Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kỹ thuật - Công nghệ Nhien lieu va dau mo nhien lieu co nguon goc tu dau khi...

Tài liệu Nhien lieu va dau mo nhien lieu co nguon goc tu dau khi

.PDF
45
236
139

Mô tả:

Chương 2. NHIÊN LIỆU CÓ NGUỒN GỐC TỪ DẦU KHÍ 2.1. QUÁ TRÌNH CHẾ BIẾN NHIÊN LIỆU TỪ DẦU KHÍ 2.1.1. Nguồn gốc và thành phần của dầu khí 1) Nguồn gốc: Dầu khí là tên viết tắt của dầu mỏ và khi tự nhiên là các hyđrocacbon có nguồn gốc từ xác động thực vật sau một quá trình phân huỷ và chuyển biến cùng với biến đổi của địa chất tạo thành. Dầu mỏ tồn tại trong tự nhiên dưới dạng những vỉa dầu, thường ở dạng lỏng, đôi khi ở dạng rắn ngay ở nhiệt độ thường. Trong các mỏ dầu do có áp suất cao nên có một lượng khí bị hoà tan trong dầu mỏ. Khi khai thác áp suất giảm khí này sẽ tách ra khỏi dầu mỏ và được gọi là khí đồng hành. Khí mà thu được trực tiếp từ các mỏ chứa toàn khí gọi là khí tự nhiên Nguồn năng lượng thu được từ dầu khí chiếm hơn 80% nguồn năng lượng toàn cầu. Dự tính nguồn năng lượng từ dầu khí chỉ còn cung cấp cho chúng ta trong vòng vai chục năm nửa. Vì vậy nguồn năng lượng dầu mỏ ngày càng trở nên vô cùng quí giá. Dầu mỏ là một trong những nhiên liệu quan trọng nhất của xã hội hiện đại dùng để sản xuất điện và cũng là nhiên liệu của tất cả các phương tiện giao thông vận tải. Hơn nữa, dầu mỏ cũng được sử dụng trong công nghiệp hóa dầu để sản xuất các chất dẻo (plastic) và nhiều sản phẩm khác. Vì thế dầu thường được ví như là "vàng đen". Tùy theo nguồn tính toán, trữ lượng dầu mỏ thế giới nằm trong khoảng từ 1.148 tỉ thùng (barrel) (theo BP Statistical Review 2004) đến 1.260 tỉ thùng (theo Oeldorado 2004 của ExxonMobil). Trữ lượng dầu mỏ tìm thấy và có khả năng khai thác mang lại hiệu quả kinh tế với kỹ thuật hiện tại đã tăng lên trong những năm gần đây và đạt mức cao nhất vào năm 2003. Người ta dự đoán rằng trữ lượng dầu mỏ chỉ đủ dùng cho 50 năm nữa. Năm 2003 trữ lượng dầu mỏ nhiều nhất là ở Ả Rập Saudi (262,7 tỉ thùng), Iran (130,7 tỉ thùng) và ở Iraq (115,0 tỉ thùng) kế đến là ở Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Kuwait và Venezuela. Nước khai thác dầu nhiều nhất thế giới trong năm 2003 là Ả Rập Saudi (496,8 triệu tấn), Nga (420 triệu tấn), Mỹ (349,4 triệu tấn), Mexico (187,8 triệu tấn) và Iran (181,7 triệu tấn). Việt Nam được xếp vào các nước xuất khẩu dầu mỏ từ năm 1991 khi sản lượng xuất được vài ba triệu tấn. Đến nay, sản lượng dầu khí khai thác và xuất khẩu hàng năm của Việt Nam đạt vào khoảng 20 triệu tấn/năm. Vì tầm quan trọng kinh tế, dầu mỏ cũng là lý do cho những mâu thuẫn chính trị. Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã sử dụng dầu mỏ như vũ khí trong cuộc xung đột Trung Đông và tạo ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào năm 1973 và 1979. 2) Thành phần: a. Thành phần nguyên tố của dầu mỏ và khí tự nhiên Những nhân tố chủ yếu tạo nên các hợp phần của dầu mỏ là cacbon(C) và hyđrô (H). Hàm lượng cacbon chiếm 83,5-87% và H chiếm 11,5-14% khối lượng dầu mỏ. Hàm lượng H trong dầu mỏ cao hơn hẳn so với các khoáng vật có nguồn BS: Nguyễn Quang Trung 7 gốc động, thực vật phân huỷ khác, như trong than bùn chỉ là 5%, trong than bùn thối là 8%. Chính hàm lượng H cao so với C giải thích nguyên nhân dầu mỏ tồn tại ở trạng thái lỏng. Cùng với C và H, trong tất cả các loại dầu mỏ đều có S, O và N. Tổng hàm lượng S,O,N rất hiếm khi vượt quá 2 - 3% khối lượng. Trong số các nguyên tố này, N chiếm phần nhỏ, khoảng 0,001-0,3%. Hàm lượng O khoảng 0,1-1%, tuy nhiên có loại dầu nhiều nhựa O chiếm tới 2-3%. Hàm lượng S chiếm phần chủ yếu. Ở loại dầu ít S hàm lượng S chiếm 0,1-1% kl (dầu mỏ Việt Nam có rất ít S, hàm lượng S nhỏ hơn 0,1%). Loại dầu nhiều S có hàm lượng S từ 1-3% kl và vượt hơn nửa như trong một số dầu mỏ Mêhicô hàm lượng S lên tới 3,65 đến 5,3%, dầu Uzơbekistan 3,2-6,3%. Dầu mỏ ít S là dầu ngọt, có giá trị kinh tế cao, ngược lại dầu mỏ nhiều S là dầu chua, giá trị thấp. Tồn tại trong dầu mỏ với hàm lượng thấp còn có một số nguyên tố khác, chủ yếu là các kim loại như Vanadi (V), Niken(Ni), Sắt (Fe), Magiê (Mg), Crôm(Cr), Titan(Ti), Côban(Co), kali(K), Canxi(Ca), Na cũng như P và Si. Hàm lượng những nguyên tố này rất nhỏ, tuy vậy sự tồn tại của một số nguyên tố cũng gây khó khăn cho các dây chuyền công nghệ chế biến dầu, do các hợp chất V và Ni đầu độc đa số chủng loại xúc tác hoá dầu. Các nguyên tố kim loại này thường tồn tại dưới dạng các hợp chất cơ kim, cấu tạo phức tạp có trong phần cặn dầu. b. Thành phần hoá học của dầu mỏ và khí tự nhiên. Thành phần chủ yếu tạo nên dầu khí là hiđrôcacbon. Hiđrôcacbon là những hợp chất hữu cơ cấu tạo bởi hai nguyên tố hoá học là H và C. Những phân tử các chất hydrocacbon này khác nhau bởi số lượng nguyên tử C và cách sắp xếp các nguyên tử C, từ đó hình thành nên những nhóm hydrocacbon với cấu trúc hoá học khác nhau và có tính chất dị biệt. + Nhóm hyđrocacbon parafin (hydrocacbon no hay ankan – CnH2n+2): Trong đó n là số C trong mạch phân tử. ở phân tử hydrocacbon parafin, các nguyên tử C liên kết với nhau tạo nên mạch cacbon hở, bằng liên kết đơn bền vững, nên có tên là hydrocacbon no. ở nhiệt độ và áp suất thường hydrocacbon parafin có thể ở các trạng thái khác nhau: - Thể khí (khi n=1,2,3,4) như khí mêtan (CH4), êtan (C2H6), Prôpan(C3H8), butan(C4H10). - Thể lỏng (khi n=5-17) như hexan(C6H14), heptan(C7H16), octan (C8H18), nonan(C9H20), đêcan (C10H22), xetan(C16H34)… - Thể rắn (khi n=18 trở lên) như octadecan(C18H38), nonadecan(C19H40),… Cả ba trạng thái của nhóm hydrocacbon parafin đều có trong dầu mỏ. Khi nằm trong vỉa dầu các hydrocacbon khí ở thể hoà tan trong dầu thô. Khi ra khỏi vỉa trong qúa trình khai thác, do áp suất giảm chúng chuyển thành thể khí, đó là khí đồng hành có thành phần là khí mêtan, êtan, propan, butan và một phần chất BS: Nguyễn Quang Trung 8 pentan(C5H12). Trong các mỏ khí tự nhiên thành phần khí cũng bao gồm các hydrocacbon từ C1 tới C5, nhưng nhiều thành phần nhẹ là mêtan hơn. Các hydrocacbon parafin rắn cũng hoà tan trong các hydrocacbon thể lỏng. Như vậy có thể hiểu dầu mỏ là một thể hỗn hợp các hydrocacbon, trong đó các hydrocacbon khí và rắn hoà tan trong các hydrocacbon lỏng. Hydrocacbon parafin có hai dạng cấu tạo hoá học: - Các nguyên tử C liên kết thành mạch thẳng gọi là dạng normal (n-parafin hay n-alkan) như n-octan(n-C8H18). - Các nguyên tử cacbon liên kết thành mạch nhánh gọi là dạng iso (isoparafin hay iso-alkan) như iso-octan(2.2.4-trimetylpentan). Các hydrocacbon parafin có tính ổn định hoá học, ít có khả năng tham giá các phản ứng. + Nhóm hyđrocacbon naphten (hyđrocacbon vòng no – CnH2n): Trong đó n là số C trong mạch phân tử. Ở phân tử hydrocacbon naphten, các nguyên tử C liên kết với nhau tạo nên một vòng C kín bằng liên kết đơn bền vững, nên có tên là hydrocacbon vòng no. Loại hydrocacbon naphten chủ yếu là vòng 5 C và vòng 6C có tên là cyclo-pentan và cyclo-hexan. H2C CH2 CH2 CH2 H2C CH2 Cyclo-pentan H 2C CH 2 H 2C CH2 CH2 Cyclo-hexan Ngoài ra còn tồn tại rất nhiều dẫn xuất kết hợp một gốc alkyl (ký hiệu R) với một vòng no gọi là alkyl cyclopentan và alkyl cyclohexan. R H2C CH2 H2C CH2 Ankyl cyclo-pentan R CH2 CH H2C CH H2C CH2 CH2 Ankyl cyclo-hexan Các hydrocacbon naphten có tính ổn định hoá học tốt. Loại hydrocacbon naphten có mạch nhánh alkyl dài thì có độ nhớt cao. + Nhóm hyđrocacbon Aromat (hyđrocacbon thơm CnH2n-6) Trong đó n chính là số C trong mạch phân tử. Ở nhóm hydrocacbon aromat, có một chất cơ bản là benzen với công thức nguyên là C6H6. Trong phân tử benzen 6 nguyên tử C liên kết với nhau thành một vòng kín có 3 liên kết đơn và 3 liên kết đôi BS: Nguyễn Quang Trung 9 sắp xếp liên hợp với nhau. Trên cơ sở vòng benzen hình thành các hydrocacbon thơm khác nhau chủ yếu bằng cách thế các nguyên tử H bằng các gốc alkyl với độ dài và cấu trúc mạch khác nhau. CH CH CH3 HC CH HC C HC CH HC CH CH (C6H6, benzen) CH (C6H5 - CH3, metyl benzen) Các phân tử hydrocacbon thơm ngưng tụ cấu tạo bởi nhiều vòng benzen có mặt trong dầu mỏ với hàm lượng một vài %. Các hydrocacbon thơm có khả năng tham gia phản ứng hoá học mạnh, do đó dễ bị ôxy hoá và biến chất. Ngoài ra trong dâu mỏ còn tồn tại các hydrocacbon lai tạp. Trong thành phần của chúng có cả vòng no, vòng thơm và nhóm alkyl. + Nhóm hyđrocacbon Olefin (hyđrocacbon không no CnH2n): Trong đó n là số C trong mạch phân tử. Ở phân tử hydrocacbon olefin, các nguyên tử C liên kết với nhau tạo nên một mạch C hỡ bằng liên kết đơn và liên kết đôi kém bền vững. Do đó các olefin có hoạt tính cao, kém ổn định, kém bền. Các olefin cũng có các cấu trúc thẳng (normal) và nhánh (iso). Các hydrocacbon olefin không có mặt trong dầu thô và khí thiên nhiên, nhưng lại tồn tại với hàm lượng đáng kể trong các sản phẩm chế biến từ dầu mỏ, nhất là các loại khí, các loại xăng và nhiên liệu khác thu được từ một số dây chuyền công nghệ chế biến sâu của nhà máy lọc dầu. CH3 CH2 - CH2 CH3 - CH = CH2 (etylen, CH4) (C3H6, Propylen) CH3–C–CH = C–CH3 CH3 CH3 (C8H16, izo octen) + Những thành phần khác: Trong khí dầu mỏ ngoài các hợp phần hydrocacbon còn có các khí khác như khí cacbonic (CO2), Nitơ (N2), khí sunfua hiđrô (H2S) và các khi trơ argon (Ar), hêli (He)… Trong dầu có những thành phần phức tạp như các chất nhựa asphalten là các hợp chất thơm ngưng tụ, có khối lượng phân tử lên tới 1000 đến 2500 hoặc cao hơn nữa. Nhựa asphanten có tính ổn định hoá học kém, dễ bị ôxy hoá, dễ làm sản phẩm dầu mỏ biến chất, đổi màu, dễ tạo cốc và làm ngộ độc các quá trình chế biến xúc tác trong quá trình chế biến dầu. BS: Nguyễn Quang Trung 10 Ngoài nhựa asphanten trong dầu thô còn có các hợp chất chứa S,N và các kim loại nặng. Đây đều là những tạp chất làm giảm chất lượng dầu, gây độc hại cho các quá trình chế biến dùng làm xúc tác, đồng thời gây ăn mòn kim loại và ô nhiễm môi trường. 2.1.2. Chưng cất dầu mỏ Ngành công nghiệp chế biến dầu khí phát triển rất nhanh, nhất là sau chiến tranh chế biến lần thứ 2 cho đến nay. Theo đánh giá chung thì trong tương lai, dầu khí vẫn chiếm vị trí rất quan trọng trong lĩnh vực năng lượng và nguyên liệu hoá học. Dầu mỏ sau khi khai thác qua khâu xử lý tách nước, tách muối được đưa vào nhà máy lọc dầu để chế biến thành các sản phẩm đa dạng và phong phú. Những công đoạn chủ yếu của quá trình lọc dầu là: chưng cất, chuyển hoá xúc tác, chuyển hoá nhiệt, tách lọc,… đối với những nguồn nguyên liệu thích hợp nhằm thu được các loại sản phẩm cần thiết. Chưng cất dầu mỏ là chế biến trực tiếp dầu mỏ trong các tháp chưng cất với các điều kiện áp suất và nhiệt độ khác nhau để tách dầu mỏ thành các phân đoạn riêng biệt có phạm vi độ sôi thích hợp. Trong quá trình chưng cất không xảy ra sự biến đổi hoá học thành phần dầu mỏ. 1) Chưng cất khí quyển. Dầu mỏ được đưa vào trong lò ống, tai đó dầu được nấu nóng lên 330-3500C, dầu chuyển thành hơi di chuyển lên tháp tinh cất. Tháp có cấu tạo đĩa hoặc vật liệu nhồi để tăng cường quá trình trao đổi nhiệt và chất giữa hai luồng vật chất ở thể lỏng và thể hơi vận chuyển ngược chiều nhau, nhờ đó có thể phân chia hỗn hợp hơi dầu mỏ thành các phân đoạn có phạm vi độ sôi khác nhau. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng pham vi độ sôi các phân đoạn chỉ là tương đối có thể tahy đổi và phụ thuộc vào yêu càu chất lượng sản phẩm, vào đặc tính dầu thô chưng cất và những tính toán cụ thể của nhà sản xuất nhằm thu được hiệu quả kinh tế cao nhất. Những phân đoạn chủ yếu của chưng cất khí quyển là: - Xăng thô (naphta) từ 40 – 2000C. - Dầu hoả (kerosine) từ 140 – 3000C. - Phân đoạn diesel (gas oil) từ 230 – 500C. - Cặn chưng cất (residue) lớn hơn 3500C. Phân đoạn naphtan còn gọi là xăng chưng cất, có thể dùng pha chế với các loại xăng khác dùng làm xăng thương phẩm. Ngoài ra có thể chưng cất xăng thô thành các phân đoạn có độ sôi hẹp hơn là naphta nhẹ, naphta trung bình, naphta nặng dùng làm nguyên liệu cho các quá trình chế biến sấu. Phân đoạn kerosine (KO) có thể tinh chế dùng làm nhiên liệu phản lực. Ngoài ra cũng có thể dùng kerosin làm khí đốt hay làm nguyên liệu cho các quá trình chế biến sâu khác. BS: Nguyễn Quang Trung 11 Phân đoạn gas oil có thể dùng làm nhiên liệu cho động cơ điêzen (DO), đồng thời có thể dùng làm nguyên liệu cho quá trình chế biến sâu. Phân đoạn cặn chưng cất khí quyển còn gọi là căn mazut (residue) có thể dùng làm nhiên liệu đốt lò (FO) hoặc chuyển vào tháp chưng cất khí quyển – chân không để tách thành các phân đoạn nặng có phạm vi độ sôi khác nhau. 2) Chưng cất khí quyển - chân không. Cặn chưng cất khí quyển được đưa vào tháp chưng cất kkhí quyển - chân không. Tại đây mazut được phân chia thành 3 phân đoạn và phần cặn: - Phân đoạn nhẹ (light fraction) - Phân đoạn trung bình (midle fraction) - Phân đoạn năng (heavy fraction) - Phân đoạn cặn (vacuum residue hay gudron) có độ sôi lớn hơn 5000C. Ba phân đoạn này sử dụng làm nguyên liệu chế biến ba loại dầu nhờn gốc. Phân đoạn chưng cất chân không có thể dùng làm nguyên liệu tách lọc dầu nhờn cặn (bright stock) hay nguyên liệu sản xuất bitum, hoặc làm nguyên liệu cho công nghệ chế biến sâu. Sơ đồ tinh chất khí quyển và chân không được trình bày trong hình 1. Daàu thoâ 7 Khí 2 4 3 Daàu hoaû Gasoil 3 1 8 Mazuùtï Daàu thoâ 6 Xaêng 3 5 Pñ nheï 3 6 3 Pñ trung bình 6 3 Pñ naëng 1 Gudron Hình 2.1 Sô ñoà chöng caát daàu moû 1- Loø oáng; 2 vaø 5-Thaùp tinh caát; 3-Boä phaän laøm laïnh; 4-Boä phaän taùch loûng; 6-Boä phaän trao ñoåi nhieät; 7-Bôm; 8-Coät hoaù hôi 2.1.3. Chế biến sâu dầu mỏ Quá trình chưng cất dầu mỏ trình bày ở trên chủ yếu dựa vào tính chất vật lý là bay hơi và ngưng tụ. Trong quá trình chưng cất không xảy ra các thành phần hydrocacbon có trong dầu, do đó hiệu suất và chất lượng các sản phẩm chưng cất không đáp ứng được yêu cầu sử dụng. Để nâng cao chất lượng cũng như hiệu suất các loại sản phẩm có giá trị kinh tế, cần có những quá trình chế biến sâu. Công nghệ BS: Nguyễn Quang Trung 12 chế biến sâu (chế biến thứ cấp) dầu mỏ bao gồm một số dây chuyền công nghệ chủ yếu là các quá trình chế hoá nhiệt và các quá trình chế biến nhiệt - xúc tác. 1) Các quá trình chế hoá nhiệt a. Cracking nhiệt Dây chuyền cracking nhiệt nhằm phân huỷ các phần cặn của qú trình chưng cất dầu, dưới tác dụng của nhiệt độ cao thích hợp để thu được những sản phẩm sáng màu. Dây chuyền visbreaking nhằm phân huỷ các thành phần của nhiên liệu đốt lò bằng nhiệt độ cao để giảm độ nhớt tới mức phù hợp. Nguyên liệu cúa các phân đoạn này là phần cặn chưng cất: mazut và gudron cũng như các phần cặn của quá trình chế biến sâu khác. Sản phẩm bao gồm: - Hỗn hợp khí bao gồm các hydrocacbon no và không no, được sử dụng làm nguyên liệu hoặc nhiên liệu cho hoá dầu. - Xăng cracking nhiệt có chứa tới 25% hydrocacbon không no, do đó tính ổn định hoá học kém. - Phân đoạn kerosin – gas oil có thể dùng làm nhiên liệu điêzen sau khi làm sạch bằng hyđrô, hoặc dùng làm nhiên liệu đốt lò. - Cặn cracking dùng làm nhiên liệu đốt lò có nhiệt độ cháy cao hơn, nhiệt độ đông đặc và độ nhớt thấp hơn so với mazut chưng cất trực tiếp. b. Cốc hoá Dây chuyền cốc hoá nhằm chế hoá nhiệt các phần dầu nặng, cặn dầu để thu được các loại than cốc và các sản phẩm dầu sáng màu. Nguyên liệu cho quá trình cốc hoá là gudron, các loại gas oil nặng, các loại cặn dầu, các loại nhựa – asphanten của các quy trình chế biến khác. Sản phẩm thu được gồm: - Các loại than cốc có nguồn gốc dầu mỏ dùng làm điện cực cho công nghệ điện luyện kim… - Hỗn hợp khí tương tự khí cracking nhiệt có hàm lượng hydrocacbon không no ít hơn. - Xăng cốc hoá có hàm lượng hydrocacbon không no tới 60%, rất kém ổn định cần qua công đoạn làm sạch bằng hydrocacbon để giảm lượng hydrocacbon không no đó, dùng để pha chế loại xăng thường. - Phân đoạn kerosin – gas oil dùng làm thành phần nhiên liệu điêzen, tuốc bin khí, đốt lò hoặc dùng làm nguyên liệu cracking xúc tác. c. Nhiệt phân (steam cracking) Dây chuyền steam cracking là chế hoá nhiệt trong môi trường hơi nước và nguyên liệu dầu lỏng (phân đoạn naphta hay condensat) hoặc nguyên liệu khí như khí etan, propan, butan hoặc hốn hợp. BS: Nguyễn Quang Trung 13 Sản phảm thu được chủ yếu là hỗn hợp khí có nhiều etylen, propylen làm nguyên liệu cho hoá dầu. Sản phẩm lỏng là xăng nhiệt phân có tính ổn định hoá học kém và những sản phẩm có tính năng sử dụng khác. Nhìn chung các sản phẩm thu được từ các quy trình chế hoá nhiệt cho ra các sản phẩm lỏng sáng màu có chất lượng không cao, ngày nay được sử dụng trong phạm vi hẹp và được thay dần bằng công nghệ nhiệt - xúc tác. Tuy nhiên một số dây chuyền vẩn có ý nghĩa quan trọng như steam cracking để thu olefin nhẹ làm nguyên liệu cho tổng hợp hoá dầu. 2) Các quá trình chế hoá nhiệt - xúc tác. Các quy trình chế hoá dưới tác dụng của nhiệt đơn thuần cho ra các sản phẩm kém giá trị, do đó người ta sáng tạo ra các công nghệ kết hợp nhiệt với xúc tác để nâng cao chất lượng các sản phẩm thu được. Các chất xúc tác được sử dụng có tính chọn lọc cao, thúc đẩy các phản ứng dây chuyền hoá đi theo hướng tạo thành các sản phẩm mong muốn. a. Cracking nhiệt xúc tác. Dây chuyền cracking xúc tác nhằm thu được các sản phẩm dầu sáng màu như xăng và nhiên liệu diezen nhờ phản ứng phân huỷ các phân đoạn nặng của tác dụng của xúc tác là alumino silicat dạng vô định hình hoặc tinh thể zeolit. Nguyên liệu sử dụng là cặn mazut và các phân đoạn gas oil của chưng cất trực tiếp và chế biến sâu. Sản phẩm thu được gồm: - Hỗn hợp khí có chứa tới 80 – 90% hydrocacbon no và không no C3 và C4, được tách lọc thành thành riêng từng phân đoạn thích hợp làm nguyên liệu hoá dầu. - Xăng cracking xúc tác có phạm vi độ sôi từ độ sôi đầu tới 1950C, dùng làm hợp phần cho xăng thương phẩm. Thành phần các nhóm hydrocacbon của xăng cracking xúc tác: hydrocacbon thơm 20 – 30%, hydrocacbon không no 8 - 15%, hydrocacbon naphten7 – 15% và hydrocacbon parafin 45 – 50%. Xăng cracking xúc tác có chất lượng cao hơn hẳn xăng cracking nhiệt. - Phân đoạn gas oil nhẹ (150 – 2800C) dùng làm nhiên liệu hợp phần diesel hoặc tuốc bin khí. - Phân đoạn 280 – 4200C dùng làm nguyên liệu sản xuất cacbon kỹ thuật. - Phân đoạn gas oil nặng sôi trên 4200C dùng làm nhiên liệu đốt lò. b. Reforming xúc tác (platforming). Dây chuyền reforming xúc tác nhằm thu được xăng có chất lượng cao, hỗn hợp hydrocacbon thơm và hydro kỹ thuật nhờ quá trình chuyển hoá xúc tác các phân đoạn naphta của chưng cất hoặc chế biến sâu. Xúc tác sử dụng có thể là hệ đơn kim loại, nhị kim loại hoặc đa kim loại, chủ yếu là bạch kim (Pt) nên có tên là platforming, với chất kích hoạt xúc tác dạng axit là flo hoặc clo. BS: Nguyễn Quang Trung 14 Nguyên liệu dùng cho reforming xúc tác tuỳ thuộc vào nhu cầu sản phẩm nên rất khác nhau: - Để sản xuất xăng dùng phân đoạn naphta rộng (60,900C tới 1800C). - Để sản xuất các hydrocacbon thơm bezen, toluen và xylen dùng các phân đoạn naphta hẹp có phạm vi độ sôi tương ứng là 62 – 85, 85 – 105, 105 – 1400C. - Yêu cầu trong nguyên liệu hàm lượng S không quá 0,0001 – 0,0005% thể tích và hàm lượn N không quá 0,0001%. Sản phẩm thu được bao gồm: - Hỗn hợp khí chứa trong nhiên liệu metan, etan, propan và butan, dùng làm nhiên liệu hoặc được tách lọc thành những hợp phần thích hợp dùng cho tổng hợp hoá dầu. - Reformat là hỗn hợp lỏng có thành phần hydrocacbon thơm 40 – 65%, hydrocacbon parafin và naphten 34 – 60%, còn nhóm hydrocacbon không no rất ít 0,5 – 1,1%. Sản phẩm này có thể dùng làm hợp phần pha chế xăng thương phẩm, gọi là xăng reforming và có tính ổn định hoá học tốt. Cũng do hàm lượng hydrocacbon thơm rất cao nên dùng làm nguyên liệu tách lọc các loại hydrocacbon thơm: bezen, toluen và xylen làm nguyên liệu cho hoá dầu. - Khí hydro kỹ thuật có chứa tới 75 – 85% thể tíc khí hydro nguyên chất, được dùng làm nguồn cung cấp hydro cho các quy trình công nghệ khác như làm sạch bằng hydro, hydrocracking, đồng phân hoá… c. Hyđrocracking. Quy trình hydrocracking nhằm phân huỷ các nguyên liệu nặng thành các sản phẩm dầu sáng màu, dướib tác dụng của xúc tác trong môi trường khí hydro. Dưới ảnh hưởng của hydro các hợp chất chứa S, N, O có trong nguyên liệu được hoàn toàn loại bỏ, các hợp chất không no được no hoá. Do đó sản phẩm hydrocracking hầu như chỉ là các sản phẩm sáng màu có độ sạch và bổn định hoá cao, không có phần cặn dầu. Nguyên liệu cho quy trình hydrocracking khá phong phú, có thể sử dụng từ phần nhẹ naphta đến các phân đoạn nặng trong chưng cất chân không, phân đoạn gas oil của quy trình chế biến sâu, các loại cặn dầu mazut, gudron. Sản phẩm thu được bao gồm: - Hỗn hợp khí chủ yếu là khí hydrocacbon no như propan và butan, dùng làm nguyên liệu cho tổng hợp hoá dầu sau khi xử lý tách lọc. - Naphta hydrocracking có tính ổn định chống oxy hoá tốt, dùng pha chế xăng máy bay. Người ta thường chưng cất naphta này thành hai phân đoạn: xăng nhẹ (sôi đầu tới 850C) dùng pha chế xăng thương phẩm; phần nặng (85 – 1800C) có thể dùng làm nguyên liệu cho quy trình reforming. - Kerosin có tính ổn định tốt dùng làm hợp phần cho nhiên liệu phản lực. - Gas oil dùng làm hợp phần cho nhiên liệu diezen. BS: Nguyễn Quang Trung 15 d. Đồng phân hoá Quy trình đồng phân hoá nhằm thu nhiều loại sản phẩm, trong đó có loại xăng đồng phân có chất lượng cao. Để sản xuất xăng có chất lượng cao, người ta dùng nguyên liệu là xăng chưng cất nhẹ (từ độ sôi 62 – 700C) có nhiều hợp chất hydrocacbon mạch thẳng. Nhờ tác dụng chuyển hoá xúc tác sẽ hình thành nhiều hydrocacbon mạch nhánh nên tăng thêm chất lượng cho quá trình cháy. Xúc tác sử dụng trong quá trình cháy là alumino silicat tổng hợp ở dạng zeloit. 2.1.3. Chế biến khí Công nghệ chế biến khí dầu mỏ (khí thiên nhiên, khí đồng hành, khí thu được khi chưng cất dầu và các quá trình chế biến khác) phát triển rất nhanh do có nhiều thuận lợi, đỡ phức tạp về kỹ thuật lại rẻ tiền hơn so với chế biến các phần dầu nặng nhiều tạp chất. Ngành công nghiệp này rất đa dạng và phong phú. Sau đây chỉ xem xét một số dây chuyền công nghệ có liên quan tới việc chế biến dầu mỏ thành nhiên liệu, chủ yếu là các loại xăng. 1) Làm sạch khí Các hỗn hợp khí hydrocacbon trước khi đi vào chế biến phải được làm sạch rất cẩn thận nhằm loại bỏ các chất độc như hydro sunfua (H2S), hợp chất mercaptan nhẹ (RHS), khí cacbonic (CO2). Quy trình làm sạch có nhiều kỹ thuật khác nhau: a. Làm sạch bằng hoá chất, nghĩa là thực hiện một phản ứng hoá học giữa chất cần loại bỏ ở thể khí và một hoá chất thích hợp ở thể lỏng hoặc thể rắn b. Làm sạch bằng phương pháp hấp phụ các chất khí cần loại bỏ bằng chất hấp phụ thể rắn như than hoạt tính, zeoit… Sau quá trình làm sạch tuỳ thuộc kỹ thuật làm sạch có thể loại bỏ 85 – 99% các tạp chất khí lẫn vào hỗn hợp khí hydrocacbon. 2) Làm khô khí Ngoài việc loại bỏ các khí tạp chất như trên, yêu cầu hỗn hợp khí phải thật khô. Kỹ thuật làm khô khí phân thành các nhóm: a. Hấp phụ nước bằng các chất hút ẩm thể rắn như silicagen, nhôm oxit hoạt tính, zeolit NaA. b. Hấp phụ nước bằng hút ẩm thể lỏng như dietylenglycol, trietylenglycol… c. Ngưng tụ hơi nước hoặc đóng băng tạo tinh thể nước đá bằng kỹ thuật nén hoặc làm lạnh. 3) Chưng cất khí Quy trình chưng cất khí nhằm thu được các khí hydrocacbon nguyên chất riêng biệt hoặc các phân đoạn khí có độ sạch cao. Nguyên liệu đưa vào các thiết bị chưng cất khí chia thành hai nhóm: BS: Nguyễn Quang Trung 16 a. Nhóm hydrocacbon no bao gồm khí thiên nhiên, khí đồng hành, khí chưng cất dầu thô ở áp suất khí quyển, khí reforming xúc tác và khí Hyđrôcracking. b.Nhóm hydrocacbon không no bao gồm khí cracking nhiệt, cracking xúc tác, khí lò cốc hoá, khi steam cracking. Sản phẩm thu được từ các thiết bị chưng cất khí này rất đa dạng và là nguồn nguyên liệu không thể thiếu được cho các quy trình sản xuất xăng tổng hợp và chế biến hoá dầu. Sản phẩm từ thiết bị chưng cất hydrocacbon no: Khí etan dùng làm nguyên liệu steam cracking thu các olefin nhẹ như etylen, propylen cho tổng hợp hoá dầu. Khí propan dùng làm nguyên liệu steam cracking, làm LPG, tác nhân làm lạnh. Khí butan dùng làm LPG, nguyên liệu sản xuất cao su tổng hợp. Tại các nước có khí hậu lạnh có pha một phần butan vào xăng nhằm tăng áp suất hơi. Khí isobutan dùng làm nguyên liệu sản xuất xăng alkylat và cao su tổng hợp. Khí isopentan dùng làm nguyên liệu chế biến cao su isopren, đồng thời có thể pha vào xăng nhằm tăng khả năng cháy trong động cơ. Sản phẩm từ thiết bị chưng cất hydrocacbon không no: Khí etylen có độ sạch cao làm nguyên liệu cho chế biến hoá dầu. Phân đoạn propan – Propylen là hỗn hợp khí propan và propylen (PPF) dùng làm nguyên liệu chế biến xăng polyme, xăng alkylat và các chế phẩm hoá dầu khác. Phân đoạn butan – butylen là hỗn hợp khí butan và butylen (BBF) dùng làm nguyên liệu sản xuất xăng polyme xăng alkylat và các chế phẩm hoá dầu khác. 4) Chế biến khí thành các loại xăng Để thu các loại xăng có chất lượng cao, ngoài quy trình reforming xúc tác, ta còn có thể sử dụng các công nghệ chế biến khác như alkyl hoá, đồng phân hoá, polyme hoá. a. alkyl hoá là quy trình thực hiện phản ứng tổng hợp giữa isobutan với các phân đoạn PPF hoặc BBF dưới tác dụng của xúc tác nhằm thu được xăng alkylat có chất lượng cao. Chất xúc tác sử dụng trong công nghệ này là axit sunfuric (H2SO4) 96÷98%, với kỹ thuật tiến bộ hơn dùng xúc tác là axit flohydric (HF). Sản phẩm thu được gồm: - Alkylat nhẹ dùng làm hợp phần pha chế xăng có chất lượng cao. - Alkylat nặng (sôi 170 – 3000C) dùng làm nhiên liệu diezen. - Hỗn hợp khí chủ yếu là khí hydrocacbon no dùng làm nhiên liệu. BS: Nguyễn Quang Trung 17 b. Polyme hoá là quy trình thực hiện phản ứng tổng hợp giữa PPF và BBF dưới tác dụng của xúc tác nhằm thu được xăng polyme hoặc nguyên liệu dùng trong chế biến hoá dầu. Xúc tác sử dụng là axit ortho phosphoric (H3PO4) trên chất mang hoặc axit sunfuric 60 – 70%. Khi tiến hành polyme hoá theo hướng thu nhiên liệu, có các sản phẩm: - Xăng polyme tuy có khả năng cháy tốt, nhưng chứa nhiều hợp chất không no nên tính ổn định thấp. - Phân đoạn sôi trên 2050C làm nhiên liệu diezen. - Phân đoạn propan - propylen (PPF) hình thành trong quá trình chế biến, lại được hồi lưu dùng tiếp làm nguyên liệu. 2.2. NHIÊN LIỆU LỎNG 2.2.1. Nhiên liệu xăng 2.2.1.1. Yêu cầu đối với nhiên liệu sử dụng trong động cơ xăng. - Nhiên liệu có tính bay hơi tốt tạo điều kiện cho hòa khí hình thành được hòa trộn tốt trong thời gian ngắn và cháy kiệt không tạo muội than. - Có tính chống kích nổ cao để tránh các hậu quả do hiện tượng này gây ra. - Có tính ổn định hoá học tốt - Không bị đông đặc khi nhiệt độ hạ thấp. 2.2.1.2. Thành phần hoá học của xăng 1) Hydrocacbon Với khoảng nhiệt độ sôi dưới 180oC, phân đoạn xăng thu được từ quá trình chưng cất bao gồm các hydrocacbon từ C5 ÷ C10, C11. Cả ba loại hydrocacbon prarafinic, naphtenic, aromic đều có mặt trong phân đoạn này. Tuy nhiên thành phần và số lượng của các hydrocacbon rất khác nhau, phụ thuộc vào nguồn gốc dầu thô ban đầu. Các hydrocacbon thơm thường có rất ít trong xăng. a) Ankan: Cần có nhiều iso-ankan để chống kích nổ vì loại hydrocacbon này có tác dụng chống kích nổ rất cao. Iso-ankan là chất đồng phân của ankan, có cấu tạo mạch nhánh, rất khó bị gãy mạch, tức rất khó tự cháy. Người ta dùng 2,2,4 isooctan làm một trong hai thành phần của nhiên liệu chuẩn để đo tính chống kích nổ của các loại xăng. Akan tuy tính chất ổn định, khó biến chất nhưng không phải là thành phần lý tưởng của nhiên liệu xăng, do các nguyên tử C được liên kết theo mạch thẳng nên các mạch C dễ bị gãy, làm cho nó dễ bị cháy, dễ gây hiện tượng kích nổ trong động cơ. CH3 – CH2 – CH2 – CH2 – CH2 – CH2 – CH2 – CH3 (n-octan) BS: Nguyễn Quang Trung 18 b) Xyclo-ankan: là loại Hydrocacbon no, thường có 5,6 nguyên tử C trong phân tử, chúng được liên kết với nhau bằng các mạch thẳng đơn tạo nên một vòng kín. c) Hydrocacbon thơm (aren): là loại hydrocacbon không no, các nguyên tử nối với nhau thành một vòng kín bằng những liên kết đôi và những liên kết đơn xen kẻ nhau, cấu tạo điển hình là chất benzen và metylbenzen. Kết cấu trên giúp cho hydrocacbon thơm có tính ổn định cao, khó tự cháy và là thành phần lý tưởng của xăng dùng trong động cơ đốt cháy cưỡng bức. Ngoài ra các olefin, diolefin và axetylen là những hydrocacbon không no, các nguyên tử C nối với nhau theo mạch thẳng, trong đó có một mạch kép, hai mạch kép hoặc một mạch ba. Do đó khiến các chất này khó tự cháy, nên cũng thích hợp với động cơ xăng đốt cháy cưỡng bức. 2) Phụ gia Để nâng cao chất lượng và tạo thêm một số tính năng mới cho xăng thì sau quá trình chưng cất và chế biến từ dầu mỏ, xăng được pha vào các loại phụ gia. Hai loại phụ gia điển hình là nước chì và hợp chất chứa oxi. a. Hàm lượng chì: Trong quá trình cháy của hơi xăng trong buồng đốt có sự tạo thành và tích tụ các hợp chất peoxit. Những chất peoxit này là nguyên nhân dẫn tới kích nổ khi nồng độ của chúng đạt tới một giới hạn nào đó. Để tránh hiện tượng kích nổ người ta phải ngăn chặn sự tích tụ của các hợp chất peoxit đó. Một trong các biện pháp có hiệu quả rõ rệt là pha vào xăng một hỗn hợp có tên là “nước chì”. Nước chì là tên gọi đơn giản hỗn hợp lỏng có thành phần là hợp chất tetraetyl chì [Pb(C2H5)4] và bromua etan (BrC2H5) hoặc Dibromua etan (BrC2H4Br). Tác dụng của tetraetyl chì (TEC) là phá huỷ các hợp chất peoxit và ngăn cản sự tích lũy của chúng trong xilanh, do đó tránh được hiện tượng kích nổ. Như vậy tetraetyl chì có tác dụng tăng TSOT của xăng,. Bromua etan hoặc dibromua etan được gọi là chất lôi kéo vì chúng giúp cho muội chì sau quá trình cháy không đọng lại trong xilanh, piston, bugi, xupáp… mà theo khí xả ra ngoài. o tC Pb(C3 H 4 ) 4 ⎯⎯→ Pb + 4CH 3 o tC Pb + O2 ⎯⎯→ PbO2 Tạo chất không hoạt động R − CH 3 + O2 → R − CH 2OOH (Chất hoạt động) 1 R − CH 2OOH + PbO2 → R − CHO + PbO + H 2O + O2 2 BS: Nguyễn Quang Trung 19 Kết quả là biến các Peroxyt hoạt động thành các aldehit (RCHO) bền vững, làm giảm khả năng cháy kích nổ. Nhưng đồng thời PbO kết tủa sẽ bám trên thành xilanh, ống dẫn, làm tắc đường nhiên liệu và tăng độ mài mòn. Vì vậy người ta phải dùng các chất mang để đưa PbO ra ngoài, các chất mang này là BrC2H5, cơ chế tác dụng như sau: o tC C2 H 5 Br ⎯⎯→ C2 H 4 + HBr 2 HBr + PbO ⎯ ⎯→ PbBr2 + H 2O Các sản phẩm PbBr2, H2O là chất lỏng, có nhiệt độ sôi thấp sẽ bốc hơi và được khí thải thải ra ngoài. Nước chì có tác dụng tăng tính chống kích nổ rõ rệt, song nó là một chất độc gây tổn thương cho hệ thần kinh đối với người bị nhiễm. Vì thế nồng độ giới hạn của bụi chì trong không khí không cho phép vượt quá 0,005mg/cm3. Cũng do tác hại gây ô nhiễm cho môi trường không khí nên trong vòng 20 – 30 năm trở lại đây nhiều nước trên thế giới và trong khu vực trong đó có Việt Nam đã dần dần hạn chế và đi đến cấm sử dụng xăng pha chì. b. Các hợp chất chứa ôxy: Từ đầu thập kỷ 70, tại các nước công nghiệp phát triển do yêu cầu loại bỏ xăng pha chì, người ta đã phát kiến pha vào xăng một số hợp chất chứa oxy có tác dụng tăng TSOT cho xăng, đó là các loại alcol, ete như metanol (CH3OH), etanol (C2H5OH), metyl ter. butyl ete (CH3 – O – C4H9) viết tắt là MTBE, metyl ter. amyl ete (CH3 – O – C5H11) viết tắt MTAE… Những hợp chất này cũng tham gia vào cơ chế ngăn cản sự tích tụ peroxit, nên hạn chế hiện tượng cháy kích nổ trong động cơ xăng, chúng không quá độc như tetraetyl chì. Tuy vậy việc sử dụng các hợp chất trên cũng có hạn chế vì nhiệt lượng cháy của chúng thấp, áp suất hơi bảo hoà quá cao, một số chất dễ gây tách lớp trong xăng khi bị lẫn nước. Do đó chỉ được pha một lượng có giới hạn vào trong xăng. Có thể thấy TSOT của một số chất chứa oxy điển hình trong bảng 2.1 Bảng 2.1. TSOT của các hợp chất chứa oxy Phụ gia chứa oxy RON MON Metanol 127 ÷ 136 99 ÷ 104 Etanol 120 ÷ 135 100 ÷ 106 Tert – butanol (TBA) 104 ÷ 110 90 ÷ 98 Metanol/TBA (50/50) 115 ÷ 123 96 ÷ 104 Metyl ter. butyl ete (MTBE) 115 ÷ 123 98 ÷ 105 Tert-amylmetyl ete (TAME) 111 ÷ 116 98 ÷ 103 Ety tert-butyl ete (ETBE) 110 ÷ 119 95 ÷ 104 Ngoài ra trong nhiên liệu xăng luôn tồn tại các tạp chất như các hợp chất của lưu huỳnh, nitơ và hợp chất của các kim loại là những chất có có mặt trong dầu mỏ mà không thể loại bỏ hoàn toàn trong quá trình chế biến xăng. BS: Nguyễn Quang Trung 20 2.2.2.3. Phân loại nhiên liệu xăng Xăng có nhiều công dụng như làm nhiên liệu, làm dung môi hòa tan, …Với công dụng làm nhiên liệu thì căn cứ vào loại động cơ sử dụng phân thành hai loại: xăng ô tô và xăng máy bay. Xăng máy bay là loại xăng cao cấp, không thể lấy từ một loại xăng thuần nhất mà thường là hỗn hợp của một số thành phần đặc biệt nhằm thu được xăng có phẩm chất tốt. Xăng ô tô là loại nhiên liệu sử dụng cho các phương tiện giao thông như các loại ô tô, mô tô, … hoặc động cơ máy tĩnh tại cở nhỏ. Căn cư vào trị số ốc tan xăng ô tô được phân loại như sau: 1) Thị trường thế giới Xăng ô tô xe gắn máy được phân làm 3 loại: Xăng thường, xăng cao cấp và xăng đặc biệt. a) Xăng thường là loại xăng là loại xăng có RON từ 92 trở xuống và được sử dụng cho các động cơ xe ô tô tải, xe gắn máy có tỷ số nén từ 7 ÷ 8,5. Loại xăng thường này cũng có thể phân thành hai nhóm xăng được sản xuất theo tiêu chuẫn khác nhau của từng nước, từng khu vực. - Xăng thường có RON = 90 ÷ 92 được sản xuất chủ yếu từ đầu thập niên 70 trở lại đây tại các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Canada, Tây âu (Pháp, Đức, Anh, Hà Lan, Bỉ, …) và Nhật Bản nhằm thay thế cho loại xăng thường có TSOT thấp hơn (RON = 80÷ 86). - Xăng thường có RON = 80 ÷ 86 hiện được sản xuất và sử dụng tại cộng đồng các quốc gia độc lập SNG (Liên xô cũ), các nước Đông âu (Ba lan, Hungary, Rumani, Bungari, …), ở các nước Châu Á (như Trung Quốc, Singaopre, Thái Lan, Ấn Độ, Đài Loan, Malaisia, Inđônesia, Philippine), các nước Mỹ Latin và Úc. Ở nước ta cũng sử dụng loại xăng thường có RON = 80 ÷ 86 . Trước những năm 70, Mỹ và Tây âu cũng đồng loạt sản xuất các loại xăng này, nhưng đã đình chỉ và chuyển sang sản xuất loại xăng tiêu chuẩn hơn RON = 90 ÷ 92 và vẩn được gọi là xăng thường. b) Xăng cao cấp (super) là loại xăng có RON = 93 ÷ 100 được sử dụng thích hợp cho các loại xe máy và ô tô du lịch đời mới có tỷ số nén từ 8,8 ÷ 10, tuỳ thuộc khu vực và được chia thành hai nhóm: - Xăng cao cấp có RON = 98 ÷ 100 được sản xuất ở các nước công nghiệp phát triển chủ yếu những năm 70 trở lại đây. - Xăng cao cấp Ron = 93 ÷ 98 hiện đang sản xuất SNG (Liên xô cũ), các nước Đông âu (Ba lan, Hungary, Rumani, Bungari, …), ở các nước Châu Á (như Trung Quốc, Singaopre, Thái Lan, Ấn Độ, Đài Loan, Malaisia, Inđônesia, Philippine), các nước Mỹ Latin và Úc. Các nước công nghiệp trước đây cũng sản xuất loại xăng này, sau thập niên 70 chuyển sang sản xuất loại xăng RON = 98 ÷ 100. Tuy vậy xăng RON = 93 ÷ 98 vẩn được gọi là xăng cao cấp. c) Xăng thượng hạng là loại xăng mà phẩm chất cao hơn xăng cao cấp, như xăng thượng hạng của Mỹ, Xăng 5 sao của Anh. Xăng này có RON = 101 ÷ 103 dùng cho các loại xe có tỷ số nén trên 10. BS: Nguyễn Quang Trung 21 Từ đó ta thấy xăng của các nước công nghiệp phát triển có chất lượng cao hơn thị trường SNG, Châu Á, Châu Phi và Mỹ latin một cấp. Ở nước ta có tiêu chuẩn xăng dặc biệt nhưng RON chỉ đạt tới 95. 2) Thị trường Việt Nam a ) Xăng thường: có TSOT xác định theo phương pháp nghiên cứu không nhỏ hơn 83 gọi là xăng chì 83. b) Xăng chất lượng cao: có TSOT theo phương pháp nghiên cứu không nhỏ hơn 92, gọi là xăng 92. c) Xăng đặc biệt: có TSOT theo phương pháp nghiên cứu không nhỏ hơn 97, gọi là xăng 97. 2.2.1.4. Những tính chất cơ bản của nhiên liệu xăng a) Nhiệt trị. Như các loại nhiên liệu khác thì nhiệt trị là tính chất quan trọng nhất của nhiên liệu xăng, nó ảnh hưởng trực tiếp công suất của động cơ. Nhiệt trị có thể xác định trực tiếp bằng phương pháp đo nhiệt trị, hoặc có thể tính gián tiếp bằng công thức Men-đê-lê-ép: Qtk = 33,915.c + 126,0.h -10,89(onl – s) - 2,512(9h+w), MJ/kg Trong đó: 2,512MJ/kg – nhiệt ẩn của 1kg hơi nước; c – thành phần khối lượng của C trong nhiên liệu; onl – thành phần khối lượng của O trong nhiên liệu; h – thành phần khối lượng của H trong nhiên liệu; w – thành phần khối lượng của nước trong nhiên liệu; s – thành phần khối lượng của lưu huỳnh trong nhiên liệu. So với các loại nhiên liệu khác thì xăng là loại nhiên liệu có nhiệt trị lớn nhất: Qtk = 44,0 (MJ/Kg) b) Tính bay hơi Yêu cầu xăng phải có tính bay hơi thích hợp, nếu xăng bay hơi quá dễ sẽ hoá hơi ngay trên đường ống dẫn, gây hiện tượng nút hơi (nghẽn khí), làm xăng phun ra lẫn bọt, không đảm bảo hơi xăng cung cấp cho động cơ nên động cơ hoạt động không ổn định. Trong bảo quản, bơm hút, vận chuyển sẽ xảy ra hao hụt quá mức. Xăng bay hơi kém, làm khó khởi động máy, khó điều chỉnh máy, gây lãng phí nhiên liệu do cháy không hết, tạo muội than, làm loãng dầu nhờn gây hiện tượng mài mòn động cơ nhiều hơn mức bình thường. BS: Nguyễn Quang Trung 22 3 4 5 2 1 Hình 2.2. Thiết bị chưng cất nhiên liệu 1. Bếp điện; 2. Nhiên liệu thử nghiệm; 3. Nhiệt kế; 4. Bình ngưng; 5. Bình đo. o Tsoâ i cuoái 195 o Nhieät ñoä C Người ta dùng thiết bị chưng cất nhiên liệu như hình vẽ để đo tính bay hơi của xăng (cũng như các nhiên liệu khác). 100 50 o Tsoâ i ñaàu 20 40 60 80 100% Saûn phaåm Hình 2.3. Đường cong chưng cất Engler của phân đoạn xăng cracking xúc tác Tính bay hơi của xăng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau: Thành phần điểm sôi: Chỉ tiêu này được xác định trong dụng cụ chưng cất đã được tiêu chuẩn hoá. Đối với xăng cần xác định các thành phần điểm sôi như sau: + Điểm sôi đầu (tsđ hay IBP): đặc trưng cho tính khởi động của động cơ, khả năng gây nghẽn hơi và hao hụt tự nhiên. Điểm sôi đầu thấp hơn qui định càng nhiều thì xăng càng dễ hao hụt, sẽ sinh nghẽn khí. + Điểm sôi 10% V đặc trưng cho tính khởi động của động cơ, khả năng gây nghẽn hơi và hao hụt tự nhiên. Điểm sôi 10% cao hơn qui định càng nhiều, càng khó khởi động máy. Đối với ôtô, việc khởi động máy có liên quan tới nhiệt độ không khí và t10%V theo công thức kinh nghiệm sau: tmin = ½.t10%V –50,5 Trong đó: - tmin : Nhiệt độ tối thiểu của không khí, ở đó máy có thể khởi động được. BS: Nguyễn Quang Trung 23 - t10%V : Điểm sôi 10%V + Điểm sôi 50% V: biểu thị khả năng thay đổi tốc độ của máy. Nếu điểm sôi 50%V cao quá qui định, khi tăng tốc lượng hơi xăng vào máy nhiều nhưng đốt cháy không kịp do khó bốc hơi, do đó máy yếu, điều khiển máy khó khăn. + Điểm sôi 90% V: biểu thị độ bay hơi hoàn toàn của xăng. Nếu điểm sôi này lớn quá qui định, xăng khó bay hơi hoàn toàn, làm pha loãng dầu nhờn, làm máy dễ bị mài mòn cũng như lãng phí nhiên liệu. + Điểm sôi cuối: biểu thị độ bay hơi hoàn toàn của xăng. Nếu điểm sôi này lớn quá qui định, xăng khó bay hơi hoàn toàn, làm pha loãng dầu nhờn, làm máy dễ bị mài mòn cũng như lãng phí nhiên liệu. Trên cơ sở ý nghĩa thành phần điểm sôi cho thấy các loại xăng phải có độ bay hơi thích hợp. Theo quy định điểm sôi không dưới 35 ÷ 400C. Để có thể dễ dàng khởi động khi động cơ còn nguội yêu cầu 60 ÷ 70oC xăng phải bay hơi được 10%V. Để dễ dàng tăng tốc, đưa động cơ vào chế độ làm việc ổn định yêu cầu ở 115÷1200C phải bay hơi được 50%V. Để xăng cháy hết hoàn toàn trong động cơ, yêu cầu ở 180 ÷ 1900C xăng phải bay hơi được 90%V và ở 195 ÷ 2000C phải bay hơi hoàn toàn. Nếu đối với một loại xăng thương phẩm, kiểm tra chất lượng ban đầu cho thấy thành phần cất đạt tiêu chuẩn quy định nhưng sau một thời gian vận chuyển, bơm hút bảo quản, kiểm tra thấy thành phần điểm sôi cao vượt quy định, có thể suy đoạn là do một thành nhẹ đã bay hơi hoặc do các hợp phần nhẹ như dầu hoả, nhiên liệu diesel đã lẫn vào. Khi đó nếu tiếp tục dùng xăng này chạy máy sẽ gây nhiều tác hại như đã trình bày ở trên. Áp suất hơi bão hoà Reid: là áp suất hơi xăng ở trạng thái cân bằng với thể lỏng trong bơm Reid (xem hình vẽ chương 3) được đo tại nhiệt độ xác định là 37,8oC (hay 100oF). Áp suất hơi bảo hoà Reid có thể biểu diễn bằng nhiều đơn vị đo ấp suất khác nhau như: Psi, Bar, kPa, mmHg, Kg/cm2… Áp suất hơi bảo hoà Reid là một trong các chỉ tiêu về tính bay hơi của các loại xăng. Dựa vào áp suất hơi bảo hoà Reid có thể đánh giá nhiên liệu về tính khởi động, khả năng tạo nút hơi, hao hụt do bay hơi trong bảo quản và mức độ nguy hiểm do cháy. Áp suất hơi bảo hoà Reid càng cao thì khả năng bay hơi càng mạnh. Yêu cầu của các loại xăng là áp suất hơi bảo hoà Reid phù hợp không quá cao và quá thấp. Khối lượng riêng và tỷ trọng: Khối lượng riêng (Density) là khối lượng của một đơn vị thể tích đo bằng g/cm hay kg/m3. 3 Tỷ trọng (Relative Density) là tỷ số giữa khối lượng riêng của một chất ở nhiệt độ nào đó so với khối lượng riêng của nước ở 40C, ký hiệu là dt/4 (trong đó t (0C) là nhiệt độ xác định tỷ trọng). Thông thường dùng tỷ trong tiêu chuẩn ở 200C ký hiệu BS: Nguyễn Quang Trung 24 là d20/4 hoặc tỷ trọng tiêu chuẩn ở 150C ký hiệu là d15/4. Ở Anh, Mỹ và một số nước lại dùng tỷ trọng ở 600F (tương ứng 15,60C), ký hiệu d60F/4. Có nhiều tiêu chuẩn để xác định tỷ trọng. Để suy tỷ trọng từ các nhiệt độ khác nhau về tỷ trọng tiêu chuẩn có công thức tính hoặc sử dụng bảng chuyển đổi: d20/4 =dt/4 +γ(t – 20) Trong đó: t - Nhiệt độ bất kỳ. γ - Hệ số điều chỉnh tỷ trọng. Mối quan hệ giữa tính bay hơi của xăng và tính năng hoạt động của động cơ: +Tính năng khởi động: Khi bật tia lửa điện, hoà khí dễ bén nhất ở tỷ lệ hoà trộn m = 12:1 ÷ 13:1. Khi khởi động tốc độ động cơ rất chậm, không khí và xăng hoà trộn không tốt, nhiệt độ thành ống nạp, xilanh, piston, v.v… rất thấp, do đó chỉ có khoảng 1/5 ÷ 1/10 xăng được bốc hơi. Nếu bộ chế hoà khí đã được điều chỉnh ở thành phần hoà khí tốt nhất, thì hoà khí thực tế vào động cơ sẽ rất nhạt (đặc biệt khi trời lạnh), rất khó bén lửa để khởi động. Vì vậy phải đóng bướm gió để cung cấp hoà khí có thành phần m ≈ 1:1, làm cho hoà khí thực tế vào xilanh có giá trị thực tế sát với hoà khí tốt nhất. Lúc ấy chỉ cần 8% xăng phun vào bay hơi được là đủ. Trên đường cong chưng cất, tương ứng với 10% nhiên liệu bay hơi (điểm 10%), nếu nhiệt độ càng thấp thì động cơ càng dễ khởi động lạnh. Do điểm 10% được coi là chỉ tiêu khởi động của nhiên liệu xăng. + Nút hơi: Nhiên liệu có điểm 10% càng thấp, càng dễ hình thành bọt hơi tạo ra nút hơi trên đường từ thùng chứa đến bộ chế hoà khí vào lúc trời nóng, khiến lưu động của đường xăng thiếu linh hoạt, có thể làm gây tắc bơm xăng làm cho động cơ chạy không ổn định, thậm chí chế máy không thể khởi động lại được. Do đó điểm 10% không thể quá thấp, trong quy phạm về xăng thường quy định áp suất bảo hoà của xăng thường không quá 500mmHg. Tất nhiên nếu thiết kế đường xăng hợp lý, tăng cường năng lực hoạt động của bơm xăng và có biện pháp cách nhiệt có thể làm tăng khả năng tránh nút hơi. + Chạy ấm máy: Sau khi khởi động, cần cho động cơ chạy chậm đợi máy ấm dần, để nhiên liệu lỏng còn động trên thành ống được bay hơi, sau đó mới có thể tăng tải dần cho động cơ. Thời gian từ lúc khởi động đến lúc tăng tải gọi là thời gian chạy ấm máy. Thí nghiệm chỉ rằng xăng có điểm 20% ÷ 50% càng thấp thì thời gian chạy ấm máy càng ngắn và tính cơ động của động cơ càng tốt. + Tính tăng tốc: Lúc mở bướm ga đột ngột làm động cơ tăng tốc, mặc dù cả nhiên liệu và không khí đi vào không gian chế hoà khí đều tăng nhưng một phần xăng chưa kịp bay hơi đọng lại trên thành ống làm cho hoà khí thực tế đi vào xilanh động cơ trở nên loãng, gây ảnh hưởng tới tính tăng tốc của động cơ. Nhìn chung muốn cho động cơ dễ tăng tốc cần dùng loại xăng có điểm 35 ÷ 65% tương đối BS: Nguyễn Quang Trung 25 thấp. Thông thường người ta lấy điểm 50% làm tiêu chuẩn đánh giá tính tăng tốc của xăng. + Phân phối: Thực nghiệm chỉ ra rằng: khoảng 1/2 lượng xăng kịp bay hơi trên đường nạp đảm bảo nhiên liệu phân phối đều vào các xilanh. Do đó điểm 50% có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng phân phối xăng vào các xilanh. + Muốn có chất lượng cháy tốt trong động cơ xăng cần đảm bảo cho xăng kịp bay hơi hết trước khi bật tia lửa điện. Do đó điểm hoá sương mù của hoà khí phải rất thấp. Điểm sương mù lại phụ thuộc vào điểm 90%. Nếu điểm 90% cao quá sẽ làm cho nhiên liệu cháy không kiệt, tạo khói đen, trong buồng cháy có nhiều muội than. Nếu điểm 90% thấp quá sẽ làm cho hoà khí vào xilanh quá "khô", gây giảm hệ số nạp, giảm công suất và làm tăng khuynh hướng kích nổ. + Gây loãng dầu nhờn cacte: Nếu tính bay hơi chung của xăng không tốt và nếu điểm sương mù của hoà khí quá cao, xăng có thể ngưng đọng trên thành xilanh và lọt xuống cacte làm loãng và phá hỏng dầu nhờn. + Lượng khí nạp: Nếu nhiệt độ đường nạp thấp, sẽ làm tăng mật độ khí nạp. Do đó tính bay hơi của nhiên liệu càng tốt (lúc ấy do nhiệt ẩn của nhiên liệu bay hơi gây ra sẽ làm giảm càng nhiều nhiệt độ và tăng càng nhiều lượng khí nạp vào xilanh). c) Tính chống kích nổ Hiện tượng cháy kích nổ: Trong động cơ xăng hoà khí được hình thành bên ngoài trước khi được đưa vào buồng cháy nên hoà khí là tương đối đồng nhất. Trong xylanh hoà khí bị nén tới một thời điểm thích hợp thì nến điện (bugi) đánh lửa, tại thời điểm đó hỗn hợp hơi xăng bắt cháy rất nhanh. Thể tích khí cháy trong xylanh tăng lên đẩy piston xuống, còn khí thải theo cửa xả ra ngoài. Như vậy quá trình cháy của hơi xăng trong buồng đốt của động cơ xăng là một quá trình cháy cưỡng bức, thực hiện được là nhờ tia lửa điện của bugi. Quá trình cháy như vậy diễn ra rất nhanh, nhưng không phải xảy ra tức khắc trong toàn bộ thể tích xylanh, mà bắt đầu cháy từ bugi sau đó cháy lan dần ra toàn bộ thể tích xylanh, lúc đó chu trình cháy kết thúc. Tốc độ lan truyền của mặt cầu lửa bình thường là 20 ÷ 25 m/s. Với tốc độ lan truyền của mặt cầu lửa như vậy, áp suất hơi trong xylanh tăng đều đặn, động cơ hoạt động bình thường. Vì một lý do khách quan nào đó như dùng xăng không đúng chất lượng yêu cầu hoặc cấu tạo động cơ không được chuẩn xác hoặc điều kiện làm việc của động cơ không thuận lợi (góc đánh lửa đặt sớm, thành phần hỗn hợp khí thay đổi, áp suất, nhiệt độ máy cao…) sẽ tạo điều kiện cháy không bình thường trong động cơ. Khi đó sẽ xuất hiện cháy kích nổ, tức là tại một điểm nào đó trong xylanh dù mặt cầu lửa chưa lan tới, hoà khí đã bốc cháy đột ngột với tốc độ cháy lan truyền nhanh gấp trăm lần cháy bình thường. Tốc độ cháy truyền lan khi kích nổ lên tới 1.500÷2.500m/s. Áp suất trong xylanh vọt tăng tới 160 kG/cm2. Chính sự tăng áp BS: Nguyễn Quang Trung 26
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan