Mục lục
Lời mở đầu
Chương 1 Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến
3
1.1 Sự ra đời của phép biện chứng
3
1.2 Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
4
1.2.1 Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
4
1.2.2 Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến
6
Chương 2 Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường ở
Việt Nam
8
2.1 Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
8
2.2 Môi trường đang bị huỷ hoại do các chính sách tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam
9
2.2.1 Trong công nghiệp
9
2.2.2 Trong nông nghiệp
12
2.2.3 Trong du lịch - biển
13
2.2.4 Gia tăng mức tiêu thụ
14
2.3 Hậu quả của ô nhiễm môi trường
15
2.4 Giải pháp giải quyết vấn đề
16
Tài liệu tham khảo
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
2
19
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
Lêi më ®Çu
Chúng ta đang sống trong một mạng lưới sự sống rộng lớn. Giống như một
mạng nhện, càng có nhiều mối liên hệ thì mạng lưới càng bền vững. Chúng
ta đã biết tất cả những mối liên kết trong sự sống sẽ không tồn tại và phát
triển được nếu không được hỗ trợ bởi môi trường. Với tốc độ phá hoại môi
trường như hiện nay của con người, môi trường của chúng ta đang dần bị
suy thoái, mối liên kết của các mạng lưới sự sống đang dần bị phá vỡ. Sự
tăng trưởng kinh tế ngày càng nhanh, một mặt nó nâng cao đời sống của
người dân nhưng mặt khác nó đang gây một sức ép mạnh mẽ lên môi trường
tự nhiên. Cũng như các nước đang phát triển khác, để có những kết quả về
kinh tế trong giai đoạn trước mắt, chúng ta phải trả giá là mất đi sự bền vững
của các nguồn tài nguyên về lâu dài. Một thập kỷ phát triển nhanh chóng ở
việt nam đã dẫn đến sự gia tăng ô nhiễm đất, không khí, nước và quan trọng
hơn là gia tăng mưc tiêu thụ, phân hoá giầu nghèo… mạng lưới đang dần
mất đi sưc mạnh của nó.
Chính vì vậy nghiên cứu "PhÐp biÖn chøng vÒ mèi liªn hÖ phæ biÕn vµ
vËn dông ph©n tÝch mèi liªn hÖ gi÷a t¨ng trëng kinh tÕ víi b¶o vÖ m«i
trêng sinh th¸i". Với mong muốn góp một phần công sức nhỏ bé vào việc
tìm kiếm con đường phát triển phát triển bền vững và vấn đề cấp thiết chúng
ta hiện nay.
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
3
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
Chương 1 Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến
1.1 Sự ra đời của phép biện chứng
Triết học ra đời từ thời cổ đại đánh dấu sự ra đời của phép biện chứng. Trải
qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển có phồn vinh có suy vong. Khởi đầu
là phép biện chứng tự phát cổ đại, thể hiện rõ nét trong thuyết “âm - dương”
của Trung Quốc, đăc biệt là trong nhiều học thuyết của Hi Lạp cổ đại. Đến
khoảng thế kỷ 17 nửa đầu thế kỷ 18, phương pháp siêu hình thống trị trong
tư duy triết học mà đại diện là Đêcactơ – ông được coi là linh hồn của
phương pháp siêu hình. Trong khoảng nửa sau thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 đây
là thời kỳ tổng kết các lịch sử triết học nhân loại và hình thành hệ thống lớn
đó là phương pháp biện chứng duy tâm mà đại diện là Hêgen ông được coi
là tiền đề của phương pháp biện chứng duy vật sau này. Ngày nay phép biện
chứng đã đạt đến trình độ cao nhất đó là phép biện chứng duy vật. Phép biện
chứng duy vật được tạo thành từ một loạt những phạm trù, những nguyên lý,
những quy luật được khái quát từ hiện thực phù hợp với hiện thực. Cho nên
nó phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Nhờ vậy nó đã khắc phục được những hạn chế vốn có của
phép biện chứng tự phát cổ đại cho rằng thế giới là một chỉnh thể thống nhất,
giữa các bộ phận của nó có mối liên hệ qua lại, thâm nhập vào nhau, tác
động và chịu ảnh hưởng lẫn nhau, thế giới và các bộ phận cấu thành thế giới
ấy không ngừng vận động và phát triển. Tuy nhiên sự hạn chế của phương
pháp biện chứng này là tuy nó cho chúng ta thấy một bức tranh về sự tác
động qua lại, sự vận động và phát triển nhưng chưa làm rõ được cái gì đang
liên hệ cũng như những quy luật nội tại của sự vận động và phát triển. Hơn
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
4
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
nữa phép biện chứng duy vật còn sửa được sai lầm của phép biện chứng duy
tâm khách quan thời cổ đại mà là Hêgen - đại diện lỗi lạc của phép biện
chứng. Hêgen cho rằng sự phát triển biện chứng của thế giới bên ngoài chỉ là
sự sao chép lại sự tự vận động của “ý niệm tuyệt đối ”mà thôi. Phép biện
chứng duy vật đã chứng minh rằng : những ý niệm trong đầu óc của chúng ta
chẳng qua là sự phản ánh của các sự vật hiện thực khách quan, do đó bản
thân biện chứng của ý niệm chỉ đơn thuần là sự phản ánh có ý thức của sự
vận động biện chứng của thế giới hiện thực khách quan.Như vậy phép biện
chứng duy vật đã khái quát một cách đúng đắn những quy luật vận động và
sự phát triển chung nhất của thế giới. Vì vậy P.Ăngen đã định nghĩa: “phép
biện chứng…là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động
và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.”
1.2 PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1.2Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng
a. Khái niệm biện chứng và phép biện chứng
Trong chủ nghĩa Mac – Lênin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những
mối quan hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các
sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
Biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất, còn biện chứng chủ
quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong đời sống ý thức của con
người.
Theo Ph.Ăngghen: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn
bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì
chỉ là phản ánh sự chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên…”
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
5
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế
giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống
các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Với nghĩa như vậy,
phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với
phép siêu hình – phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong
trạng thái cô lập và bất biến.
b. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức cơ bản: phép biện chứng
chất phát thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng
duy vật của chủ nghĩ Mác – Lênin.
Phép biện chứng chất phát thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép
biện chứng trong lịch sử triết học. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ
thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Tiêu biểu cho những tư
tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc là “biến dịch luận” (học thuyết về
những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ) và “ngũ hành luận”
(học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi của các tố chất bản thể trong
vũ trụ) của Âm dương gia. Trong triết học Ấn Độ, biểu hiện rõ nét của tư tưởng
biện chứng là triết học của đạo Phật, với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”,
“nhân duyên”… Đặc biệt, triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện một cách sâu sắc
tinh thần của phép biện chứng tự phát. Ph.Ăngghen viết: “Những nhà triết học Hy
Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh, và Arixtốt, bộ óc bách
khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã nghiên cứu những hình thức căn bản
nhất của tư duy biện chứng… Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về
thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần
đầu tiên đã được Hêraclít trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng
thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi,
mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong”. Tuy nhiên, những tư tưởng
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
6
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
biện chứng đó về cơ bản vẫn còn mang tính chất ngây thơ, chất phát. Ph.Ăngghen
nhận xét: “Trong triết học này, tư duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần
phác tự nhiên chưa bị khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu… Chính vì người
Hy Lạp chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích giới tự nhiên, cho nên họ hãy còn
quan niệm giới tự nhiên là một chỉnh thể và đứng về mặt toàn bộ mà xét chỉnh
thể ấy. Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng minh
về chi tiết; đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp”. Phép
biện chứng chất phác cổ đại nhận thức đúng về tính biện chứng của thế giới
nhưng bằng trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác, ngây thơ, thiếu sự
chứng minh bởi những thành tựu phát triển của khoa học tự nhiên.
Từ nửa cuối thế kỷ XV, khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển mạnh, đi sâu
vào phân tích, nghiên cứu từng yếu tố riêng biệt của thế giới tự nhiên, dẫn tới sự
ra đời của phương pháp siêu hình. Đến thế kỷ XVIII, phương pháp siêu hình trở
thành phương pháp thống trị trong tư duy triết học và nghiên cứu khoa học. Tuy
nhiên, khi khoa học tự nhiên chuyển từ việc nghiên cứu đối tượng riêng biệt sang
nghiên cứu quá trình thống nhất của các đối tượng đó trong mối liên hệ, thì
phương pháp tư duy siêu hình không còn phù hợp mà phải chuyển sang một hình
thức tư duy mới cao hơn là tư duy biện chứng.
Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Cantơ và hoàn
thiện ở Hêghen. Theo Ph.Ăngghen: “Hình thức thứ hai của phép biện chứng, hình
thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết học cổ điển Đức,
từ Cantơ đến Hêghen.”
Các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của
phép biện chứng duy tâm một cách có hệ thống. Tính chất duy tâm trong triết học
Hêghen biểu hiện ở chỗ ông coi biện chứng là quá trình phát triển khởi đầu của
“ý niệm tuyệt đối”, coi biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan.
Theo Hêghen, “ý niệm tuyệt đối” là điểm khởi đầu của tồn tại, tự “tha hóa” thành
giới tự nhiên và trở về với bản thân nó trong tồn tại tinh thần. “Tinh thần, tư
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
7
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
tưởng, ý niệm là cái có trước, còn thế giới hiện thực chỉ là một bản sao chép của
ý niệm”. Các nhà triết học duy tâm Đức, mà đỉnh cao nhất là Hêghen, đã xây
dựng phép biện chứng duy tâm với hệ thống phạm trù, quy luật chung, có lôgích
chặt chẽ của ý thức, tinh thần. V.I. Lênin cho rằng: “Hêghen đã đoán được một
cách tài tình biện chứng của sự vật (của những hiện tượng, của thế giới, của giới
tự nhiên) trong biện chứng của khái niệm. Ph.Ăngghen cũng nhấn mạnh tư tưởng
của C.Mác: “Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay
Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày
một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện
chứng. Ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó
lại là sẽ phát triển được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của
nó”.
Tính chất duy tâm trong phép biện chứng cổ điển Đức, cũng như trong
triết học Hêghen là hạn chế cần phải vượt qua. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khắc
phục hạn chế đó để sáng tạo nên phép biện chứng duy vật. Đó là giai đoạn phát
triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, là sự kế thừa trên tinh
thần phê phán đối với phép biện chứng cổ điển Đức. Ph.Ăngghen tự nhận xét:
“Có thể nói rằng hầu như chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện
chứng tự giác thoát khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan niệm
duy vật về tự nhiên và về lịch sử”.
1.3Phép biện chứng duy vật
a. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen cho rằng:
“Phép biện chứng… là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận
động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin còn có một số định nghĩa
khác về phép biện chứng duy vật. Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
8
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
liên hệ phổ biến, Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “Phép biện chứng là khoa học về sự
liên hệ phổ biến”; còn khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về sự phát triển
(trong đó có bao hàm học thuyết về sự phát triển của nhận thức) trong phép biện
chứng mà C.Mác đã kế thừa từ triết học của Hêghen, V.I. Lênin đã khẳng định:
“Trong số những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là
học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không
phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức
này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng”...
b. Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác–Lênin có hai đặc trưng cơ
bản sau:
Một là, Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin là phép
biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học.
Với đặc trưng này, phép biện chứng duy vật chẳng những có sự khác biệt căn
bản với phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, đặc biệt là với phép biện
chứng của Hêghen (là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng thế giới
quan duy tâm) mà còn có sự khác biệt về trình độ phát triển so với nhiều tư
tưởng biện chứng đã từng có trong lịch sử triết học từ thời cổ đại (là phép biện
chứng về căn bản được xây dựng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật nhưng
đó là chủ nghĩa duy vật còn ở trình độ trực quan, ngây thơ và chất phác).
Hai là, trong Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có sự
thống nhất giữa nội dung thế giới quan (duy vật biện chứng) và phương pháp
luận (biện chứng duy vật), do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà
còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Mỗi nguyên lý, quy
luật trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ là sự
giải thích đúng đắn về tính biện chứng của thế giới mà còn là phương pháp
luận khoa học của việc nhận thức và cải tạo thế giới. Trên cơ sở khái quát các
mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, những quy luật phổ biến của các quá
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
9
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
trình vận động, phát triển của tất thảy mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã
hội và tư duy, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin cung cấp
những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất cho quá trình nhận thức thế
giới và cải tạo thế giới, đó không chỉ là nguyên tắc phương pháp luận khách
quan mà còn là phương pháp luận toàn diện, phát triển, lịch sử – cụ thể phương
pháp luận phân tích mâu thuẫn nhằm tìm ra nguồn gốc, động lực cơ bản của
các quá trình vận động, phát triển…Với tư cách đó, phép biện chứng duy vật
chính là công cụ khoa học vĩ đại để giai cấp cách mạng nhận thức và cải tạo
thế giới.
Với những đặc trưng cơ bản đó mà phép biện chứng duy vật giữ vai trò là
một nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết
học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác – Lênin, đồng thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận
chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
1.4 Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
1.4.1 Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
Phép biện chứng duy vật có vai trò làm sáng tỏ những quy luật của sự liên
hệ và phát triển của tự nhiên, xã hội loài người và của tư duy. Vì vậy ở bất
kỳ cấp độ phát triển nào của phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến vẫn được xem là một trong những nguyên lí có ý nghĩa khái
quát nhất. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến cho rằng các sự vật hiện tượng
và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ
qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau. Trong đó liên hệ là sự tác động
qua lại lẫn nhau, là điều kiện tiền đề tồn tại cho nhau, là sự quy định lẫn
nhau, là sự nương tựa lẫn nhau, sự chuyển hoá lẫn nhau của các mặt, các yếu
tố, các thuộc tính cấu thành sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Ngoài ra những người theo quan điểm duy vật biện chứng còn khẳng định cơ
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
10
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện tượng chính là tính thống
nhất vật chất của thế giới. Theo quan điểm này, các sự vật, các hiện tượng
trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng
cũng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế
giới vật chất. Các mối liên hệ diễn ra trong mỗi sự vật, giữa các sự vật với
nhau, trong toàn bộ vũ trụ, trong mọi không gian và thời gian. Quan điểm
duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của
sự liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng, các quá trình mà nó còc nêu rõ
tính đa dạng của sự liên hệ qua lại đó. Tính đa dạng của sự liên hệ do tính đa
dạng trong sự tồn tại, sự vận động và phát triển của chính các sự vật và hiện
tượng quy định. Có mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác
động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt
khác nhau của một sự vật, nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận
động và phát triển của sự vật. Có mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa
các sự vật, các hiện tượng khác nhau, nói chung nó không có nghĩa quyết
định, hơn nữa nó thường phải thông qua các mối liên hệ bên trong mà phát
huy. Tuy nhiên mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi khi còn
giữ vai trò quyết định. Ngoài ra còn có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ
thứ yếu, có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao
quát một số lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực riêng biệt của thế giới. Có mối
liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp mà trong đó sự tác động qua lại
được thực hiện thông qua một hay một số khâu trung gian. Có mối liên hệ
bản chất và mối liên hệ không bản chất, có mối liên hệ tất yếu và mối liên hệ
ngẫu nhiên. Có mối liên hệ giữa các sự sự vật khác nhau, có mối liên hệ
khác nhau của cùng một sự vật. Sự vật, hiện tượng nào cũng vận động và
phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, giữa các giai đoạn đó cũng có mối
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
11
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
liên hệ với nhau tạo thành lịch sử phát triển hiện thực của các sự vật và các
quá trình tương ứng. Quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ đòi hỏi
phải thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại đó. Các loại liên hệ khác
nhau có thể chuyển hoá cho nhau. Sự chuyển hoá đó có thể diễn ra hoặc do
thay đổi phạm vi bao quát khi xem xét hoặc do kết quả vận động khách quan
của chính sự vật hiện tượng ấy.
1.4.2 Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến xét dưới góc độ thế giới quan thì nó
phản ánh tính thống nhất của vật chất và thế giới. Các sinh vật, hiện tượng
trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế nào chăng nữa thì chúng
cũng chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất đó là thế giới
vật chất. Xét dưới góc độ nhận thức lí luận, nó là cơ sơ lí luận của quan điểm
toàn diện. Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận
thức các sự vật, hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi để có nhận thức
đúng về sự vật chúng ta cần xem xét vấn đề: thứ nhất là trong mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính
sự vật đó. Thứ hai là : trong mối liên hệ qua lại giữa các sự vật đó với các sự
vật khác, kể cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Hơn thế nữa quan điểm toàn diện đòi
hỏi để nhận thức đúng sự vật, chúng ta cần xem xét nó trong mối quan hệ
với nhu cầu thực tiễn của con người. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta
phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái
quát để rút ra bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện
tượng đó. Nhưng quan điểm toàn diện không đồng nhất với cách xem xét
dàn trải, liệt kê những quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng đó, nó
đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản nhất, cái quan trọng nhất của sự vật hay
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
12
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
hiện tượng đó. Với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động
thực tiễn, nguyên lí về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi để cải tạo được sự vật,
chúng ta phải bằng hoạt động thực tiễn của mình biến đổi những mối liên hệ
nội tại của sự vật cũng như mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật
khác. Muốn vậy phải sử dụng đồng bộ nhiều phương pháp, nhiều phương
tiện khác nhau để tac động nhằm thay đổi những liên hệ tương ứng. Để tránh
những phưng pháp luận sai lầm trong việc xem xét sự vật, hoạt động cần
tránh chủ nghĩa chiết trung, thuật nguỵ biện. Mọi sự vật hiện tượng đều tồn
tại trong không gian thời gian nhất định và mang dấu ấn của không gian thời
gian đó. Do đó chúng ta cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét và giải
quyết mọi vấn đề thực tiễn đặt ra.
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
13
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
Chương 2 Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường ở
Việt Nam
2.1 Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường
1.
Thế nào gọi là tăng trưởng kinh tế?
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc
tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân
trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy vậy
ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu
nhập bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng
nghèo khổ.
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc
độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai
đoạn.
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ
cần so sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô
kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ
trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
2. Thế nào gọi là bảo vệ môi trường sinh thái?
Môi trường sinh thái là một mạng lưới chỉnh thể có mối liên quan chặt chẽ
với nhau giữa đất, nước, không khí và các cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu. Sự
tương tác hoà đồng giữa các hệ thống của thiên nhiên tạo ra môi trường tương đối
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
14
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
ổn định. Sự rối loạn bất ổn định ở một khâu nào đó trong hệ thống sẽ gây ra hậu
quả nghiêm trọng. Con người và xã hội xuất thân từ tự nhiên, là một bộ phận của
thiên nhiên. Hoạt động của con người và xã hội được xem là một khâu, một yếu tố
trong hệ thống. Thông qua quá trình lao động, con người khai thác bảo vệ bồi đắp
cho thiên nhiên. Cũng qua quá trình đó con người xã hội dần dần có sự đối lập với
tự nhiên. Do tiếng gọi của những lợi ích nhất thời nào đó, cũng có thể là do sự
hoạch định thiển cận về mặt chiến lược, trong không ít nền kinh tế đã nảy sinh tình
trạng vô tình hoặc cố ý không tính đến tương lai của chính mình. Người ta khai
thác tài nguyên thiên nhiên một cách tối đa, vay mượn cả tài nguyên của các thế
hệ tương lai, bất chấp quy luật tự nhiên và đạo lý xã hội, gạt sang một bên những
bài toán về môi sinh và những lợi ích chính đáng của thế hệ sau. Đầu tư nhằm vào
những lĩnh vực sinh lợi nhanh được kêu gọi một cách ồ ạt, đẩy trách nhiệm trả nợ
cho thế hệ kế tiếp. Lợi ích trước mắt được quan tâm quá mức, gây nên tình trạng
phát triển thiếu cân đối hoặc phát triển theo kiểu “bong bóng xà phòng”. Vô tình
hay hữu ý, con người càng phá huỷ môi trường sống của chính mình một cách
nghiêm trọng.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
sinh thái?
Phát triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và
tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã
hội, nâng cao chất lượng văn hoá. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân và
cả loài người trong quá trinh sống. Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan
hệ hết sức chặt chẽ: môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát
triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường. Trong nền kinh tế xã
hội, hàng hoá được di chuyển từ nơi sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng
cùng với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm và phế thải.
Các thành phần đó luôn ở trạng thái tương tác với các thành phần tự nhiên và xã
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
15
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
hội của hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó. Khu vực giao nhau
giữa hai hệ thống trên là môi trường nhân tạo.
Tác động của hoạt động phát triển đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có
lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hay tạo ra kinh phí cần thiết cho sự cải tạo đó, từ
đó nâng cao ý thức của con người về việc bảo vệ môi trường sinh thái, nhưng có
thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo từ những rác thải sinh hoạt,
rác thải công nghiệp, làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác, môi trường tự
nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội thông qua việc cung
cấp nguyên nhiên liệu cho quá trình sản xuất, nhưng cũng có thể gây ra thảm hoạ,
thiên tai đối với các hoạt động kinh tế xã hội trong khu vực, hay tạo những cản trờ
về địa hình, thổ nhưỡng, điều kiện thời tiết...
Mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển trên dẫn đến sự xuất hiện các quan niệm
hoặc các lý thuyết khác nhau về phát triển: Lý thuyết đình chỉ phát triển là làm cho
sự tăng trưởng kinh tế bằng 0 hoặc mang giá trị âm để đảm bảo tài nguyên thiên
nhiên của Trái đất. Một số nhà khoa học khác lại đề xuất lấy bảo vệ để ngăn chặn
sự nghiên cứu, khai thác tài nguyên thiên nhiên. Năm 1992 các nhà môi trường đã
đưa ra quan niệm phát triển bền vững, đó là phát triển trong mức độ duy trì chất
lượng môi trường, giữ cân bằng giữa môi trường và phát triển. (Nguồn VACNE)
2.2 Môi trường đang bị huỷ hoại do các chính sách tăng trưởng kinh tế
ở Việt Nam
2.2.1 Trong công nghiệp
Thực hiện nghị quyết Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, kể từ năm 1986
Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới. Công cuộc đổi mới này được tiến
hành trên toàn diện, trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội như đổi
mới tư duy, hệ thống kinh tế, chính sách, thể chế quản lí hành chính… Trong
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
16
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
lĩnh vực kinh tế, Việt Nam chuyển từ nền kinh tế chỉ huy, tập chung, quan
liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ
Nghĩa. Trong gần hai thập kỷ qua thực hiện chủ trương và đường lối đổi mới
nền kinh tế Việt Nam đã đạt được một số thành tựu to lớn. Chính sách đổi
mới đã mang lại những thay đổi, tạo ra một nền kinh tế năng động, một xã
hội văn minh, công bằng và dân chủ. Tổng sản phẩm quốc nội ( GDP) tăng
trung bình hơn 7%/năm. Đặc biệt trong công nghiệp, tăng trưởng công
nghiệp từ xuất phát điểm chỉ có 0,6% năm 1980 tăng lên đến 6,07% năm
1990 và giai đoạn 1991-2000 tăng lên trung bình 12,9%/năm, trong đó thời
kỳ 1991-1995 có tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt 17%/năm. Tỷ trọng công
nghiệp đã có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá, từ mức
22,7% GDP năm 1991 tăng lên 36,6% năm 2000. Sự phát triển của quá trình
công nghiệp hoá trong những năm qua một mặt là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người dân nhưng mặt khác nó đã ít
nhiều bộc lộ những mặt trái của nó mà nếu không có biện pháp bảo vệ cụ thể
thì trong tương lai không xa chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả
nghiêm trọng do chính chúng ta gây ra.
Theo ước tính hiện nay nước ta có khoảng trên 60.000 công ty và doanh
nghiệp tư nhân, hơn 4.500 hợp tác xã phi nông nghiệp và trên 2 triệu hộ kinh
doanh cá thể. Cùng với sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp và cơ sở
kinh doanh đó, hiện nay trên cả nước tổng lượng chất thải rắn ước tính
khoảng 49. 000 tấn/ngày, trong đó chất thải rắn công nghiệp chiếm khoảng
27.000tấn/ngày. Việc quản lý chặt chẽ chất thải rắn nguy hại đang gặp nhiều
khó khăn, không có đủ kho chứa đủ tiêu chuẩn để lưu giữ các chất thải độc
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
17
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
hại trước khi xử lí, không có nhà máy xử lí chất thải độc. Phần lớn chất thải
rắn nguy hại này thuần tuý chỉ được chôn chung lẫn lộn với rác thải sinh
hoạt hay thậm chí đổ ngay tại nhà máy gây mối nguy hại rất lớn đối với môi
trường sống.
Ngoài ra, trong quá trình sản xuất, kinh doanh, các cơ sở doanh nghiệp
thường thải ra một lượng nươc thải khá lớn. Đặc biệt là khoảng hơn 90% cơ
sở sản xuất cũ chưa có thiết bị xử lí nước thải. Phần lớn các nhà máy xí
nghiệp nếu có tiến hành xử lí thì chỉ xử lí sơ bộ rồi thải thẳng ra nghuồn
nước mặt, gây ô nhiễm trầm trọng đối với nhiều dòng sông. Trong nhiều
trường hợp, nuớc thải ứ đọng lâu ngày còn gây ô nhiễm không khí, mất mỹ
quan, lan truyền bệnh dịch và nhiều tác động tiêu cưc khác. Nước thải công
nghiệp chính là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm cho môi trường
đô thị
Khí thải của các cơ sở doanh nghiệp sản xuất cũng là vấn đề cần bàn tới. Ô
nhiễm môi trường không khí chủ yếu do các ngành nhiệt điện, công ngiệp
hoá chất gây nên. Ví dụ nhà máy nhiệt điện Phả Lại, nồng độ bụi trung bình
tại các điểm đo đều vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1 đến 6 lần. Tại nhà máy
nhiệt điện Uông Bí, nồng độ bụi đo trong 1 giờ từ 4 đến 4,7 mg/m 3, gấp 13
đến 16 lần trị số cho phép. Nồng độ các chất khí độc hại khác như CO 2, NO2,
SO2… trong không khí xung quanh nhiều nhà máy và khu công nghiệp đều
vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 2,5 lần. Điều này đã gây tác động xấu
đối với mùa màng và sức khoẻ của nhân dân của cả một vùng rộng lớn xung
quanh các khu vực nhà máy. Tuy trong thời gian qua, phần lớn các nhà máy
đã trang bị thiết bị xử lí bụi nhưng số lượng các nhà máy có thiết bị xử lí khí
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
18
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
độc hại cón rất ít mà chủ yếu được thải thẳng ra ngoài không khí, ảnh hưởng
trực tiếp đến sưc khoẻ con người.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng phát triển thì nhu cầu khai
thác các thành phần môi trường để làm nguyên liệu đầu vào cho hoạt động
sản xuất ngày càng tăng. Quá trình này thể hiện mối liên hệ cơ bản giữa phát
triển và môi trường đồng thời cũng là một vấn đề nan giải. Việc khai thác
quá mức nguồn tài nguyên là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự hao kiệt về tài
nguyên, mất cân bằng sinh thái và suy giảm chất lượng môi trường. Nạn
khai thác gỗ trái phép gây ra sự suy nghiêm trọng độ che phủ của rừng. Nếu
như năm 1945 độ che phủ nước ta đạt 43% thì tính đến tháng 12 năm 2000
độ che phủ rừng chỉ còn 29, 8% và đang ngày càng bị thu hẹp
Còn nhiều nhiều vấn đề ô nhiễm do công nghiệp gây ra như việc nhập
khẩu các thiết bị lạc hậu từ nước ngoài, hay tiếng ồn từ các cơ sở sản xuất…
mà trong phạm vi bài tiểu luận triết học của mình tôi không thể trình bày hết
được, trên đây là những vấn đề mà theo tôi là cấp thiết và cần có hướng giải
quyết kịp thời.
2.2.2 Trong nông nghiệp
Nước ta là một nước có nền kinh tế xuất phát điểm là nông nghiệp và cho
đến nay, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào tài nguyên,
nông sản và hàng sơ chế. Kim ngạch xuất khẩu khoáng sản và hàng hoá
nông lâm, thuỷ hải sản chiếm tới 63% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam. Nước ta đang trên đà hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình này hứa hẹn
nhiều cơ hội cho Việt Nam đẩy mạnh sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu to lớn
của thị trường quốc tế. Tuy nhiên đi đôi với sự gia tăng này của các hoạt
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
19
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
động sản xuất là khả năng gây ô nhiễm và huỷ hoại môi trường ngày càng
lớn. Sự gia tăng xuất khẩu các mặt hàng từ nguồn tài nguyên không tái tạo
được và việc khai thác bừa bãi các nguồn tài nguyên có thể tái tạo nhằm
phục vụ xuất khẩu có thể làm cạn kiệt nguồn tài nguyên của nước ta trong
tương lai. Mặt khác, các ngành nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi cũng có
nhiều cơ hội để thâm canh, gia tăng sản lượng dẫn đến việc phá huỷ tái
nguyên thiên nhiên do khai thác, trồng trọt và chăn nuôi không hợp lí. Để
tăng sản lượng các loại rau, củ, quả… người nông dân thường phun các loại
chất kích thích, phân bón, thuốc trừ sâu… Trình độ nhận thức và chuyên
môn của người dân còn thấp, thêm vào đó đội ngũ cán bộ nông nghiệp còn
chưa nhiều vì vậy người nông dân chưa ý thức được hành động của họ sẽ
dẫn đến hậu quả gì. Việc sử dụng các loại hoá chất và sau đó vứt ngay các
loại vỏ, bao đựng trên ruộng trước tiên gây ô nhiễm nguồn nước sau là gây
nguy hiểm cho những người sử dụng các loại rau, củ, quả đó. Thực tế là
trong năm những năm gần đây, ở miền Bắc, giá nhãn và vải đã mất giá
nghiêm trọng do Trung Quốc không nhập khẩu vì hàng chưa đảm bảo tiêu
chuẩn chất lượng… Sử dụng hoá chất không được phép trước tiên là gây ô
nhiễm nguồn nước, không tiêu thụ được hàng hoá, sau cùng là gây ra thoái
hoá đất- một sự mất mát lớn. Môi trường nông thôn cũng đang kêu cứu.
2.2.3 Trong du lịch biển
Trước tình hình tăng trưởng kinh tế, các phương tiện thông tin, giao thông
vận tải ngày càng dễ dàng và thuận tiện. Đây là điều kiện để hoạt động du
lịch phát triển trở nên nhanh chóng. Ngành du lịch nước ta hãy còn rất nhỏ
bé so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên trong 10 năm
qua, cùng với quá trình đổi mới và chuẩn bị hội nhập nền kinh tế thế giới du
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1. Hoàng Thị Bích Hạnh
2. Nguyễn Trọng Tuấn
3. Hoàng Thị Thu Hương
Huyền
20
Nhóm SVTH:
4. Lê Bá Hà
5. Nguyễn Việt Tân
6. Trần Thị Thanh
- Xem thêm -