do, cũng không phải kinh tế mệnh
lệnh hành chính. Trong điều kiện kinh tế thị trường, điều tiết vĩ mô là một khái
niệm đặc định, nó phải lấy bù đắp thiếu sót của thị trường làm chính, lấy biện
pháp gián tiếp làm chính, lấy điều tiết tổng lượng làm chính, lấy thu được hiệu
quả vĩ mô tương đối tốt làm chính.
- Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế lấy thực thể kinh tế độc lập hoặc
tương đối độc lập đa dạng hoá làm nền tảng vi mô và chủ thể cạnh tranh, là nền
kinh tế với tiền đề là con người theo đuổi hiệu quả kinh tế và lợi ích vật chất. Nếu
con người không quan tâm, không theo đuổi lợi ích vật chất thì vừa không cần
thiết xây dựng thể chế kinh tế thị trường, cơ chế thị trường cũng không phát huy
được tác dụng.
- Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế ưu tiên hiệu suất, chiếu cố đến
công bằng, không phải là nền kinh tế chủ nghĩa bình quân “ăn nồi cơm chung”,
cũng không phải là nền kinh tế dẫn đến phân hoá hai cực.
- Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế “chữ tín” và kinh tế pháp chế.
- Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế mở cửa đối với cả trong và
ngoài nước, cạnh tranh công bằng, không phải là nền kinh tế bảo hộ khu vực, độc
quyền hành chính, bế quan toả cảng.
- Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mà Trung Quốc theo đuổi hiện nay thực tế là
nền kinh tế thị trường trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, là nền kinh tế
chuyển từ thể chế kinh tế kế hoạch sang thể chế kinh tế thị trường. Nó không phải
là thể chế kinh tế thị trường phát triển, cũng không phải là kinh tế thị trường tự
nhiên phát triển. Bởi vậy, trong quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa, phải dự kiến đầy đủ tính phức tạp và tính gian khổ của cải cách.
Vừa phải chú ý kiên trì phương hướng xã hội chủ nghĩa, lại phải nới lỏng để kinh
tế thị trường nhanh chóng trưởng thành; vừa phải tiến hành chuyển đổi căn bản
thể chế, lại phải chú trọng chuyển biến căn bản quan niệm.
3. Thành tựu và những vấn đề cũn tồn tại của mụ hỡnh kinh tế thị trường xó hội chủ
nghĩa ở Trung Quốc
3.1. Thành tựu của mụ hỡnh kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc
Xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, tức là phải làm cho thị
trường đóng vai trò cơ sở trong việc phân phối tài nguyên dưới sự điều tiết vĩ mô của
Nhà nước, làm cho hoạt động kinh tế tuân theo yêu cầu của quy luật giá trị, thích ứng với
sự thay đổi của quan hệ cung cầu; thông qua chức năng của cán cân giá cả và cơ chế
cạnh tranh để phân phối tài nguyên vào những khâu có hiệu quả tương đối tốt, gây sức ép
và tạo động lực cho doanh nghiệp, thực hiện việc “đào thải tự nhiên”; vận dụng ưu điểm
phản ứng nhạy bén của thị trường đối với các loại thông tin kinh tế, thúc đẩy điều chỉnh
kịp thời giữa sản xuất và nhu cầu. Trong những năm qua, Trung Quốc không ngừng đi
sâu cải cách các mặt, tích cực thúc đẩy việc sáng tạo về thể chế, cố gắng xoá bỏ những
cản trở mang tính thể chế làm ảnh hưởng đến sự phát triển của sức sản xuất, đã thu được
thành quả to lớn và bước đầu xây dựng nên thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
- Thứ nhất, cục diện lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu
cùng phát triển đã cơ bản hình thành.
Lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển là một
chế độ kinh tế cơ bản của Trung Quốc trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, cũng là
bộ phận cấu thành quan trọng của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Phát triển
kinh tế quốc hữu lớn mạnh, kinh tế quốc hữu khống chế mạch máu của nền kinh tế quốc
dân, có vai trò then chốt đối với việc phát huy tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa,
tăng cường thực lực kinh tế, sức mạnh quốc phòng và sức gắn bó dân tộc của Trung
Quốc. Kinh tế tập thể là bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế công hữu, có vai trò
quan trọng đối với việc thực hiện cùng nhau làm giàu. Kinh tế phi công hữu gồm các
hình thức cá thể và tư doanh… là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa, có vai trò quan trọng đối với việc huy động đầy đủ tinh thần tích cực của mọi
mặt xã hội và tăng nhanh phát triển sức sản xuất.
Qua cố gắng trong hơn 10 năm qua, một mặt, kinh tế quốc hữu của Trung Quốc
được phát triển lớn mạnh thêm một bước, khả năng kiểm soát và sức cạnh tranh tăng
cường rõ rệt, tổng tài sản quốc hữu đã đạt 12.000 tỷ NDT. Kinh tế quốc hữu chiếm vị trí
chủ đạo trong các lĩnh vực then chốt liên quan đến quốc kế dân sinh. Theo yêu cầu về
việc xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại, Trung Quốc đẩy nhanh bước đi cải cách của
doanh nghiệp quốc hữu, thể chế quản lý và cơ chế kinh doanh của doanh nghiệp đã có sự
biến đổi sâu sắc, chế độ cạnh tranh “đào thải tự nhiên” của doanh nghiệp bước đầu hình
thành, xuất hiện một loạt những doanh nghiệp mạnh có thực lực, có sức sống và có sức
cạnh tranh. Kinh tế tập thể ở thành thị và nông thôn cũng không ngừng phát triển. Mặt
khác, các doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được
trưởng thành “ngoài thể chế” chiếm tỷ trọng tăng vọt lên, trở thành chủ thể thị trường sôi
động nhất trong kinh tế thị trường Trung Quốc, cơ cấu của chế độ sở hữu hợp lý hơn.
Theo tính toán, 72% giá trị gia tăng công nghiệp của năm 1999 là do kinh tế phi quốc
hữu tạo ra. Tỷ trọng của kinh tế phi quốc hữu trong kinh tế quốc dân đã đạt gần 2/3, phát
triển đặc biệt nhanh chóng trong các ngành nghề công nghiệp, xây dựng, nội thương, vận
tải đường bộ, dịch vụ ăn uống, và đã chiếm địa vị chủ đạo.
- Thứ hai, thị trường đóng vai trò cơ sở rõ rệt trong việc phân phối tài nguyên.
Đó là nội dung bản chất của cuộc cải cách thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa. Trong những năm qua, qua cải cách thể chế về các mặt kế hoạch, giá cả, lưu
thông…, vai trò của cơ chế thị trường trong việc phân phối tài nguyên đã thay đổi về căn
bản. Trước đây, kế hoạch có tính pháp định không chỗ nào là không có, không chỗ nào
là không thực hiện, bao trùm trong các lĩnh vực kinh tế quốc dân. Hiện nay, việc sản xuất
sản phẩm cũng như việc hình thành giá cả hàng hoá và dịch vụ chủ yếu là do thị trường
quyết định. Kế hoạch mệnh lệnh đối với sản xuất nông sản đã hoàn toàn xoá bỏ, kế hoạch
mệnh lệnh đối với sản xuất hàng công nghiệp chỉ còn giới hạn ở năm loại như gỗ, vàng,
thuốc là, muối và khí đốt thiên nhiên.
Bên cạnh thị trường sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, thị trường vốn và quyền sở
hữu phát triển nhanh chóng, thị trường lao động không ngừng hoàn thiện, lượng giao
dịch của thị trường kỹ thuật và thị trường đất đai không ngừng tăng lên. Môi trường của
thị trường không ngừng cải thiện, một số lượng lớn các thị trường giao dịch hàng hoá
hiện đại với kim ngạch giao dịch đạt hàng chục tỷ NDT đã trở thành kênh quan trọng liên
hệ sản xuất với tiêu thụ, nối liền thành thị với nông thôn. Trung tâm lưu thông hàng hoá,
trung tâm điều phối và vận chuyển hàng hoá cũng như thương mại điện tử có những
bước phát triển nhất định. Pháp quy của thị trường từng bước kiện toàn, cơ quan giám sát
thị trường và cơ quan chứng nhận từng bước hoàn thiện, sự đóng cửa khu vực và sự lũng
đoạn của ngành nghề dần dần bị xoá bỏ, trật tự cạnh tranh thị trường công khai, công
bằng đang được hình thành.
Đa số kết quả tính toán của các học giả trong nước đều cho thấy: Cuối những năm
90 thế kỷ XX, trình độ thị trường hoá của kinh tế Trung Quốc đã đạt 69%. Theo “Báo
cáo về mức độ tự do của kinh tế thế giới năm 2001” do Canada xuất bản, thì chỉ số về
mức độ tự do của kinh tế Trung Quốc đã nâng từ 3,2 lên 5,8 trong thời kỳ 1980-1999 (chỉ
số này từ 1 đến 10, chỉ số càng lớn thì mức độ tự do càng cao), từ vị trí thứ 101 nâng lên
thứ 81.
- Thứ ba, bước đầu đã xây dựng nên hệ thống điều tiết vĩ mô chủ yếu áp dụng biện
pháp kinh tế và biện pháp pháp luật.
Vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước và cơ chế thị trường đều là yêu cầu bản chất
của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, hai mặt gắn bó với nhau, bổ trợ cho nhau
và thúc đẩy lẫn nhau. Mục tiêu chính của sự điều tiết vĩ mô là thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, tạo thêm việc làm, ổn định giá cả, gìn giữ cân bằng của thu chi quốc tế. Thông qua cải
cách, Trung Quốc bước đầu xác định rõ chủ thể của sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, biện
pháp điều tiết vĩ mô đã thay đổi về thực chất, về cơ bản đã thực hiện sự chuyển biến từ
kế hoạch pháp lệnh sang chủ yếu vận dụng các biện pháp kinh tế, pháp luật và hành
chính cần thiết, thực hiện sự chuyển biến từ điều hành trực tiếp sang điều hành gián tiếp,
và vận dụng tổng hợp các chính sách thuế, lãi suất, giá cả và đầu tư để điều hành sự vận
động của nền kinh tế. Vào lúc xuất hiện kinh tế “quá nóng” đầu những năm 90 của thế kỷ
trước, Trung Quốc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ chắt chặt vừa phải, làm cho nền
kinh tế “hạ cánh mềm”, tránh xảy ra bấp bênh lớn. Năm 1997, sau khi khủng hoảng tài
chính tiền tệ châu á bùng nổ, trong tình hình thiếu nhu cầu hữu hiệu, Trung Quốc thực
hiện phương châm kích cầu trong nước, sử dụng chính sách tài chính tích cực và chính
sách tiền tệ ổn định, phát huy vai trò điều tiết của các đòn bẩy kinh tế, làm cho nền kinh
tế phát triển bền vững, nhanh chóng và lành mạnh.
- Thứ tư, chế độ phân phối lấy phân phối theo lao động làm chủ thể, nhiều hình
thức phân phối cùng tồn tại càng được hoàn thiện hơn.
Chế độ kinh tế cơ bản trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc đã
thực hiện chế độ phân phối lấy phân phối theo lao động làm chủ thể, nhiều hình thức
phân phối cùng tồn tại. Theo yêu cầu về “ưu tiên hiệu suất, tính đến công bằng”, Trung
Quốc đi sâu cải cách chế độ phân phối, xác định phân phối theo sự đóng góp các yếu tố
sản xuất như lao động, vốn, kỹ thuật và quản lý. Lấy cùng nhau làm giàu làm mục tiêu,
tăng cường chức năng điều tiết của chính quyền đối với việc phân phối thu nhập, không
ngừng nâng cao tỷ trọng của những người có thu nhập trung bình, nâng cao mức thu
nhập của những người có thu nhập thấp. Hiện nay, hình thức thu nhập của cư dân Trung
Quốc có xu hướng đa dạng hoá. Lao động vẫn là hình thức chủ yếu nhất để con người có
được nguồn thu nhập, nhưng tỷ trọng của thu nhập phi lao động dần dần tăng lên. Theo
điều tra mẫu, trong thu nhập hàng năm bình quân đầu người của gia đình cư dân thành
thị, tỷ trọng của thu nhập có tính tài sản, thu nhập có tính chuyển giao và các thu nhập
khác đã nâng từ 19,4% (năm 1995) lên 26,2% (năm 2001), tỷ trọng của các loại thu nhập
lao động thì giảm tương ứng từ 80,6% xuống còn 73,8%. Nhà nước đã tăng cường sự
điều tiết đối với việc phân phối lại thu nhập, thu nhập có tính chuyển giao trở thành
nguồn thu nhập quan trọng của một bộ phận cư dân.
- Thứ năm, bộ khung của hệ thống bảo đảm xã hội thích ứng với trình độ phát triển
kinh tế đã cơ bản được xây dựng.
Hệ thống đảm bảo xã hội hoàn thiện là trụ cột quan trọng của thể chế kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa. Hệ thống đảm bảo xã hội của Trung Quốc gồm bảo hiểm xã hội,
cứu tế xã hội, phúc lợi xã hội, ưu đãi, chăm sóc và ổn định cuộc sống cho người có công,
tương trợ xã hội, đảm bảo bằng tiền gửi tiết kiệm cá nhân… Hơn 10 năm qua, theo mục
tiêu chung về xây dựng hệ thống bảo đảm xã hội tách riêng ra khỏi đơn vị doanh nghiệp
và sự nghiệp, có nguồn vốn đa dạng hoá, đảm bảo chế độ quy phạm hoá, quản lý và dịch
vụ xã hội hoá, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, kết hợp với tình hình trong nước,
thông qua nhiều trường hợp thí điểm, việc xây dựng hệ thống bảo đảm xã hội không
ngừng được thúc đẩy đi lên. Chế độ bảo hiểm dưỡng lão cơ bản của công nhân viên ở
thành thị đã được xây dựng, cải cách chế độ bảo hiểm y tế đã khởi động toàn diện, chế độ
bảo hiểm thất nghiệp được hoàn thiện thêm. Chế độ y tế hợp tác kiểu mới ở nông thôn
bắt đầu thí điểm. Cư dân khó khăn thuộc diện chính sách trong thành phố đã từng bước
được bảo đảm mức sống tối thiểu. Nhìn chung, hệ thống bảo đảm xã hội mà nội dung
chính là bảo hiểm dưỡng lão, thất nghiệp và y tế đã bước đầu hình thành, số thuộc diện
của bảo đảm xã hội không ngừng được mở rộng. Cho đến nay, số cư dân thành thị nằm
trong chế độ cần đảm bảo về mức sống tối thiểu đạt hơn 21 triệu, số người tham gia bảo
hiểm dưỡng lão vượt quá 150 triệu, số người tham gia bảo hiểm y tế và thất nghiệp đều
đạt hơn 100 triệu.
- Thứ sáu, cục diện mở cửa với bên ngoài đa phương hoá, nhiều tầng nấc, lĩnh vực
rộng không ngừng hoàn thiện.
Mở cửa với bên ngoài là một quốc sách cơ bản, lâu dài của Trung Quốc, cũng là
con đường tất yếu trong tiến trình đẩy nhanh hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa. Xây dựng thể
chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cần phải kiên trì mở cửa với bên ngoài. Trong
thời kỳ đầu mới cải cách, Trung Quốc xây dựng bốn đặc khu kinh tế, mở cửa 14 thành
phố cảng ven biển, mở cửa hàng loạt các cửa khẩu biên giới, mở cửa thành phố nội địa
và khu khai phát, cơ bản hình thành cục diện mở cửa đối ngoại nhiều tầng lớp, đa hình
thức, toàn phương vị và nhiều lĩnh vực, cơ chế vận hành kinh tế đối ngoại thích ứng với
thông lệ quốc tế bước đầu được hình thành. Thể chế ngoại thương không ngừng được cải
cách. Năm 2001, Trung Quốc chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, đánh
dấu việc mở cửa với bên ngoài bước sang giai đoạn mới. Trung Quốc thực hiện chính
sách “thu hút vào” kết hợp với “đi ra ngoài”, tận dụng đầy đủ hai thị trường và hai tài
nguyên trong và ngoài nước, lấy mở cửa thúc đẩy cải cách, thúc đẩy phát triển.
Năm 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu ngoại thương của Trung Quốc đạt 620,8 tỷ
đôla Mỹ, vươn lên xếp thứ 5 trên thế giới. Dự trữ ngoại tệ đã đạt hơn 340 tỷ đôla Mỹ. Kể
từ năm 1993, liên tiếp 9 năm Trung Quốc đứng đầu trong các nước đang phát triển về
việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và khu vực. Trong quá trình mở cửa với
bên ngoài, Trung Quốc chú ý giải quyết tốt mối quan hệ giữa việc mở rộng mở cửa với
bên ngoài, và kiên trì tự lực gánh sinh, luôn luôn đứng trên nền tảng dựa vào sức mình,
chú ý bảo vệ quyền quốc gia và an ninh kinh tế – xã hội, chú ý phòng ngừa và khắc phục
tác động của rủi ro quốc tế.
Nói tóm lại, việc bước đầu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã
đưa nền kinh tế Trung Quốc đến những thay đổi mang tính lịch sử. Chỉ tiêu pháp lệnh và
phương thức phân phối nguồn lực theo kế hoạch chồng chéo về cơ bản đã chuyển biến
theo phương thức cạnh tranh, phân phối nguồn thị trường theo chiều ngang; thực hiện
bước chuyển biến từ thị trường bán hàng hoá tem phiếu, thương phẩm thiếu thốn chuyển
sang thị trường với các sản phẩm phong phú, chủng loại đa dạng; thực hiện bước chuyển
biến kinh tế từ đóng cửa, bán mở cửa sang nền kinh tế mở với nhiều tầng bậc, đa phương
vị; vận hành nền kinh tế chuyển từ mô hình cung cấp với đặc trưng cơ bản là “thiếu
thốn” chuyển sang mô hình lấy nhu cầu thị trường làm chính và kết hợp với những ràng
buộc về nguồn lực; phương thức tăng trưởng kinh tế chuyển từ kinh doanh rời rạc sang
kinh doanh tập trung; nền kinh tế quốc dân từ bất ổn định chuyển sang phát triển bền
vững, nhanh và mạnh.
Trong 13 năm (1989-2002), GDP của Trung Quốc bình quân hàng năm tăng
9,3%, đứng đầu các nước trên thế giới trong cùng thời kỳ. Năm 2002, GDP của Trung
Quốc đạt 10.200 tỷ NDT, đứng thứ 6 trên thế giới. Thu nhập bình quân đầu người của gia
đình nông dân tăng từ 630 NDT (1990) lên 2476 NDT (2002); thu nhập bình quân đầu
người của cư dân thành thị tăng từ 2150 NDT (1990) lên 7703 NDT (2002). Mức sống
của nhân dân không ngừng nâng cao, đã thực hiện bước nhảy vọt lịch sử, từ ấm no lên
khá giả, sự nghiệp giáo dục, khoa học, văn hoá và dân số, môi trường cũng như các sự
nghiệp xã hội khác đều đạt được thành tựu mang tính lịch sử. Mọi người đều công nhận
rằng mười mấy năm đó là thời kỳ mà quốc lực tổng hợp của Trung Quốc được tăng
cường mạnh mẽ, nhân dân được hưởng lợi ích thực tế nhiều nhất, là thời kỳ xã hội Trung
Quốc yên ổn đoàn kết lâu dài và “chính trị thông suốt, nhân dân hoà thuận”, là thời kỳ
ảnh hưởng của Trung Quốc đối với quốc tế được nâng cao rõ rệt và sức tập hợp dân tộc
được tăng cường mạnh mẽ.
3.2. Những trở ngại chính trong việc đi sâu hơn nữa cải cách theo hướng thị trường
hoá của thể chế kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc
Bước đầu hình thành thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa không có nghĩa là
thể chế kinh tế thị trường đã hoàn toàn được xây dựng nên và vận hành có hiệu quả, cũng
không có nghĩa là nhiệm vụ cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc đã hoàn thành. Trên
thực tế, thể chế kinh tế thị trường của Trung Quốc hiện nay vẫn là một thể chế kinh tế thị
trường chưa hoàn thiện, vẫn tồn tại nhiều nhân tố cản trở sự phát triển sức sản xuất. Nói
chung, chuyển đổi chức năng chính quyền còn tụt hậu so với tiến trình chuyển đổi của
thể chế kinh tế, tình trạng chức năng quản lý công cộng của chính quyền lẫn lộn không rõ
ràng với chức năng của người sở hữu tài sản Nhà nước vẫn chưa có thay đổi căn bản. Thể
chế kinh tế hiện hành vẫn tồn tại nhiều yếu kém, cần từng bước giải quyết thông qua đi
sâu cải cách, cụ thể là:
Trước hết, chức năng quản lý công cộng của chính quyền lẫn lộn không rõ ràng
với chức năng của người sở hữu tài sản Nhà nước, thể chế kinh tế thị trường quá ưu tiên
cho doanh nghiệp quốc hữu và chính quyền can thiệp quá mức đã làm đảo lộn cơ chế
phân phối tài nguyên bằng thị trường, làm giảm hiệu quả phân phối tài nguyên, cản trở
kinh tế tăng trưởng, làm tổn hại đến an ninh kinh tế Nhà nước. Hiện nay, những vấn đề
như kinh tế quốc hữu chiếm tỷ trọng quá cao, mặt trận quá dài, phân bố quá rộng, hiệu
quả không cao vẫn rất nổi cộm. Năm 2000, trong tổng số 190 nghìn doanh nghiệp quốc
hữu, có 9 nghìn doanh nghiệp cỡ lớn và siêu lớn, 181 nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ,
chiếm 94,8% tổng số doanh nghiệp quốc hữu, trong đó, 94 nghìn doanh nghiệp thua lỗ,
chiếm 52%. Đồng thời, có 85 nghìn doanh nghiệp ăn cả vào gốc (tức nợ lớn hơn tài sản)
và “trống rỗng” (tức tổn thất lớn hơn số vốn của người sở hữu) chiếm 44,5% tổng số
doanh nghiệp quốc hữu. Bởi vì hiệu quả của doanh nghiệp quốc hữu không cao nhưng lại
chiếm nhiều tài nguyên, còn hiệu quả của doanh nghiệp thuộc chế độ sở hữu khác lại khá
cao nhưng không được giúp đỡ về tài nguyên hiện có. Vì vậy, tài nguyên của xã hội
không được sử dụng hiệu quả và đầy đủ, làm cho tốc độ phát triển kinh tế bị kìm chế, và
khiến tỷ lệ tăng trưởng thực tế của kinh tế quốc dân không đạt tỷ lệ tăng trưởng tiềm
năng. Điều quan trọng hơn là kinh tế phi quốc hữu không được phát triển đầy đủ, đã làm
cho hơn 10 nghìn tỷ tiền vốn trong dân không được sử dụng, dẫn đến sự nhàn rỗi và lãng
phí của tài nguyên thiếu thốn nhất này. Trong khi đó, trong kinh tế tiền tệ hoá, sự tiêu
hao tài nguyên quá mức này sẽ tích tụ lại bằng hình thức bề nổi hoặc tiềm ẩn, và nếu tích
tụ đến mức độ nào đó thì sẽ bùng nổ khủng hoảng tài chính tiền tệ, hoặc chuyển thành
lạm phát tiêu cực, làm tổn hại đến an ninh kinh tế của Nhà nước.
Thứ hai, thể chế quản lý tài sản quốc hữu quy phạm và hiệu quả chưa được xây
dựng nên, chính quyền can thiệp quá mức, làm cho doanh nghiệp quốc hữu ở vào tình
trạng “chính quyền và doanh nghiệp không tách ra”, doanh nghiệp quốc hữu không thể
thực sự trở thành chủ thể của thị trường, thiếu sức cạnh tranh. Cải cách về thể chế quản
lý tài sản quốc hữu tụt hậu. Một mặt là vì nhiều bộ ngành đều có chức năng bổ vốn, quản
lý người và quản lý việc tách rời khỏi quản lý tài sản, vấn đề “không ai chịu trách nhiệm”
tồn tại song song với vấn đề “ngũ long trị thuỷ”, “nhiều đầu mối can thiệp hành chính”,
làm cho doanh nghiệp quốc hữu rất lúng túng. Mặt khác, chính vì “ai cũng quản, mà
cũng chẳng ai quản”, “người sở hữu thực sự vắng mặt”, làm cho doanh nghiệp quốc hữu
bị “người trong nội bộ khống chế”. Vì vậy, dù có cải tạo theo chế độ cổ phần hoá và xây
dựng doanh nghiệp theo chế độ doanh nghiệp hiện đại, thì cũng thường là “đẹp mà không
bền”.
Thứ ba, chính quyền can thiệp quá mức và tính tuỳ tiện trong hành vi của chính
quyền đã làm cho các hiện tượng chức năng chính quyền “việt vị”, “sai vị” và “khuyết
vị” (vượt quá vị trí, đứng sai vị trí, thiếu vắng vị trí) vẫn nghiêm trọng, vẫn tồn tại vấn đề
“quyền lực lớn hơn pháp luật”, thiếu cơ chế ràng buộc mạnh đối với “quyền lực”, quyết
sách không nghiêm túc và can thiệp tuỳ tiện vẫn thường xuyên xảy ra. Phân chia quyền
hạn xử lý công việc và quyền hạn tài chính giữa Trung ương và địa phương đến nay chưa
thật rõ ràng, chính quyền Trung ương và địa phương đều chưa rõ mình cần chịu trách
nhiệm về việc gì. Phương thức xử phạt như “chế độ trách nhiệm của người đứng đầu”
hoặc “hỏng một việc thì hỏng hết” làm cho chính quyền và quan chức các cấp phải quản
lý rộng, quản lý sâu và quản lý mạnh. Nhiều chính quyền địa phương còn phải gánh vác
nhiều trách nhiệm không phải của mình.
Thứ tư, thể chế quản lý hành chính vẫn nặng về “quản lý theo ngành nghề và địa
bàn”, không những làm cho một số bộ ngành xuất hiện khuynh hướng “lợi ích tập đoàn
hoá” và chức năng công cộng yếu đi, mà còn làm cho chủ nghĩa bảo hộ địa phương lan
rộng. Bởi vì hành vi của chính quyền thiếu cơ chế ràng buộc và thiếu công khai, nhiều bộ
ngành rất dễ thông qua “gọi thuê” để thu hút “người nhận thuê” dưới chiêu bài đàng
- Xem thêm -