Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nhiên liệu sinh học nguồn năng lượng tái tạo trong tương lai...

Tài liệu Nhiên liệu sinh học nguồn năng lượng tái tạo trong tương lai

.PDF
108
104
91

Mô tả:

ĐỀ TÀI Nhiên liệu sinh học nguồn năng lượng tái tạo trong tương lai MỞ ĐẦU............................................................................................. 3 I. VÀI NÉT TỔNG QUÁT VỀ MỘT SỐ NGUỒN NĂNG LƯỢNG... 5 II. NHIÊN LIỆU HÓA THẠCH - SƠ LƯỢC TÌNH HÌNH KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG ........................................................................ 8 III. VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG ................................ 19 IV. NHIÊN LIỆU SINH HỌC (BIOFUEL) - CÔNG NGHỆ VÀ ỨNG DỤNG................................................................................................ 24 V. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN NHIÊN LIỆU SINH HỌC (BIOFUEL)....................................................................................... 70 KẾT LUẬN..................................................................................... 106 MỞ ĐẦU Theo tờ Newsweek, nhằm đối phó với giá dầu mỏ không ngừng tăng, nhiều nước trên thế giới đề ra biện pháp khẩn cấp nhằm khuyến khích phát triển các nguồn nhiên liệu thay thế, trong đó sản xuất nhiên liệu sinh học được nhiều nước lựa chọn vì lợi ích lớn về kinh tế và môi trường. Braxin đang là nước đi đầu về sản xuất nhiên liệu sinh học (biofuel). Ngoài Braxin, rất nhiều nước khác trên thế giới cũng lựa chọn con đường sản xuất biofuel để giảm ngân sách dành cho nhập khẩu dầu mỏ. Ở châu Á, Thái Lan đang xây dựng hơn một chục nhà máy sản xuất etanol từ mía và trấu. Là nước sản xuất etanol lớn thứ ba thế giới, Trung Quốc đang xây dựng các nhà máy sản xuất etanol sinh học lớn nhất thế giới từ ngô và đang sản xuất thí điểm biofuel từ sắn, mía và khoai tây. Liên hiệp châu Âu (EU) đặt mục tiêu tăng tỷ lệ nhiên liệu xanh lên 6% vào năm 2015. Nhằm mục tiêu nói trên, EU trợ cấp 45 euro cho nông dân đối với mỗi ha trồng các loại cây nhiên liệu. Với sản lượng etanol sản xuất một năm hơn 20 tỷ lít, Mỹ trở thành nước sản xuất etanol lớn thứ hai thế giới sau Braxin. Tại gần 30 nước khác, từ Ấn Độ, Indonesia, Malaysia đến Ghana Malawi… diện tích trồng các loại cây nhiên liệu như cọ dầu, đậu tương, dừa để sản xuất biofuel ngày càng tăng. Ngày càng nhiều chính phủ trên khắp thế giới yêu cầu sử dụng biofuel pha trộn với các loại nhiên liệu khác để giảm phát thải lượng khí gây hiệu ứng nhà kính. Các hãng dầu mỏ lớn như Shell và British Petroleum cũng đầu tư mạnh vào việc sản xuất biofuel. Shell trở thành nhà phân phối lớn nhất thế giới cung cấp etanol sinh học thông qua mạng lưới các trạm bán xăng của hãng trên toàn cầu. Các công ty nhu Du Pont và Volkswagen cũng vào cuộc, chiếm một phần trong thị trường trị giá hơn 20 tỷ USD này. Tại Việt Nam vấn đề nghiên cứu sản xuất và sử dụng biofuel cũng là một trong những định hướng lớn của Nhà nước. Song do nhiều nguyên nhân mà trong nhiều năm qua vấn đề này vẫn dậm chân tại chỗ và kết quả thu được vẫn còn rất nghèo nàn. Đến nay vấn đề này lại được xới lên và đã có một số dự án đang được thực hiện có kết quả bước đầu. Các nhà phân tích cho rằng tuy biofuel mới chiếm tỷ lệ nhỏ so với nhiên liệu hoá thạch được sử dụng hiện nay, nhưng do giá dầu mỏ không ngừng tăng cao, mối quan tâm bảo vệ môi trường sống cũng như vấn đề an ninh năng lượng trong tương lai khiến cho sản xuất etanol nói riêng và biofuel nói chung rất có triển vọng. Ngay cả khi nhiều nước trên thế giới quan tâm sử dụng nhiên liệu hydro, biofuel vẫn sẽ là nguồn nhiên liệu thay thế dầu mỏ trong một tương lai không xa. I. VÀI NÉT TỔNG QUÁT VỀ MỘT SỐ NGUỒN NĂNG LƯỢNG 1. Nguồn năng lượng hóa thạch (than đá, dầu mỏ - khí đốt) Đến đầu thế kỷ thứ 19, than, củi, rơm, rạ cung cấp cho con người 50% năng lượng trong cơ cấu sử dụng nhiên liệu, sau đó các nhiên liệu này dần dần được thay thế bằng than đá trong suốt nửa đầu thế kỷ XX. Đến khi động cơ đốt trong được phát minh ra thì dầu mỏ trở thành nguồn nhiên liệu chính thay thế dần than đá trong công nghiệp. Năng lượng tính theo đầu người vào năm 1970 ở các nước phát triển là 200.000 kcal/ ngày trong khi đó ở đầu thế kỷ XIX chỉ vào khoảng 70.000 kcal/ ngày. Cho tới năm 2000, năng lượng chủ yếu mà con người sử dụng là dầu mỏ và khí đốt. 2. Năng lượng mới và năng lượng tái tạo Do tính hữu hạn của nguồn năng lượng truyền thống nên việc tìm kiếm các nguồn năng lượng mới để có thể khai thác và sử dụng rộng rãi trở nên cấp bách. Hiện nay, việc nghiên cứu, thăm dò tập trung chủ yếu vào ba lĩnh vực: năng lượng có nguồn gốc từ bức xạ mặt trời, năng lượng địa nhiệt và năng lượng hạt nhân. Trong đó thủy điện, năng lượng mặt trời (sử dụng dưới dạng nhiệt và điện), năng lượng gió (sử dụng trực tiếp sức gió và dưới dạng phong điện), năng lượng từ sinh vật (bao gồm các loại củi, gỗ và khí khi phân hủy các chất hữu cơ, gọi chung là nhiên liệu sinh học - biofuel) được coi là các dạng năng lượng có thể tái tạo. Thực tế, năng lượng dưới dạng biofuel đã được biết đến và sử dụng từ lâu. Đốt củi, rơm hay rác để sinh nhiệt là hình thức dùng năng lượng sinh vật khô hiển nhiên nhất. Ở quy mô công nghiệp, đã có những lò hơi đạt công suất cả chục nghìn kilowat. Ở một số nước trên thế giới, người ta trồng rừng để có củi đốt lâu dài. Các loại cây lớn nhanh như cây bạch dương và một số loại cây khác thường được dùng cho mục đích này. Tại các khu dân cư đông đúc người ta lại đốt rác trong lò để sản xuất hơi phát điện hoặc dùng để sưởi ấm nhà cửa, điều hòa không khí, hay dùng trong các dây chuyền chế biến thực phẩm và hóa chất. Tuy nhiên hiện nay ở các khu vực đốt rác như vậy đang nổi cộm vấn đề ô nhiễm môi trường vì làm sản sinh ra lượng đioxin quá lớn. Một hình thức sử dụng năng lượng sinh vật khô nữa là làm than hoa (người ta đốt củi trong môi trường yếm khí để thành than). Những loại gỗ thích hợp để sản xuất than thường là loại gỗ rắn. Ở vùng ôn đới loại gỗ tốt nhất là gỗ sồi, ở vùng nhiệt đới ven biển là g0ỗ tràm, đước. Trước đây người ta đã phải sử dụng than hoa cho ngành luyện kim, nhưng hiện nay than này chủ yếu chỉ được sử dụng cho các mục đích thủ công, dân dụng (lò nướng thịt, lò rèn nhỏ,v.v...). Một hình thức sử dụng năng lượng sinh vật thứ ba là nhiệt phân để sản xuất nhiên liệu. Phụ phẩm của quá trình nhiệt phân - một nhánh công nghệ của ngành hóa học than - là các hợp chất gốc phênol có giá trị kinh tế. Tuy nhiên hiện nay ngành hóa học than và hyđrocacbua phát triển mạnh theo hướng sản xuất hóa chất nên phương pháp nhiệt phân để sản xuất nhiên liệu ít được sử dụng. Khi một chất hữu cơ bị lên men và phân hủy thì sinh ra khí mêtan có thể sử dụng làm khí đốt. Người ta gọi loại khí này là khí sinh vật (biogas). Bã còn lại sau quá trình lên men này có thể dùng làm phân bón. Người ta có thể sử dụng quá trình này để xử lý rác, chất thải nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm. Phương pháp sản xuất biogas từ các chất thải là dùng hầm ủ khí sinh vật (hầm biogas). Ở quy mô nhỏ có thể dùng biogas để sản xuất hơi nước hay trộn với khí tự nhiên trong mạng phân phối khí đốt của thành phố. Hiện nay một số nước trên thế giới đang sử dụng phương pháp này để xử lý rác của các khu dân cư và sản xuất biogas. Các bãi rác có thể đóng vai trò các hầm ủ khí lớn, tương tự những mỏ khí tự nhiên nhỏ, và có thể khai thác cho nhiều mục đích dân sinh. Hiện tại một số tập đoàn Gaz Pháp đang thử khai thác một số bãi đỗ rác của họ nhằm bảo vệ môi trường đồng thời sản xuất khí đốt. Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã triển khai sử dụng biogas từ bãi rác để phát điện với công suất ban đầu 750 kW. Công nghệ phân hủy chất hữu cơ đang trong giai đoạn phát triển trên quy mô nhỏ. Thành quả sản xuất quy mô lớn sẽ phụ thuộc vào tiến bộ công nghệ sinh học trong tương lai. 3. Khái niệm về biofuel Phương pháp làm rượu (vang và các loại rượu nói chung) bao gồm công đoạn lên men tinh bột, đường, đường quả và một số công đoạn chế biến khác. Muốn có loại rượu nặng hoặc sản xuất cồn thì phải chưng cất sản phẩm lên men thu được. Trên thực tế, ngoài mục đích sản xuất bia, rượu làm đồ uống, người ta có thể áp dụng phương pháp sản xuất rượu quy mô lớn để sản xuất nhiên liệu chạy xe hoặc các mục đích khác. Một trong các loại vật liệu từ thực vật thích hợp cho mục đích này là đường mía. Braxin là nước đang đi đầu trong lĩnh vực này. Dầu của các loại quả hoặc hạt có dầu như lạc, hướng dương, cọ, dừa, v.v…sau khi được và được xử lý hóa học có thể cho sản phẩm làm nhiên liệu. Hiện tại ở Paris (Pháp) đang có một số xe buýt bằng biofuel từ hạt hướng dương. Các loại nhiên liệu đi từ cồn (etanol) lên men, dầu thực vật được coi là biofuel. Các phương pháp sản xuất biofuel đang trong giai đoạn phát triển ban đầu. Khó khăn ở đây không chỉ là vấn đề công nghệ mà là vấn đề kinh tế chung, liên quan đến diện tích đất để trồng cây nhiên liệu ở quy mô lớn. Câu hỏi được đặt ra là cần dành diện tích đất cho mục đích này bao nhiêu cho đủ và khi đó thì lấy đất đâu đất để trồng cây thực phẩm cho người và thức ăn cho gia súc? Năng lượng phục vụ cho việc trồng đại trà cây nhiên liệu như vậy sẽ được cân đối ra sao?, v.v… II. NHIÊN LIỆU HÓA THẠCH - SƠ LƯỢC TÌNH HÌNH KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG 1. Trên thế giới 1.1. Than đá Hàng nghìn năm trước đây nguồn năng lượng được con người sử dụng cho cuộc sống chủ yếu lấy từ củi gỗ, rơm, rạ, cỏ, lá cây, v.v... Than đá được khai thác sớm nhất vào thế kỷ thứ X ở Đức nhưng không được con người ưa chuộng vì khó cháy và lại tỏa nhiều khí độc khi đốt. Đến thế kỷ XV, ngành công nghiệp luyện kim ra đời và ngày càng phát triển, nhất là đến đầu thế kỷ XIX, với sự ra đời của các nhà máy nhiệt điện, thì nhu cầu sử dụng than đá mới chiếm tỷ trọng ngày một lớn. Tuy nhiên, cho đến những năm 60 của thế kỷ XX, lượng than đá khai thác và sử dụng mới chỉ chiếm dưới 27% tổng năng lượng sử dụng, còn khí đốt và dầu mỏ thì vẫn coi như không đáng kể. Từ đầu thế kỷ XX, cơ cấu thành phần nhiên liệu sử dụng có sự thay đổi lớn. Tỷ lệ dùng than đá, dầu mỏ và khí đốt tăng cao. Theo số liệu năm 1965, tỷ lệ đó là 40%, 33,5% và 16,3% tương ứng. Song đối với từng khu vực và từng quốc gia, cơ cấu năng lượng sử dụng phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế - xã hội của mỗi nước., Chẳng hạn Ấn Độ vào năm 1965, năng lượng do than đá cung cấp chiếm 40%, trong khi đó năng lượng cung cấp từ điện năng (trừ nhiệt điện), dầu mỏ, khí đốt... chỉ là 7%.. Tuy nhiên trong thời gian qua, xu hướng sử dụng năng lượng từ than đá có sự giảm sút rõ rệt vì dầu mỏ và khí đốt được khai thác ngày càng nhiều nên giá thành hạ. Gần đây, một xu hướng mới lại xuất hiện ở nhiều nước, trước tình hình nguồn dầu mỏ và khí đốt thiếu hụt, giá tăng nhanh. Người ta đang quay trở lại sử dụng than đá, đồng thời cải tiến kỹ thuật đốt than để dễ diều khiển quá trình cháy và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Bảng 1. Nhu cầu sử dụng than đá trên thế giới trước thập kỷ 80 của thế kỷ XX (số liệu năm 1990) Năm Than đá Các nhiên Tổng cộng Tỉ lệ % năng (triệu tấn) liệu khác (triệu tấn) lượng từ (triệu tấn) than sử dụng 1900 725 50 775 93,6 1940 1.500 600 2.100 71,4 1950 1.550 1.150 2.700 67,4 1960 2.100 2.100 4.200 50,0 1972 2.500 5.300 7.800 32,0 Trữ lượng than đá thế giới được đánh giá là 23.000 tỷ tấn, trong đó khoảng 30% tập trung ở Liên Xô (cũ), Mỹ và Trung Quốc. Các nước có trữ lượng than đá lớn hơn 20 tỉ tấn là: Liên Xô (4.122 tỉ tấn), Mỹ (1.100 tỉ tấn), Trung Quốc (1.011 tỉ tấn), Đức (70 tỉ tấn), Canađa (61 tỉ tấn), Ba Lan (46 tỉ tấn), Nam Phi (26 tỉ tấn), Nhật Bản (20 tỉ tấn). Với nhịp độ khai thác hiện nay thì việc khai thác than đá có thể tiếp tục chừng 250 năm nữa. Nhu cầu sử dụng than đá ở một số nước vẫn tăng cao, tuy nhiên số lượng than khai thác thì lại có nguy cơ giảm xuống. Thực trạng thị trường than đá thế giới đang trong giai đoạn cung thấp hơn cầu. Hiện tại Trung Quốc và Nhật Bản là hai nước nhập khẩu than đá lớn nhất thế giới. 1.2. Dầu mỏ Từ năm 2000 trở đi, năng lượng chủ yếu được khai thác và sử dụng cho nhu cầu công nghiệp là dầu mỏ và khí đốt. Riêng dầu mỏ, trữ lượng toàn cầu (trừ Liên Xô và các nước XHCN cũ) là 65,3 tỉ tấn, và đến năm 1978 trữ lượng này tăng lên 74,9 tỉ tấn do quá trình thăm dò bổ sung ở một số vùng biển và thềm lục địa. Không kể phần Liên Xô (cũ) thì khoảng 65% dự trữ dầu mỏ tập trung ở các nước thuộc khối Ả Rập. Từ nửa sau thế kỷ XX, nhu cầu về dầu mỏ ngày càng tăng và lượng dầu khai thác cũng tăng lên gấp đôi. Lượng dầu khai thác hàng năm vào cuối thế kỷ XX gấp 150 lần lượng khai thác hàng năm vào đầu thế kỷ (Bảng 2). Theo ước tính, với nhịp độ khai thác hiện nay thì trữ lượng dầu mỏ sẽ cạn trong vòng 30 - 35 năm nữa. Bảng 2: Sản lượng dầu thô khai thác được trên thế giới từ năm 1900 Năm Sản lượng Năm Sản lượng 1900 19,9 1965 1503,5 1920 96,9 1970 2336,2 1930 196,5 1975 2709,1 1945 354,6 1980 3624,0 1950 524,8 1985 3700,0 1955 770,1 1990 3003,4 1960 1051,5 1994 2982,5 Có tồn tại mâu thuẫn là khu vực sản xuất dầu mỏ nhiều nhất lại là nơi không tiêu thụ nhiều dầu, nên phần lớn dầu mỏ khai thác được xuất sang các nước phát triển. 1.3. Khí tự nhiên Trong nửa sau thế kỷ XX, khí đốt (khí tự nhiên) là nguồn cung cấp quan trọng sau dầu mỏ. Trữ lượng khí đốt ở độ sâu hiện đang khai thác (3.000m) là 72,9 ngàn tỉ m3 trong đó có 20% nằm ở đại dương. Nếu tính ở độ sâu 5000 mét thì trữ lượng khí đốt là 86 ngàn tỉ m3. Mức độ khai thác khí đốt cũng khác nhau tùy theo khu vực và từng nước là do nhu cầu thực tiễn của sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Do nhu cầu tiêu thụ năng lượng trên toàn cầu tăng cao, trong khi nguồn nhiên liệu than đá và dầu mỏ cạn dần, đã khiến giá nhiên liệu nói chung, nhất là dầu mỏ, tăng cao. Giá dầu mỏ tăng đang làm chao đảo nền kinh tế nhiều khu vực và thế giới. Mỹ là nước tiêu thụ dầu mỏ lớn nhất thế giới (khoảng 1 tỷ tấn năm) và phải nhập khẩu 70% nhu cầu sử dụng, ước 20 - 25 triệu thùng/ngày. Trung Quốc (TQ) hiện đang là nước tiêu thụ dầu mỏ đứng thứ 2 sau Mỹ, vượt cả Nhật Bản. Theo số liệu của cơ quan Năng lượng Quốc tế, năm 2003 tổng khối lượng dầu mỏ tiêu thụ của TQ là 252,3 triệu tấn. Trong năm 2004, con số đó dự kiến sẽ tăng đến 308 triệu tấn. Theo số liệu của Bộ Thương mại TQ, nước này đang nhập khẩu dầu mỏ với khối lượng ngày càng tăng và chiếm 1/3 lượng dầu mỏ tiêu thụ ở TQ. Năm 2004, TQ nhập khẩu 110 triệu tấn dầu thô, vượt 21% so với năm 2003. Dự báo đến năm 2020, sự thâm hụt dầu mỏ ở TQ sẽ đạt tới 250 triệu tấn/ năm. Các nguồn dầu mỏ mà TQ đang hướng tới là Nga, Arập Xeut, Iran, Kazacstan, Tuôcmenistan, Kirgistan, Xyri. Ngoài ra TQ cũng đang tìm cách tăng cường thăm dò và khai thác dầu khí trong nước. Khu vực lãnh hải giàu tiềm năng khí đốt đang là chủ đề tranh cãi gay gắt giữa Nhật Bản và TQ. Ngoài ra, Chính phủ TQ đang tổ chức các đề án quy mô lớn nhằm khai thác dầu mỏ và khí đốt trên đại lục. Nước đông dân thứ hai trên thế giới, đồng thời sử dụng dầu mỏ lớn thứ 3 châu Á bên cạnh TQ, là Ấn Độ. Ấn Độ là nước đang phải nhập khẩu tới hơn 2/3 nhu cầu dầu thô trong nước. Từ lâu các công ty dầu khí của Ấn Độ đang tìm kiếm cơ hội đầu tư ở Iran, mua dầu thô và khí đốt tại Angola, I rắc, Myanma, Xuđăng, Xyri và Việt Nam. 2. Ở Việt Nam 2.1. Than đá Theo Quyết định số 20/2003/QĐ-TTg (29/01/2003), Thủ tướng Chính phủ đã phe duyệt Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam giai đoạn 2003 - 2010 có xét triển vọng đến 2020. Theo đó trữ lượng than đá của Việt Nam được xác định 3,8 tỉ tấn, trong đó đã đưa vào quy hoạch là khoảng hơn 2,5 tỉ tấn than đá (chủ yếu tập trung ở vùng Quảng Ninh) và hơn 0,4 tỉ tấn than bùn. Than Quảng Ninh là than antraxit có chất lượng tốt, nhiệt lượng cao. Tình hình khai thác than đá ở Việt Nam từ năm 1955 đến 2005 được trình bày trong Bảng 3. Hiện nay sản lượng khai thác ngày càng tăng để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Việt Nam hiện chiếm 40% lượng than antraxit xuất khẩu trên toàn cầu. Đáp ứng nhu cầu thị trường, năm 2004 tổng lượng than các loại tiêu thụ tại Việt Nam là 25 - 26 triệu tấn (xuất khẩu 8 - 9 triệu tấn). Thị trường tiêu thụ than trong những tháng cuối năm 2004 và đến năm 2005 vẫn tiếp tục tăng. Bảng 3. Sản lượng than khai thác ở Việt Nam giai đoạn 1955-2005 Năm Sản lượng (đơn vị: 1.000 tấn) Than khai thác Than sạch Than xuất khẩu 1955 641,5 429,9 65,9 1960 2.774,6 2.575,2 1.356,3 1965 4.890,1 4.298,1 2.103,0 1970 2.776,0 2.604,0 364,9 1975 5.574,2 5.061,9 1.219,4 1980 5.572,1 4.988,2 689,5 1985 6.294,9 5.326,7 604,4 1990 5.197,8 4.218,5 676,5 1995 9.369,0 8.155,5 2.728,0 1998 - - 3.600,0 1999 9.629,0 - 3.400,0 2000 11.600,0 - 3.300,0 2001 13.410,0 - 4.300,0 2002 16.400,0 - 6.000,0 2003 18.900,0 - 7.200,0 2004 26.286,4 - 7 - 8.000,0 2005 (6 tháng) 15.526,8 - - 2.2. Dầu mỏ và khí thiên nhiên Ở nước ta việc tìm kiếm và thăm dò dầu mỏ đã thực hiện từ lâu trong thời kỳ chiến tranh ở cả 2 miền Nam và Bắc; trong những năm đầu của thập niên 1960 - 1970 chúng ta đã tìm thấy dầu và khí ở vùng châu thổ Sông Hồng song chưa xác định được chính xác. Còn ở miền Nam, việc thăm dò chủ yếu ở thềm lục địa vào những năm cuối của thập niên 60. Kết quả thăm dò là phát hiện được 3 bồn trầm tích có dầu khí quan trọng là: bồn Cửu Long, bồn Sài Gòn - Brunây và bồn vịnh Thái Lan. Tháng 8/1973 Chính quyền Sài Gòn đã tổ chức đấu thầu và đã có 4 tổ hợp các công ty nước ngoài trúng thầu, bắt đầu tiến hành thăm dò tìm kiếm vào năm 1974, đến tháng 4/1975 phải bỏ dở khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng. Tháng 12/1983 Nhà nước ta lại bắt đầu cho thăm dò tìm kiếm trở lại và đã phát hiện được dầu ở tầng Miocene hạ (5/1984) rồi ở tầng Oligocene (2/1986). Tấn dầu được khai thác đầu tiên ở mỏ Bạch Hổ vào tháng 6/1986, tháng 9/1988 bắt đầu khai thác chính thức. Số liệu về sản lượng dầu khí khai thác tại Việt Nam được trình bày tại Bảng 4. Bảng 4. Sản lượng dầu khai thác ở Việt Nam Năm khai thác Khối lượng (triệu tấn) 1986 0,04 1987 0,28 1988 0,68 1989 1,49 1990 2,70 1991 3,95 1992 5,50 1993 6,30 1995 7,70 1999 12,00 2000 15 - 20 2001 16,8 2002 16,9 2003 17,6 2004 20,051 2005 (6 tháng đầu năm) 8,988 Riêng về khí và khí hóa lỏng: Năm Sản lượng (m3 và nghìn tấn) Khí (triệu m3) Khí hóa lỏng (nghìn tấn) 2004 6269 365 2005 (6 tháng đầu năm) 3507 178 Khối lượng dầu đã khai thác trên đây từ 3 mỏ lớn là Bạch Hổ, Rồng và Đại Hùng với 133 giếng khai thác và 247 giếng thăm dò. Ngoài ra, một đường ống dẫn khí đồng hành dài trên 100km từ mỏ Bạch Hổ đã được dẫn khí vào đất liền đến Bà Rịa từ ngày 01/5/1995 đã cung cấp 1 triệu m3/ ngày đêm và dự kiến từ năm 2000 cung cấp từ 3 - 4 triệu m3/ ngày đêm. Ngày 15/12/2000 bắt đầu xây dựng đường ống dẫn khí dài khoảng 300 km từ mỏ Lan Tây và Lan Đỏ vào bờ. Ngoài liên doanh dầu khí Việt Xô (VIETXOPETRO), hiện có hơn 10 công ty nước ngoài cũng đang tìm kiếm và thăm dò dầu khí ở các thềm lục địa phía Nam và phía Bắc. Trữ lượng dầu thô tiềm tàng ở vùng ngoài khơi phía Nam là 270 triệu tấn và khả năng còn tăng nhiều nếu tiếp tục thăm dò. Việt Nam có trữ lượng khí không đồng hành tiềm tàng khoảng trên 360 tỉ m3. Trữ lượng khí đồng hành xác minh được là vào khoảng 57 tỉ m3. Nguồn tài nguyên này sẽ là tiềm năng nhiên liệu chính cho ngành điện của Việt Nam, tránh phải sử dụng quá nhiều than gây ô nhiễm. Nói chung, sản xuất dầu thô và khí của Việt Nam có tiềm năng lớn. Các mỏ khí mới được phát hiện gần đây đã khơi lại mối quan tâm của các công ty dầu khí quốc tế. Tuy nhiên tiến độ thăm dò còn chậm. Để khắc phục tình trạng này, Việt Nam đã đưa ra chiến lược phát triển thăm dò và khai thác dầu khí. Bảy dự án lớn thuộc ngành công nghiệp dầu khí đã được Chính phủ xếp vào danh mục dự án quốc gia gọi vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2005, trong đó có nhiều dự án quan trọng như: Dự án nhà máy liên doanh lọc dầu số 2 (công suất 6,5 triệu tấn/ năm), vốn đầu tư 1,5 tỉ USD đặt tại Thanh Hóa; Dự án đường ống dẫn khí lô B - ô Môn, công suất 1,5 tỉ m3/ năm, cần vốn đầu tư 300 triệu USD; Nhà máy chế biến sản phẩm sau hóa dầu, vốn 17 triệu USD; Nhà máy sản xuất khí công nghiệp 10 triệu USD tại khu công nghiệp Hòa Khánh, Đà Nẵng. Ngoài ra, còn có các dự án khai thác mỏ mới tại Vịnh Bắc Bộ, vùng biển miền Trung, Nam Côn Sơn và Tây Nam,v.v… III. VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG 1. Thế giới đang cần ngày càng nhiều hơn năng lượng Dân số thế giới sẽ tăng từ con số hiện tại, khoảng 6,3 tỉ người lên tới 9 tỉ người vào năm 2050. Mức độ phồn thịnh trung bình toàn cầu sẽ ngày càng cao hơn. Càng nhiều người và mức sống càng cao hơn có nghĩa là sẽ không tránh khỏi sử dụng năng lượng nhiều hơn. Các nước đang phát triển hiện đang cần nhiều năng lượng hơn bao giờ hết để đáp ứng yêu cầu tăng cao mức sống. Theo một số kịch bản, thì vào năm 2050 mức tiêu thụ năng lượng toàn cầu sẽ tăng gấp đôi, nhưng điều này có thể còn cao hơn thế. Hiện tại, tính trên toàn cầu, mức năng lượng đang sử dụng hàng ngày tương đương với khoảng 200 triệu thùng dầu mỏ (khoảng 10 tỷ tấn /năm). Trong số này, có khoảng 80% năng lượng có nguồn gốc là năng lượng hóa thạch (dầu mỏ, khí đốt, than đá). Năng lượng hạt nhân, thủy điện, năng lượng sinh học chiếm gần 20% còn lại. Trong đó, thực tế năng lượng tái tạo (thủy điện, gió và sinh học truyền thống như gỗ, chất thải nông nghiệp) chỉ chiếm 10%. Tỷ lệ tăng sử dụng năng lượng trung bình hàng năm trên thế giới hiện nay là khoảng 1,5 - 2,0%. Điều này có nghĩa là khối lượng dầu mỏ khai thác phải tăng lên thêm hàng ngày là 1,5 triệu thùng. Ngành dầu mỏ toàn cầu sẽ phải hoạt động hết công suất, đồng thời phải luôn tìm kiếm cơ hội đầu tư thêm và việc mở mỏ mới để bù đắp lại các thất thoát tự nhiên ở các khai trường (tổng mức thất thoát như vậy đôi khi lên tới 4 5%/ năm, tương ứng khối lượng dầu khai thác 3,5 triệu thùng/ ngày). Trong 5 năm tới ngành dầu mỏ toàn cầu sẽ phải tăng thêm công suất tương ứng với mức khai thác 28,5 triệu thùng/ ngày (gấp 3 lần mức khai thác hiện tại của Ả rập Xê út). Vào thời điểm hiện nay, ngành năng lượng thế giới đang đứng trước ba nhiệm vụ: * Tăng sản lượng năng lượng hóa thạch và các loại năng lượng khác. Vào năm 2050, nhu cầu năng lượng sẽ tương đương 400 thùng dầu/ ngày (một nửa số đó là năng lượng hóa thạch). * Phải quan tâm phát triển đồng thời các nguồn năng lượng. * Giảm thải tác hại gây ô nhiễm môi trường do khai thác và sử dụng năng lượng hóa thạch, đồng thời giảm tác nhân gây tăng hiệu ứng nhà kính để bảo vệ môi trường. Trữ lượng dầu mỏ thế giới còn khoảng 1.200 tỷ thùng, khai thác với tốc độ hiện tại còn độ khoảng 30-35 năm nữa. Trữ lượng than đá còn khá lớn (tuy ngày càng khó khai thác) nhưng cũng còn khai thác được 250 năm nữa. Nguy cơ thế giới sẽ thiếu năng lượng đang trở thành sự thật hiển nhiên. Năng lượng hạt nhân, năng lượng tái tạo (thủy điện, sinh học) sẽ đóng vai trò ngày càng lớn. Năng lượng tái tạo nguồn gốc sinh học có một ý nghĩa nhất định nhưng chúng ta không thể đốt cháy giai đoạn. Cần phải có thời gian phát triển, thời gian đó có thể là 10 - 20 năm nữa.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng