Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên thành phố hồ chí minh trong bối cảnh hội nhậ...

Tài liệu Nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên thành phố hồ chí minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế (qua khảo sát một số trường đại học)

.PDF
111
268
124

Mô tả:

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do và mục đích chọn đề tài Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là một loại phương tiện giao tiếp giúp con người khắp nơi trên thế giới này có thể hiểu nhau hơn. “Ngôn ngữ là một hệ thống phức tạp con người sử dụng để liên lạc hay giao tiếp với nhau cũng như chỉ chính năng lực của con người có khả năng sử dụng một hệ thống như vậy. Ngành khoa học nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ được gọi là ngôn ngữ học. Ước tính số lượng ngôn ngữ trên thế giới khác nhau giữa 6000 và 7000. Tuy nhiên, bất cứ ước lượng chính xác nào phụ thuộc vào sự phân biệt khá tùy ý giữa các ngôn ngữ chính và ngôn ngữ địa phương. Ngôn ngữ tự nhiên được nói hoặc ghi lại, nhưng bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có thể được mã hóa thành phương tiện truyền thông sử dụng các giác quan thính giác, thị giác, xúc giác hoặc kích thích, ví dụ: Bằng văn bản, đồ họa, chữ nổi, hoặc huýt sáo. Điều này là do ngôn ngữ của con người là độc lập với phương thức biểu đạt. Khi được sử dụng như là một khái niệm chung, “ngôn ngữ” có thể nói đến các khả năng nhận thức để học hỏi và sử dụng hệ thống thông tin liên lạc phức tạp, hoặc để mô tả các bộ quy tắc tạo nên các hệ thống này, hoặc tập hợp các lời phát biểu có thể được tạo thành từ những quy tắc”.1 Khi một dân tộc của một quốc gia này, sử dụng một ngôn ngữ của một dân tộc ở một quốc gia khác, tức là không phải tiếng mẹ đẻ của mình, thì đó gọi là ngoại ngữ. Nhưng chúng ta đang nói đến ở đây là các ngoại ngữ được dùng phổ biến để giao tiếp chung cho khu vực và toàn thế giới. Theo nghiên cứu thì 10 ngôn ngữ được sử dụng phổ biến nhất thế giới là: Tiếng Trung, tiếng Anh, tiếng Hindi, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga, tiếng Bengali, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Mã Lai và cuối cùng là tiếng Pháp.2 Trong bối cảnh hội nhập và xu thế toàn cầu hóa như hiện nay thì ngoại ngữ đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Vì thế, Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề dạy và học ngoại ngữ cho người dân nói chung và thế hệ trẻ nói riêng. ____________________________________________________________________________________________ 1 Khái niệm về Ngôn ngữ từ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, (http://vi.wikipedia.org/wiki/Ngôn_ngữ). 2 Theo iONE, 10:07 PM/ 07/12/2013, 10 ngôn ngữ phổ biến nhất thế giới, VNEXPRESS, (http://ione.vnexpress.net/tin-tuc/vui-doc/10-ngon-ngu-pho-bien-nhat-the-gioi-2920358.html) . 1 Ngày 30/9/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1400/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân” (gọi tắt là đề án ngoại ngữ 2020). Mục tiêu chung của đề án là “Thực hiện đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục, trong đó có giáo dục đại học, nhằm đảm bảo đến năm 2015 đạt được bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên...”. Đặc biệt, mục tiêu cụ thể có nêu rõ: “Đối với các ngành học không chuyên ngữ, sau khi tốt nghiệp sinh viên phải đạt trình độ tối thiểu bậc 3 theo khung năng lực ngoại ngữ...” (khung châu Âu chung). Thể hiện quyết tâm thực thi Đề án Ngoại ngữ 2020, ngày 8/4/2011 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký Quyết định số 1400/QĐ-BGDĐT thành lập Ban Quản lý Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”. Qua đó ta thấy rằng Nhà nước đã có mối quan tâm đáng kể đến chiến lược đào tạo ngoại ngữ cho thế hệ tương lai của quốc gia.3 Tuy nhiên, đối với Việt Nam và các quốc gia lân cận thì các ngoại ngữ được người Việt Nam chúng ta theo học phổ biến như: Anh, Pháp, Trung, Nhật, Thái, Hàn, Đức... . Theo thống kê của Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009, thành phố có 207 cơ sở dạy ngoại ngữ, tăng 41 cơ sở (24,70%) so với năm 2008 và chiếm 41,24% tổng số các cơ sở dạy văn hóa ngoài giờ của thành phố. Năm 2010, số các cơ sở dạy ngoại ngữ đã tăng lên 217 và số chi nhánh, loại hình dạy ngoại ngữ cũng tăng đáng kể. Số học viên học ngoại ngữ năm 2010 là 721.824 lượt người, tăng 62.624 lượt người (8,68%) so với năm 2009, chiếm 63% lượt người tham gia học các loại hình văn hóa ngoài giờ (Vũ Chiến, 2010).4 Việt Nam đang trong giai đoạn mở cửa, hội nhập quốc tế. Biết ngoại ngữ để học tập, nghiên cứu, tìm việc làm, kinh doanh, du lịch... hay vì một số mục đích nào khác thì cũng là một nhu cầu hết sức chính đáng và cấp thiết trong thời đại ngày nay. Sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, đang có nhu cầu và xu thế học ngoại ngữ rất cao. Vì là một thành phố lớn, một đầu tàu kinh tế, một trung tâm văn hóa, giáo dục của cả nước, nên sinh viên thành phố Hồ Chí Minh càng ____________________________________________________________________________________________ Theo Cổng thông tin điện tử Trường ĐHSP TP. HCM (không ngày tháng), Tầm quan trọng của môn ngoại ngữ, (http://www.hcmup.edu.vn/?site=206). 3 Thông tin từ Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh. 4 2 phải nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc trau dồi học hỏi ngoại ngữ, nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn, gương mẫu đi đầu. Biết ngoại ngữ để có thể dễ dàng giao tiếp với bạn bè quốc tế. Biết ngoại ngữ để thuận tiện trong mọi lĩnh vực hợp tác đối ngoại như: Nghiên cứu- học tập, kinh doanh, du lịch, du học, đi định cư, giao lưu và giới thiệu văn hóa- phong tục, tập quán tốt đẹp của đất nước mình cho bạn bè quốc tế... . Nên nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh phải là một mục tiêu cơ bản, đặt lên vị trí hàng đầu để có thể mở cánh cửa hội nhập quốc tế. Xuất phát từ tình hình thực tế, chúng tôi đã nghiên cứu đề này nhằm nâng cao ý thức học hỏi, trau dồi kiến thức và khả năng sử dụng ngoại ngữ của sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, đang ngồi trên ghế nhà trường, trong bối cảnh đất nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, cả về chiều sâu lẫn chiều rộng. Đồng thời, đề tài cũng muốn là cơ sở nghiên cứu cho các trường, trung tâm dạy ngoại ngữ tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, cả nước nói chung. Để từ đó, các trường, trung tâm dạy ngoại ngữ rút ra được những hạn chế và yếu kém nếu có, và đặt ra được cho mình một mục tiêu đào tạo sao cho phù hợp với tình hình thực tại của đất nước. Đó là những lý do chính mà chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu:“Nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập Quốc tế (Qua khảo sát một số trường Đại học)“. 2. Ý nghĩa thực tiễn và khoa học của đề tài 2.1. Ý nghĩa thực tiễn Ý nghĩa thực tiễn của đề tài cũng là cơ sở chính nhằm đem lại một số lợi ích cho các đối tượng sau đây: - Nâng cao nhận thức của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh về nhu cầu học và sử dụng ngoại ngữ trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu– rộng. - Các trường, các trung tâm dạy ngoại ngữ thật sự đặt chất lượng lên hàng đầu, nhằm thu hút và đáp ứng nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh. - Các giáo viên đang trực tiếp làm công tác giảng dạy tại các trường, các trung tâm ngoại ngữ không ngừng nâng cao tay nghề, tìm hiểu tình hình thực tế để có giáo trình, giáo án,... phương pháp giảng dạy phù hợp, sinh động và chất lượng tốt hơn. 3 2.2. Ý nghĩa khoa học Đề tài nghiên cứu có một số ý nghĩa khoa học như sau: - Giúp các cơ quan chức năng, các nhà quản lý có được tầm nhìn tổng quát về nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế của đất nước. Để từ đó làm cơ sở xây dựng các đường lối, chính sách sao cho phù hợp trong việc mở các trường, các trung tâm dạy ngoại ngữ, nhằm đáp ứng đầy đủ và chất lượng đào tạo tốt nhất cho nhu cầu học ngoại ngữ của học viên và cho toàn xã hội. - Kết quả nghiên cứu cũng là cơ sở nền tảng, tài liệu tham khảo giúp gợi mở cho các công trình nghiên cứu chuyên sâu sau này. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, các bài đánh giá của các chuyên gia, nhà nghiên cứu về việc sử dụng cũng như nhu cầu học ngoại ngữ trong thời đại toàn cầu hóa. Trong số đó, phải kể đến các tác giả, nhóm tác giả như sau: 3.1. Lịch sử nghiên cứu trong nước Th.S Phạm Thạch Hoàng :“Quan niệm học ngoại ngữ trong thời đại toàn cầu hóa”. Trường Đại học Lâm Nghiệp, đăng ngày 15/03/2010 tại trang web http://www.vfu.edu.vn/Pages/tin-tuc-su-kien-84/tin-tuc-chung-94/Quan-niem-hoc-ngoaingu-t-c9278ea0c1860f2f.aspx. Trong bài viết, tác giả đã làm rõ được một số vấn đề quan trọng như: Ngoại ngữ là phương tiện để thâm nhập, kết nối mọi người, để “toàn cầu hóa” chính mỗi người. Ngoại ngữ không là công cụ thuần túy, là chữ vô hồn, ngoại ngữ là bản thân văn hóa. Học ngoại ngữ tốt nhất là lúc còn trẻ và căn bản là tự học, đặc biệt là lúc ngồi trên ghế nhà trường. Nghiên cứu của hai tác giả TS. Vũ Thị Phương Anh và ThS. Nguyễn Bích Hạnh: ”Năng lực tiếng Anh của sinh viên các trường Đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trước yêu cầu của một nền kinh tế tri thức: Thực trạng và những giải pháp”, Trung tâm Khảo thí và Ðánh giá chất lượng đào tạo Ðại học Quốc gia- TP. HCM và Trường Ðại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Ðại học Quốc gia- TP. HCM. Nghiên cứu này đã đánh giá rất rõ ràng về năng lực tiếng Anh của một số sinh viên tại các trường Đại học trên địa bàn TP. HCM (gồm: 3 trường thành viên của Ðại học Quốc gia TP.HCM là Trường Ðại học Khoa học Tự nhiên, Trường Ðại học Bách Khoa, Trường Ðại học Khoa 4 học Xã hội và Nhân văn và 2 trường ngoài Ðại học Quốc gia –TP. HCM là Trường Ðại học Kinh tế và Trường Ðại học Sư phạm) qua điều tra khảo sát thực tế bằng bảng hỏi và kiểm tra trình độ. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy rằng điểm trung bình chung của tất cả các sinh viên chỉ đạt ở mức trung bình. Khi quy đổi mức trình độ tiếng Anh của sinh viên Việt Nam sang hệ thống kiểm tra quốc tế, ta thấy mặt bằng trình độ sinh viên trong mẫu điều tra (tính trung bình là sinh viên bắt đầu năm thứ 3) chỉ mới đạt trong khoảng 360-370 điểm TOEFL, hoặc 3.5 điểm IELTS. Tác giả cho rằng:“Ðây là mức trình độ rất thấp so với thế giới, vì theo định nghĩa của ALTE (Hiệp hội các nhà trắc nghiệm ngôn ngữ châu Âu), thì trình độ này sinh viên chưa thể tham gia vào các cuộc trao đổi ý kiến dù ở mức thấp nhất, mà chỉ mới tiếp nhận những thông tin đơn giản trong những bối cảnh quen thuộc”. Tác giả Trần Toàn Trương có bài:”Học ngoại ngữ- Nhu cầu hay trào lưu ?“. Học viện Hành chính Quốc Gia, đăng ngày 19/08/2015 tại trang web http://www1.napa.vn/youth/hoc-ngoai-ngu-nhu-cau-hay-trao-luu.htm. Tác giả đã giải quyết hai vấn đề:“Xuất phát từ lợi thế cạnh tranh” và “Liệu ai cũng có thể có lợi thế?” Tác giả cũng nhắn nhủ thêm:”Thời thế luôn thay đổi. Trước hết, hãy học ngoại ngữ vì niềm đam mê. Nếu chưa tìm thấy một ngôn ngữ yêu thích, bạn nên trau dồi những kiến thức, kĩ năng khác trước. Thêm vào đó, học ngoại ngữ hiếm cũng không phải là lựa chọn tồi”. Tập thể tác giả Ban Quốc tế Thanh niên Tỉnh đoàn tỉnh Quảng Ninh có bài viết: “Giải pháp nâng cao việc học tập ngoại ngữ trong thanh thiếu nhi tỉnh Quảng Ninh”. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Quảng Ninh, tại trang web http://tinhdoanquangninh.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=4011:gii -phap-nang-cao-vic-hc-tp-ngoi-ng-trong-thanh-thiu-nhi-tnh-qung-ninh&catid=489:h-inh-p-qu-c-t&Itemid=553. Tập thể tác giả đã đưa ra một số giải pháp như sau:”Một là: Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức trong đoàn viên, thanh niên. Hai là: Xây dựng các mô hình, loại hình học tập, sử dụng ngoại ngữ phù hợp với các đối tượng đoàn viên, thanh thiếu nhi. Ba là: Tăng cường tham mưu, phối hợp, tạo môi trường thuận lợi để thanh thiếu nhi học tập ngoại ngữ” nhằm nâng cao việc học tập ngoại ngữ trong thanh thiếu nhi của tỉnh nhà. Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Quang Hòa về:”Đo lường sự hài lòng của học viên tại các trung tâm ngoại ngữ ở Thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn Thạc sĩ Quản trị 5 Kinh doanh tại Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng năm 2011. Đề tài nghiên cứu của tác giả đã khảo sát, đo lường sự hài lòng của học viên tại các trung tâm ngoại ngữ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Để từ kết quả đó, tác giả đã đề ra một số giải pháp nhằm giúp cho các trung tâm ngoại ngữ nâng cao chất lượng đào tạo, cũng đồng thời nâng cao sự hài lòng của học viên. Bài viết trên báo VTC News:”Không biết ngoại ngữ giống như ra trận mà không có súng”. Bài viết trên báo VTC News online, đăng vào thứ tư, 30/07/2014 tại trang web http://vtc.vn/khong-biet-ngoai-ngu-giong-nhu-ra-tran-ma-khong-cosung.538.499077.htm. Bài viết cho biết tại lễ tổng kết năm học 2013 - 2014, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã dành nhiều thời gian để nói về tầm quan trọng của việc học và thi ngoại ngữ hiện nay. Phó Thủ tướng nhấn mạnh:“Thi ngoại ngữ bắt buộc là thông điệp cho toàn xã hội, rằng từ nay, ngoại ngữ quan trọng không kém Toán, Văn. Chúng ta không được quên là bây giờ Việt Nam thực chất là một bộ phận của nền kinh tế thế giới rồi. Chúng ta đảm bảo đào tạo con em chúng ta tới đây phải là công dân toàn cầu. Có những người ví von là bây giờ mà không biết ngoại ngữ giống như ra trận mà không có súng”. Như vậy, lịch sử nghiên cứu trong nước đã cho thấy được tầm quan trọng của ngoại ngữ trong bối cảnh ngày nay, và việc tìm hiểu các yếu tố có tính ảnh hưởng đến nhu cầu, chất lượng đào tạo ngoại ngữ cho sinh viên, thanh niên, gọi chung là học viên là rất cần thiết và thật sự cấp thiết. 3.2. Lịch sử nghiên cứu ngoài nước Trang web http://oureverydaylife.com/advantages-learning-foreign-languages- 5367.html có bài:“The Advantages of Learning Foreign Languages” (Tạm dịch “ Những thuận lợi của việc học ngoại ngữ”) của tác giả Trudie Longren. Trong bài viết này, tác giả Trudie Longren đã đưa ra bốn điểm thuận lợi của một người biết ngoại ngữ như:1). Brain Fitness (Não tập thể dục): Bộ não của người biết ngoại ngữ hoạt động khỏe mạnh hơn so với người chỉ biết tiếng mẹ đẻ; 2). Job Preservation (Bảo quản việc làm): Giúp cho ta có cơ hội giữ vững vị trí làm việc và mở rộng địa bàn làm việc; 3). Family Ties and Networks (Liên kết gia đình và mạng): Biết ngoại ngữ giúp ta giữ được liên lạc với những người thân đang sinh sống ở nước ngoài và với mọi người trên thế giới thông qua 6 Internet; 4). Additional Compensation (Bổ sung Bồi thường): Biết ngoại ngữ giúp chúng ta tăng thêm thu nhập. Ngoài ra, chúng tôi chưa thấy có tác giả ngoài nước nào khác có đề tài nghiên cứu liên quan đến vấn đề nghiên cứu này. Đó cũng là lý do để chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu của mình như một vấn đề gợi mở, tiên phong. Từ những tài liệu tiếp cận được, chúng tôi nhận thấy kết quả của các công trình nghiên cứu trên là những tài liệu vô cùng quý giá, để chúng tôi có thể kế thừa và phát triển đề tài nghiên cứu của mình. Chúng tôi muốn thực hiện một đề tài nghiên cứu kỹ hơn về nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh là như thế nào trong giai đoạn hội nhập quốc tế của nước nhà. Để từ đó, hiểu rõ hơn về xu hướng học tập của sinh viên và tình hình đất nước trong tiến trình mở cửa hội nhập vào thế giới. Và có thể có những phương hướng, giải pháp đáp ứng cho các nhu cầu chính đáng của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và sinh viên cả nước nói chung, trong việc học tập để thỏa mãn cho nhu cầu của thời đại. 4. Đối tượng, phạm vi không gian và giới hạn thời gian nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Trong đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu đối tượng là nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập Quốc tế (Qua khảo sát một số trường Đại học). 4.2. Phạm vi không gian nghiên cứu Chúng tôi nghiên cứu nhu cầu học ngoại ngữ trong bối cảnh hội nhập quốc tế của các sinh viên Việt Nam đang học từ năm thứ nhất đến năm cuối (tức là khoảng từ 18 tuổi đến 22 tuổi) tại 04 Trường Đại học ở thành phố Hồ Chí Minh là: Đại học Quốc tế Hồng Bàng, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Nguyễn Tất Thành, Đại học Sân khấu, Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh. Vì đây là 04 trường Đại học nằm trong danh sách những trường Đại học tiêu biểu của thành phố Hồ Chí Minh, có ngành nghề đào tạo đa dạng, phong phú và có liên quan đến cả lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ, nghệ thuật...cũng như sư phạm. Trong đó có: 02 trường công lập (Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Sân khấu, Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh) và 02 trường ngoài công lập (Đại học Quốc tế Hồng Bàng, Đại học Nguyễn Tất Thành). 7 4.3. Giới hạn thời gian nghiên cứu Chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu đề tài Luận văn của mình từ năm 2010 đến năm 2016. 5. Mục tiêu nghiên cứu 5.1. Mục tiêu tổng quát Đề tài được thực hiện nhằm vào mục đích tìm hiểu về nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Từ cơ sở đó, đề ra một số phương hướng và giải pháp giúp cho các trường Đại học, các trung tâm dạy ngoại ngữ và các nhà quản lý, đúc kết kinh nghiệm trong việc mở ra đầy đủ các lớp đào tạo ngoại ngữ có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu của học viên trong tình hình hiện tại của đất nước và thế giới. 5.2. Mục tiêu cụ thể Để đạt được mục tiêu tổng quát như trên đã nêu, nghiên cứu cần tập trung vào việc giải quyết các mục tiêu cụ thể như sau: - Xác định rõ nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh nhằm mục đích gì. - Tìm hiểu rõ các yếu tố gây tác động đến việc học ngoại ngữ của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh. - Khảo sát thực tế, sau đó lập bảng thống kê loại ngoại ngữ mà sinh viên thành phố Hồ Chí Minh có nhu cầu học trong bối cảnh hiện tại là những thứ tiếng gì, tỉ lệ bao nhiêu phần trăm, hình thức và thời gian học, các yếu tố tác động, các yêu cầu liên quan trong nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên. - Đề ra một số phương hướng và giải pháp giúp cho các trường Đại học, các trung tâm đào tạo ngoại ngữ và các nhà quản lý trong việc mở ra đầy đủ các lớp đào tạo ngoại ngữ có chất lượng tốt, đáp ứng cho nhu cầu của học viên trong tình hình hiện tại của xã hội. 6. Giả thuyết nghiên cứu Các yếu tố gây tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh, ngoài chương trình đào tạo của nhà trường bắt buộc còn có 8 rất nhiều. Trong đó, gồm các yếu tố chính như sau: Học ngoại ngữ vì thấy bạn bè ai cũng học (đua đòi), học ngoại ngữ vì ngôi sao thần tượng của mình là người nước ngoài, học ngoại ngữ vì muốn đi du học- xuất khẩu lao động, học ngoại ngữ vì muốn định cư ở nước ngoài, học ngoại ngữ vì muốn được làm trong các công ty nước ngoài, học ngoại ngữ vì muốn đi du lịch- khám phá thế giới, học ngoại ngữ vì muốn tìm hiểu bạn bè quốc tế, học ngoại ngữ vì muốn giới thiệu- quảng bá các giá trị văn hóa của nước nhà, học ngoại ngữ vì muốn theo kịp tiến độ phát triển của xã hội .... Học ngoại ngữ vì thấy bạn bè ai cũng đi học. Đây là cách thức học theo tâm lý - thích đua đòi. Như vậy, nếu bạn bè xung quanh người đó, ai cũng đi học ngoại ngữ thì những sinh viên này có thể cũng sẽ đi học cho “ bằng chị, bằng em”. Giả thuyết được đặt ra là: Có mối quan hệ cùng chiều giữa các sinh viên thích đua đòi học ngoại ngữ theo bạn bè quanh mình với nhu cầu học ngoại ngữ (H1). Học ngoại ngữ vì ngôi sao thần tượng của mình là người nước ngoài. Đây là cách - thức học theo tâm lý không ổn định. Thích thần tượng người nước nào thì học ngoại ngữ đó, có thể thay đổi theo sở thích, không ổn định và lâu dài. Giả thuyết được đặt ra là: Có mối quan hệ cùng chiều giữa các sinh viên có các ngôi sao thần tượng là người nước ngoài với nhu cầu học ngoại ngữ (H2). - Học ngoại ngữ vì muốn đi du học- xuất khẩu lao động. Đây cũng là yếu tố gây tác động đến nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên. Giả thuyết được đặt ra là: Có mối quan hệ cùng chiều giữa các sinh viên muốn đi du học- xuất khẩu lao động với nhu cầu học ngoại ngữ (H3). - Học ngoại ngữ vì muốn định cư ở nước ngoài. Các sinh viên có ý định đi định cư ở nước ngoài cũng có nhu cầu học ngoại ngữ. Giả thuyết được đặt ra là: Có mối quan hệ cùng chiều giữa các sinh viên muốn định cư ở nước ngoài với nhu cầu học ngoại ngữ (H4). - Học ngoại ngữ vì muốn làm trong các công ty nước ngoài sau khi tốt nghiệp ra trường. Yếu tố này là một trong những yếu tố có tính tác động tích cực. Giả thuyết được đặt ra là: Có mối quan hệ cùng chiều giữa các sinh viên muốn có việc làm trong các công ty nước ngoài sau khi tốt nghiệp với nhu cầu học ngoại ngữ (H5). 9 - Học ngoại ngữ vì muốn đi du lịch- khám phá thế giới. Yếu tố này cũng không ổn định lắm. Vì đôi khi nhu cầu học ngoại ngữ chỉ để đáp ứng nhu cầu tại một thời điểm nào đó. Giả thuyết được đặt ra là: Có mối quan hệ cùng chiều giữa các sinh viên muốn đi du lịch- khám phá thế giới với nhu cầu học ngoại ngữ (H6). - Học ngoại ngữ vì muốn tìm hiểu bạn bè quốc tế nhiều hơn. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng và có tính thời sự. Vì đất nước ta đang trong giai đoạn hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc hơn. Giả thuyết được đặt ra là: Có mối quan hệ cùng chiều giữa các sinh viên muốn tìm hiểu bạn bè quốc tế với nhu cầu học ngoại ngữ (H7). - Học ngoại ngữ vì muốn giới thiệu- quảng bá nước nhà. Yếu tố này vô cùng quan trọng. Biết ngoại ngữ để giới thiệu những cái hay, cái đẹp của quốc gia mình cho bạn bè khắp nơi trên thế giới. Giả thuyết được đặt ra là: Có mối quan hệ cùng chiều giữa các sinh viên muốn giới thiệu- quảng bá nước nhà với nhu cầu học ngoại ngữ (H8). - Học ngoại ngữ vì muốn theo kịp tiến độ phát triển của xã hội. Yếu tố này tác động đến ý thức và lòng ham mê học hỏi, tiến bộ của sinh viên. Giả thuyết được đặt ra là: Có mối quan hệ cùng chiều giữa các sinh viên muốn theo kịp tiến độ phát triển của xã hội với nhu cầu học ngoại ngữ (H9). 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích lý thuyết. - Phương pháp thu thập và xử lý thông tin. - Phương pháp phân tích Xã hội học thực nghiệm. - Phương pháp đối chiếu và so sánh các thông tin, dữ liệu. - Phương pháp xử lý số liệu nghiên cứu bằng thống kê Toán học. - Phương pháp điều tra bằng phiếu khảo sát. - Phương pháp Giáo dục học. - Phương pháp Tâm lý học. - Phương pháp SWOT. 10 7.2. Phương pháp thu thập dữ liệu Cơ sở lý luận đề tài bao gồm các từ khóa: Sinh viên, Thành phố Hồ Chí Minh, nhu cầu học, ngoại ngữ, hội nhập quốc tế, dạy và học ngoại ngữ, trường Đại học, trung tâm ngoại ngữ. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ tập trung tìm hiểu, phân tích và hệ thống các nội dung liên quan đến nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế từ: - Các sách chuyên ngành, các giáo trình, các Luận văn Thạc sĩ, các Luận án Tiến sĩ, các bài báo khoa học trong và ngoài nước (tiếng Anh) có liên quan đến nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế. - Cách thức và quy định về việc mở các lớp ngoại ngữ tại các trường Đại học, các trung tâm dạy ngoại ngữ. - Các quy định, yêu cầu về giáo viên, học phí, thời gian học, cơ sở vật chất, kỹ thuật... liên quan đến việc dạy và học ngoại ngữ. Nội dung đề tài liên quan trực tiếp đến việc tìm hiểu về nhu cầu học ngoại ngữ, tình hình dạy và học ngoại ngữ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (04 trường nghiên cứu). Từ đó, đề tài sẽ tiến hành thu thập các dữ liệu và thông tin liên quan từ: - Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh. - Các trường Đại học, các trung tâm dạy ngoại ngữ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (tại 04 trường nghiên cứu). Điều tra khảo sát thực tế: Do kinh phí có hạn nên chúng tôi chỉ khảo sát một số sinh viên tại một số trường Đại học (tại 04 trường nghiên cứu) các quận Tân Bình, quận 5, quận 4 và quận 1. Phỏng vấn sâu: - Các chuyên gia nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực ngoại ngữ, hội nhập quốc tế, công tác sinh viên. - Lãnh đạo các đơn vị quản lý Nhà nước có liên quan đến lĩnh vực ngoại ngữ, hội nhập quốc tế, công tác sinh viên trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. - Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và nhân viên làm việc trong lĩnh vực dạy và học ngoại ngữ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. - Học viên – sinh viên. Phỏng vấn bằng bảng câu hỏi (Questionnaire): Phát 140 PHIẾU KHẢO SÁT về nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập 11 quốc tế. Khảo sát ngẫu nhiên, thuận tiện với bất cứ sinh viên Việt Nam đang học từ năm thứ nhất đến năm cuối tại 04 trường đã định trước. Sau đó tiến hành xử lý 120 phiếu. 8. Bố cục của đề tài. Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung của Luận văn gồm 03 chương như sau: Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NHU CẦU HỌC NGOẠI NGỮ CỦA SINH VIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Trong chương này, chúng tôi trình bày các khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu, khung lý thuyết tiếp cận nghiên cứu, tổng quan về đề tài nghiên cứu: Tổng quan về TP. HCM (tên gọi, lịch sử hình thành, tình hình thực tế...). Tổng quan về sinh viên, các trường đại học, các trung tâm dạy ngoại ngữ, vị trí, vai trò của sinh viên, của TP. HCM trong bối cảnh hội nhập quốc tế... Chương 2: THỰC TRẠNG NHU CẦU HỌC NGOẠI NGỮ CỦA SINH VIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY Trong chương này, chúng tôi sẽ đi sâu trong việc phân tích, tìm hiểu về các yếu tố gây ảnh hưởng đến nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên TP. HCM. Đồng thời, chúng tôi cũng phân tích sâu về tình hình TP. HCM, sinh viên TP. HCM trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu và rộng, phân tích rõ những khó khăn, thử thách, thuận lợi, bất lợi, được, mất...trong giai đoạn hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ . Các kết quả phân tích, chứng minh, bình luận ấy nhằm góp phần nâng cao nhận thức, ý thức cá nhân của các sinh viên TP. HCM về tình hình nước nhà, và trong việc học tập kiến thức nói chung, khả năng sử dụng ngoại ngữ nói riêng trong thời đại ngày nay. Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM ĐÁP ỨNG NHU CẦU HỌC NGOẠI NGỮ CỦA SINH VIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ Trong chương này, chúng tôi sẽ tiến hành đánh giá và đề xuất một số giải pháp thông qua kết quả của cuộc khảo sát và thống kê, nhằm góp phần thúc đẩy, chấn chỉnh trong công tác hoạch định chính sách, quản lý, đào tạo...; nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ tại các trường, các trung tâm dạy ngoại ngữ ở TP. HCM, thỏa mãn được nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên TP. HCM nói riêng và học viên cả nước nói chung trong bối cảnh hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hóa của đất nước. 12 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NHU CẦU HỌC NGOẠI NGỮ CỦA SINH VIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1.1. Cơ sở lý luận về nhu cầu và nhu cầu học Nhu cầu Từ lâu nhu cầu đã là đối tượng nghiên cứu của hầu hết các ngành khoa học nghiên cứu sinh học và xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế- xã hội vấn đề về nhu cầu được tìm thấy trong nghiên cứu của các nhà khoa học tên tuổi như Jeremy Bentham, Benfild, William Stanley Jevons, John Ramsay McCulloch, Edward S. Herman. Đó là hiện tượng phức tạp, đa diện, đặc trưng cho mọi sinh vật. Sự hiện diện của nhu cầu ở bất kì sinh vật nào, ngay cả ở bất kỳ xã hội nào được xem như cơ thể sống phức tạp, là đặc điểm để phân biệt chủ thể đó với môi trường xung quanh. 5 Như chúng ta đã biết, cho tới nay chưa có bất kỳ một định nghĩa chung nhất nào cho khái niệm nhu cầu. Các sách giáo khoa dù là chuyên ngành hay các công trình nghiên cứu khoa học cũng thường chỉ có những định nghĩa mang tính riêng biệt. Ta có thể hiểu nhu cầu là tính chất của một cơ thể sống, biểu hiện trạng thái thiếu hụt một điều gì đó của chính cá thể đó và do đó phân biệt nó với môi trường sống bên ngoài. Nhu cầu tối thiểu, hay còn được gọi là nhu yếu tuyệt đối, đã được hình thành qua quá trình rất lâu dài của sự tồn tại, phát triển và tiến hóa. Nhu cầu được hiểu như là một sự cần thiết về một điều gì đó. Nhưng “điều gì đó” chỉ là sự biểu hiện bên ngoài của nhu cầu. Sau hình thức biểu hiện ẩn chứa bản chất của nhu cầu mà có thể tạm gọi là “nhu yếu”. Nhu yếu có thể được xem là hình thức biểu hiện của một nhu yếu khác căn bản hơn. Như thế khái niệm nhu cầu và nhu yếu mang tính tương đối với nhau. Điều đó đã cho chúng ta thấy rằng nhu cầu của cơ thể sống là một hệ thống phức tạp, đa tầng lớp, bao gồm vô số các chuỗi có tính mắc xích của hình thức biểu hiện và nhu yếu liên kết chằng chịt, có khả năng phát triển và đa dạng hóa. Hình thức biểu hiện nhất định cũng được cụ thể hóa thành đối tượng của một nhu cầu nhất định. Đối tượng của nhu cầu đó chính là cái mà nhu cầu hướng tới và có thể làm thỏa mãn cái _____________________________________________________________________ Khái niệm về Nhu cầu từ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, (https://vi.wikipedia.org/wiki/Nhu_c%E1%BA%A7u). 5 13 nhu cầu đó. Một đối tượng có thể được làm để thỏa mãn một số nhu cầu và một nhu cầu cũng có thể được thỏa mãn bởi một số đối tượng, trong đó mức độ thỏa mãn có khác nhau. Tính đa dạng của đối tượng tạo nên sự bất tận của nhu cầu. Alfred Marshall viết rằng: “Không có số để đếm nhu cầu và ước muốn”. Về vấn đề cơ bản của khoa học kinh tế vấn đề nhu cầu con người- hầu hết các sách đều nhận định rằng nhu cầu không có giới hạn. Và theo đó, ta cũng có thể hiểu được tính khái quát chung của nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là một đòi hỏi, một mong muốn, một nguyện vọng của con người về vật chất và cả tinh thần để tồn tại và phát triển. Và tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý của mỗi người mà có những nhu cầu khác nhau. Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận ra được. Nhu cầu là yếu tố làm thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu càng cấp bách thì khả năng chi phối của con người càng cao hơn. Về mặt quản lý, nếu kiểm soát được nhu cầu đồng nghĩa với việc có thể kiểm soát được cá nhân (trong trường hợp này, nhận thức có sự chi phối nhất định: nhận thức cao sẽ có khả năng kiềm chế sự thoả mãn nhu cầu không chính đáng). Nhu cầu của một cá nhân rất đa dạng, phong phú và bất tận. Việc thoả mãn nhu cầu nào đó của một cá nhân là đồng thời tạo ra một nhu cầu khác theo định hướng của nhà quản lý, vì thế người quản lý có thể điều khiển được các cá nhân nếu đáp ứng được nhu cầu cho họ. Nhu cầu đôi lúc chi phối mạnh mẽ đến đời sống tâm lý và cả hành vi của con người. Nhu cầu đã được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu và sử dụng ở các lĩnh vực khác nhau trong đời sống của xã hội. Nhu cầu học Nhu cầu học tập là một nhu cầu rất cần thiết đối với mỗi con người trong chúng ta nhằm từng bước tự hoàn thiện bản thân mình, và trang bị cho mình những kiến thức chuyên môn, các kỹ năng sống. Nhu cầu học tập có mối liên quan mật thiết, khăng khít với các nhu cầu khác trong xã hội như công nghiệp hóa- đô thị hóa; phát triển tài nguyên trí tuệ và làm tăng chất lượng của cuộc sống. Nhu cầu học tập của con người nhằm nâng cao trình độ, tìm những cái mới, sáng tạo ra những vật chất để phục vụ cuộc sống …Và đối với mỗi quốc gia, việc đầu tư cho 14 giáo dục là con đường làm tăng tài nguyên trí tuệ, nó cũng là xu hướng phổ cập nghề cho thanh niên và nhân dân lao động. Các hình thức đáp ứng nhu cầu học tập của con người: Loại hình: Hiện có 2 loại hình giáo dục: Giáo dục đại chúng nhằm nâng cao trình độ dân trí. Giáo dục chọn lọc nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của sinh viên và cũng là đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân tài cho đất nước. Hệ thống thư viện được nối mạng … vì thư viện không chỉ là nơi cung cấp kiến thức cho người học mà còn xây dựng phong cách học tập cần thiết ở đại học là tự học và tự đọc. Tăng GDP hoặc những biện pháp khác như du học, mời thầy nước ngoài về 6…. Nói về việc học tập, có một danh nhân đã cho rằng:“Học không phải để làm giàu. Học là để hoàn thiện bản thân mình”(Khuyết danh). Ngạn ngữ Nga có câu:“Rễ của sự học tập thì đắng, quả của sự học tập thì ngọt”. “Bộ lông làm đẹp con công, học vấn làm đẹp con người”. Trong dân gian cũng có rất nhiều câu tục ngữ, ca dao và danh ngôn nói về chủ đề học tập như : - Tục ngữ:“Khổ luyện thành tài, miệt mài thành giỏi”,“Học Thầy không tày học bạn”,”Học hành vất vả, kết quả ngọt bùi”,”Dao có mài mới sắc, người có học mới nên”,”Học khôn đến chết, học nết đến già”... - Ca dao:”Học trò học hiếu học trung, học cho đến mực anh hùng mới thôi”,”Ngọc kia chẳng giũa, chẳng mài. Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi”,”Học là học biết giữ giàng. Biết điều nhân nghĩa, biết đàng hiếu trung”... - Danh ngôn:“Học, học nữa, học mãi” (V.I. Lê-nin);“Chơi cùng đứa dại nên bầy dại. Kết mấy thằng khôn học nết khôn”(Nguyễn Trãi);“Giáo dục là làm cho con người tìm thấy chính mình”(Socrates);“Không những phải học ở sách, mà còn phải học ở cuộc sống nữa”(N.Crup-Xcai-A);”Yếu tố của nghệ thuật học tập là ý chí, trật tự và thời gian”. (M. Prevost);“Giáo dục là một nghệ thuật làm cho con người trở thành những người có đạo đức”. (G.W.Hege)...Thậm chí ngay cả một tỉ phú cũng đã thốt lên rằng:”Điều khiến tôi thấy khá hối hận đó là tôi không biết bất cứ ngoại ngữ nào”(Bill Gates). Từ đó cũng cho ta thấy được tầm quan trọng của ngoại ngữ. ______________________________________________________________________ Lê Thị Thanh Mai, (không ngày tháng), Các nhu cầu khác của con người, (https://voer.edu.vn/m/cac-nhu-caukhac-cua-con-nguoi/4c8b0b20). 6 15 Đối với dân tộc Việt Nam ta nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng, chúng ta có rất nhiều tấm gương tự học. Một trong những tấm gương vô cùng vĩ đại và rất đáng noi theo ấy, chính là tấm gương học tập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói:”Đường đời là một chiếc thang không có nấc chót. Học tập là một quyển vở không có trang cuối cùng”. Bác đã làm gương cho tất cả chúng ta bằng việc học tập suốt đời, ngay cả khi trên giường bệnh. Chỉ với khả năng tự học mà Bác Hồ có thể sử dụng thành thạo đến 29 ngoại ngữ. Bằng chứng là trong các cuộc tiếp đón khách nước ngoài, Bác không cần đến phiên dịch, có chăng chỉ là do nguyên tắc ngoại giao. 1.1.2. Cơ sở lý luận về ngôn ngữ và ngoại ngữ Ngôn ngữ Theo khái niệm về ngôn ngữ từ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì ngôn ngữ là một đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học, “ngôn ngữ” có hai nghĩa chính: Một khái niệm trừu tượng, và một hệ thống ngôn ngữ cụ thể, ví dụ:“tiếng Việt”. Nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ Ferdinand de Saussure, người định nghĩa phương pháp nghiên cứu hiện đại của ngôn ngữ học, trước tiên khẳng định một cách rõ ràng sự khác biệt bằng cách sử dụng language (từ tiếng Pháp) cho ngôn ngữ khi là một khái niệm; langue như là một ví dụ cụ thể của một hệ thống ngôn ngữ, và parole cho việc sử dụng cụ thể của lời nói trong một ngôn ngữ cụ thể.7 Khi nói về ngôn ngữ như là một khái niệm chung, định nghĩa có thể được sử dụng để nhấn mạnh khía cạnh khác nhau của hiện tượng này. Những định nghĩa này cũng đòi hỏi cách tiếp cận khác nhau và sự hiểu biết về ngôn ngữ, liên quan đến các trường phái nghiên cứu khác nhau và thường không tương thích với nhau, của lý thuyết ngôn ngữ học. Ngôn ngữ là một hệ thống phức tạp con người sử dụng để liên lạc hay giao tiếp với nhau cũng như chỉ chính năng lực của con người có khả năng sử dụng một hệ thống như vậy. Ngành khoa học nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ được gọi là ngôn ngữ học. Ước tính số lượng ngôn ngữ trên thế giới khác nhau giữa 6000 và 7000. Tuy nhiên, bất cứ ước lượng chính xác nào phụ thuộc vào sự phân biệt khá tùy ý giữa các ngôn ngữ ______________________________________________________________________ Khái niệm về Ngôn ngữ từ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, (http://vi.wikipedia.org/wiki/Ngôn_ngữ). 7 16 chính và ngôn ngữ địa phương. Ngôn ngữ tự nhiên được nói hoặc ghi lại, nhưng bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có thể được mã hóa thành phương tiện truyền thông sử dụng các giác quan thính giác, thị giác, xúc giác hoặc kích thích- ví dụ: bằng văn bản, đồ họa, chữ nổi, hoặc huýt sáo. Điều này là do ngôn ngữ của con người là độc lập với phương thức biểu đạt. Khi được sử dụng như là một khái niệm chung, “ngôn ngữ” có thể nói đến các khả năng nhận thức để học hỏi và sử dụng hệ thống thông tin liên lạc phức tạp, hoặc để mô tả các bộ quy tắc tạo nên các hệ thống này, hoặc tập hợp các lời phát biểu có thể được tạo thành từ những quy tắc. Ngôn ngữ có 3 chức năng chính: Để chỉ nghĩa, để thông báo và để khái quát hóa (có quan hệ với tư duy). Chức năng chỉ nghĩa: Để chỉ chính bản thân sự vật hiện tượng, để gắn với một biểu tượng nào đó của sự vật hiện tượng và có chức năng làm phương tiện cho sự tồn tại, truyền đạt và nắm vững các kinh nghiệm xã hội, lịch sử loài người. Chức năng thông báo: Dùng để truyền đạt và tiếp nhận thông tin, để biểu cảm qua đó thúc đẩy điều chỉnh hành động con người. Chức năng khái quát hóa. Ví dụ: -Từ: là một khái niệm chỉ chung cho nhiều sự vật hiện tượng.-Hoạt động trí tuệ phải dùng ngôn ngữ làm công cụ. Theo thống kê của trang web Bách khoa toàn thư mở Wikipedia ngày 02/10/2016 thì các ngôn ngữ có số lượng người nói nhiều nhất trên thế giới là:1).Tiếng Quan Thoại (Trung Quốc): 874 triệu;2).Tiếng Hindi: 366 triệu;3).Tiếng Anh: 341 triệu;4).Tiếng Tây Ban Nha: 322-358 triệu;5).Tiếng Bengal: 207 triệu;6).Tiếng Bồ Đào Nha: 176 triệu; 7).Tiếng Nga: 167 triệu;8).Tiếng Pháp: 130 triệu;9).Tiếng Nhật: 125 triệu;10).Tiếng Đức: 120 triệu. Còn lại 40 % dân số thế giới nói các ngôn ngữ khác. Và theo định nghĩa về loại hình ngôn ngữ từ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì loại hình ngôn ngữ là một khái niệm của ngôn ngữ học dùng để chỉ tập hợp các ngôn ngữ có chung một hay nhiều đặc điểm hình thái nhất định. Loại hình học là bộ môn khoa học nghiên cứu về loại hình ngôn ngữ với hai khuynh hướng sau: Loại hình học chỉnh thể nghiên cứu, phân loại ngôn ngữ loài người dựa trên tập hợp nhiều tiêu chí. Khái niệm loại hình được hiểu là một tập hợp, hệ thống các đặc điểm hình thái, ngữ pháp, ngữ âm. Loại hình học đặc trưng là khuynh hướng nghiên cứu mới, phân loại ngôn ngữ theo từng 17 đặc điểm cụ thể. Khái niệm loại hình được hiểu là một đặc trưng (hình thái, ngữ âm, ngữ pháp). 8 Ngoại ngữ Khi một dân tộc của một quốc gia này, sử dụng một ngôn ngữ của một dân tộc ở một quốc gia khác, tức là không phải tiếng mẹ đẻ của mình, thì đó gọi là ngoại ngữ. Hay gọi đơn giản ngoại ngữ là tiếng nước ngoài. Nhưng chúng ta đang nói đến ở đây là các ngoại ngữ được dùng phổ biến để giao tiếp chung cho khu vực và toàn thế giới. Theo nghiên cứu thì 10 ngôn ngữ được sử dụng phổ biến nhất thế giới là: Tiếng Trung, tiếng Anh, tiếng Hindi, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga, tiếng Bengali, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Mã Lai và cuối cùng là tiếng Pháp. Ở Việt Nam, thường không có khái niệm ngôn ngữ thứ hai như ở một số quốc gia phương Tây. Các ngoại ngữ phổ biến ở Việt Nam hiện nay như: tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Trung Quốc, tiếng Hàn Quốc, tiếng Tây Ban Nha.... Những người giỏi về ngoại ngữ hiện nay chủ yếu phần lớn là các giảng viên dạy ngoại ngữ, những người đã tốt nghiệp Cao đẳng, Đại học, Tu nghiệp sinh nước ngoài về nước. Và một người có thể sử dụng thành thạo nhiều ngoại ngữ trong thời đại ngày nay là một hiện tượng không hề hiếm thấy. Học ngoại ngữ cũng đem lại một số lợi ích như: Có cơ hội làm việc tốt, quan hệ rộng rãi, du lịch dễ dàng, học tập tốt, đa dạng trong phong cách sống và thêm phần tự tin. 1.1.3. Cơ sở lý luận về văn hóa Văn hóa là một khái niệm vô cùng tổng quát và có tính trừu tượng. Hiểu theo dân gian, văn hóa là một cái gì đó đẹp đẽ và tốt lành. Về mặt đánh giá con người, theo quan niệm dân gian, một người có văn hóa là một người có cách “đối nhân xử thế” tốt đẹp và chuẩn mực. Ví dụ: Hành động biết nhường chỗ cho người già, phụ nữ mang thai, trẻ em, người khuyến tật...trên tàu, xe..là một hành động có văn hóa; không xả rác, khạc nhổ, phóng uế bừa bãi... tại các nơi công cộng là việc làm có văn hóa; biết đùm bọc, chia sẻ, giúp đỡ...với những người nghèo khổ, bệnh tật, người gặp hoàn cảnh khó khăn, ______________________________________________________________________ Định nghĩa về Loại hình ngôn ngữ từ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, (https://vi.wikipedia.org/wiki/Lo%E1%BA%A1i_h%C3%ACnh_ng%C3%B4n_ng%E1%BB%AF). 8 18 biết kính trọng, lễ phép với người lớn tuổi hơn mình, biết yêu thương, bảo vệ, chăm sóc những người nhỏ, yếu thế hơn mình...thì đó cũng là một cách thể hiện của một con người có văn hóa. Như chúng ta đã biết, một người có trình độ, học vấn hay bằng cấp cao chưa hẳn là một con người có văn hóa. Thực tế cuộc sống đã chứng minh rất rõ ràng về cách nhìn nhận và đánh giá một con người có văn hóa hay không, chỉ qua vẻ bề ngoài, trình độ, bằng cấp, địa vị xã hội...là một cách đánh giá hoàn toàn chưa chính xác. Bởi thế ông cha ta có câu tục ngữ rằng:“Họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm”. (Vẽ hổ chỉ vẽ da chứ khó vẽ xương, biết người biết mặt nhưng không biết lòng). Một người không được học hành qua trường lớp chính quy thì cũng chưa hẳn là một con người không có văn hóa. Và khi chúng ta nhắc đến hai từ văn hóa là dường như chúng ta đang nói đến những gì tốt đẹp nhất liên quan đến con người, phục vụ cho con người. GS.TS. Hoàng Chí Bảo trong Hội nghị tập huấn chuyên đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm” năm 2016, có nói:”Văn hóa là đạo đức. Đạo đức là văn hóa”. Điều đó dường như là một khái niệm tương đồng giữa văn hóa và đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nói tại Hội nghị văn hóa toàn quốc tổ chức tháng 11/1946:”Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Ấy là tầm quan trọng của văn hóa cho một dân tộc, một quốc gia. Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.Theo khái niệm về văn hóa của Bách khoa toàn thư mở Wikipedia:“Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: Khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện, v.v... Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn hóa. Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại học Mỹ là Alfred Kroebervà Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới. Văn hóa được đề cập đến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như dân tộc học, dân tộc học hiện đại theo cách gọi của châu Âu), dân gian học, địa văn hóa học, văn hóa học, xã hội học...và trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau. Vào năm 2002, UNESCO định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những 19 đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thốngvà đức tin. Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên”.9 Thuật ngữ văn hóa bắt nguồn từ chữ Latinh “Cultus” mà nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng theo từ: “Cultus Agri” là “gieo trồng ruộng đất” hay “Cultus Animi” là “gieo trồng tinh thần”.10 Tóm lại, văn hóa là một sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người với xã hội. Chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra. 1.1.4. Cơ sở lý luận về sinh viên Khái niệm về sinh viên của Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, thì:“Sinh viên là người học tập tại các trường Đại học,Cao đẳng. Ở đó họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề, chuẩn bị cho công việc sau này của họ. Họ được xã hội công nhận qua những bằng cấp đạt được trong quá trình học. Quá trình học của họ theo phương pháp chính quy, tức là họ đã phải trải qua bậc tiểu học và trung học”. Và sự khác biệt giữa sinh viên và học sinh phổ thông là: - Tự do và không bị sự kìm kẹp của phụ huynh; - Tự chọn chuyên ngành, hướng đi cho bản thân; - Phải biết tích lũy kiến thức; - Nhiều môn học mới; - Tự lập kế hoạch học tập cho bản thân; - Tự học và tự nghiên cứu; - Dễ trốn học; _____________________________________________________________________ Khái niệm về Văn hóa từ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, (https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%C3%B3a#V.C4.83n_h.C3.B3a). 9 10 Trần Quốc Vượng (chủ biên)(1998), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, NXB Giáo Dục. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan