Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nhân vật thúy kiều trong truyện kiều của nguyễn du từ góc nhìn văn hoá ứng xử...

Tài liệu Nhân vật thúy kiều trong truyện kiều của nguyễn du từ góc nhìn văn hoá ứng xử

.PDF
101
206
70

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI VŨ THỊ DUNG nh©n vËt thóy kiÒu trong truyÖn kiÒu cña nguyÔn du tõ gãc nh×n v¨n hãa øng xö Chuyên ngành: Văn học Việt Nam trung đại Mã số: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lã Nhâm Thìn HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các tài liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng. Những kết quả nghiên cứu của luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào. Tác giả luận văn Vũ Thị Dung 2 LỜI CẢM ƠN Với sự kính trọng và tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo GS. TS Lã Nhâm Thìn – người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu hoàn thành luận văn này. Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban chủ nhiệm cùng quý thầy giáo, cô giáo khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đã trực tiếp giảng dạy, trang bị kiến thức, nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để luận văn của em đạt kết quả cao nhất. Cuối cùng, em xin gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp – những người đã luôn động viên, cổ vũ tinh thần và giúp đỡ em hoàn thiện luận văn này. Với sự nỗ lực hết mình, em đã hoàn thành luận văn này. Nhưng do những hạn chế nhất định về sự hiểu biết của bản thân cũng như các điều kiện khách quan nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý chân thành của quý thầy cô và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 7 năm 2017 Tác giả Vũ Thị Dung 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề............................................................................................... 3 3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 7 5. Phương pháp nghiên cứu. ............................................................................. 8 6. Đóng góp của đề tài ...................................................................................... 8 7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................... 9 NỘI DUNG .................................................................................................... 10 Chương 1: VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG TÌNH YÊU CỦA NHÂN VẬT THÚY KIỀU ........................................................................................ 10 1.1. Giới thuyết khái niệm .............................................................................. 10 1.1.1. Khái niệm văn hóa ............................................................................ 10 1.1.2. Khái niệm văn hóa ứng xử ................................................................ 13 1.2. Văn hóa ứng xử trong tình yêu từ tư tưởng Nho giáo ............................. 16 1.3. Văn hóa ứng xử trong tình yêu từ đạo lí dân tộc: Tình yêu Kiều Kim: “Trăm năm tạc một chữ đồng” ............................................................. 27 1.4. Văn hóa ứng xử trong tình yêu từ góc nhìn giới ..................................... 32 1.4.1. Tình yêu Thúy Kiều - Kim Trọng: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” ........................................................................................ 32 1.4.2. Tình yêu Thúy Kiều - Thúc Sinh: “Trước còn trăng gió sau ra đá vàng” ..... 40 1.4.3. Tình yêu Thúy Kiều - Từ Hải: “Đôi mắt cùng liếc, đôi lòng cùng ưa” ..... 43 Tiểu kết chƣơng 1 ......................................................................................... 46 Chương 2: VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG QUAN HỆ GIA ĐÌNH CỦA NHÂN VẬT THÚY KIỀU ................................................................. 48 2.1. Văn hóa ứng xử trong quan hệ gia đình từ tư tưởng Nho giáo ................ 48 4 2.1.1. Quan hệ cha con theo đạo hiếu: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành” ................................................................................................. 48 2.1.2. Quan hệ vợ chồng với Thúc Sinh và Từ Hải: “Nàng rằng phận gái chữ tòng” .............................................................................................. 55 2.2. Văn hóa ứng xử trong quan hệ gia đình từ đạo lí dân tộc ....................... 58 2.2.1. Tình cảm con cái - cha mẹ: “Xót người tựa cửa hôm mai” ............ 58 2.2.2. Tình cảm chị em: “Xót tình máu mủ” .............................................. 62 2.3. Văn hóa ứng xử trong quan hệ gia đình từ góc nhìn giới (Quan hệ Thúy Kiều - Hoạn Thư: “Chút phận đàn bà”) ................................................ 66 Tiểu kết Chƣơng 2 ........................................................................................ 69 Chương 3: VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG QUAN HỆ XÃ HỘI CỦA NHÂN VẬT THÚY KIỀU ........................................................................... 70 3.1. Văn hóa ứng xử trong quan hệ xã hội từ tư tưởng Nho giáo: “Trên vì nước dưới vì nhà”........................................................................................... 70 3.2. Văn hóa ứng xử trong quan hệ xã hội từ đạo lí dân tộc: “ân oán rạch ròi” ... 74 3.3. Ý nghĩa của việc tìm hiểu văn hóa ứng xử qua nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.............................................................................. 86 3.3.1. Đối với đương thời ............................................................................... 86 3.3.2. Đối với ngày nay .................................................................................. 87 Tiểu kết Chƣơng 3 ........................................................................................ 88 KẾT LUẬN ................................................................................................... 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 92 5 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Mỗi một dân tộc có một nền văn hóa riêng, mang những nét đặc thù khó trộn lẫn. Văn hóa của một dân tộc bao gồm nhiều phương diện, trong đó văn học là một yếu tố thuộc văn hóa. Không thể hiểu hết ý nghĩa và giá trị của một tác phẩm nếu người tiếp nhận không nắm được đặc điểm văn hóa của dân tộc - nơi mà tác phẩm ra đời. Vì tác phẩm văn học là một chỉnh thể của nghệ thuật ngôn từ tái hiện đời sống tinh thần của mỗi dân tộc, như là một trong những sản phẩm kết tinh cao nhất của văn hóa một tộc người, một đất nước. “Sáng tác văn học trước hết là một hành động văn hóa. Tác phẩm văn học, sự kiện văn học là một loại chứng tích văn hóa” [55, 5]. Vậy nên văn hóa và văn học có mối quan hệ biện chứng với nhau. Việc nghiên cứu tác phẩm văn học dưới góc độ văn hóa giúp người đọc có một cách tiếp cận mang tính xã hội đối với tác phẩm. Và ngược lại, qua việc tìm hiểu tác phẩm chúng ta cũng hiểu sâu hơn về văn hóa của một dân tộc. Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa là một hướng nghiên cứu thú vị. Trên thế giới, nhà thi pháp học nổi tiếng M. Bakhtin có thể coi là một trong những đại diện đầu tiên vận dụng kết hợp Văn học - Văn hóa học, văn học - Ngữ dụng học trong các công trình nghiên cứu về F. Rablais và về F. Dostoievski. Còn ở Việt Nam, việc tiếp cận văn học qua con đường văn hóa được hình thành từ giữa thế kỷ XX và đến nay đã trở thành một hướng lớn trong nghiên cứu văn học. Vai trò của văn hóa trong nghiên cứu văn học và việc vận dụng những thành tựu văn hóa để lý giải văn học đã đạt được nhiều kết quả đáng kể. Văn hóa ứng xử là một phương diện của văn hóa mỗi dân tộc. Nghiên cứu văn hóa ứng xử của các nhân vật trong tác phẩm văn học, người đọc có thể thấy được nét riêng, độc đáo trong quan hệ đối nhân xử thế của con người ở mỗi dân tộc. 1 Truyện Kiều là một kiệt tác của Nguyễn Du nói riêng, là thành tựu đỉnh cao của văn học dân tộc Việt Nam nói chung. Đã có không ít học giả ca ngợi Truyện Kiều không tiếc lời trong bài viết của mình. Tại lễ kỉ niệm ngày mất của Nguyễn Du năm 1924, trong bài Diễn thuyết về quốc văn, Phạm Quỳnh đã say mê bộc bạch tình yêu của mình đối với Truyện Kiều – tác phẩm mà ông cho là quý báu, đời đời làm vẻ vang cho cả giống nòi: “Hiện nay suốt quốc dân ta, từ trên hàng thượng lưu học thức, dưới đến kẻ lam lũ làm ăn, bất cứ già trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà, ai ai cũng biết Truyện Kiều, ai ai cũng thuộc Truyện Kiều, ai ai cũng kể Truyện Kiều, ai ai cũng ngâm Truyện Kiều…”. Với ông Truyện Kiều vừa là kinh, vừa là truyện, vừa là thánh thư phúc âm của cả dân tộc và cũng “chiếm được một địa vị cao quý” trong nền văn học thế giới. Trong “Đặc sắc văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung Truyện Kiều”, cố giáo sư Đặng Thai Mai cũng có những đánh giá tương tự về giá trị của Truyện Kiều. Với giá trị to lớn như vậy nên ngay từ khi ra đời, Truyện Kiều đã được tiếp cận theo nhiều hướng khác nhau. Các nhà nghiên cứu đã thẩm bình, phê bình, khảo cứu, nghiên cứu dưới góc độ thi pháp học, loại hình học, tiếp nhận văn học, so sánh văn học,…và tìm hiểu Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa ứng xử qua nhân vật Thúy Kiều trong tác phẩm cũng là một đóng góp vào thành tựu nghiên cứu về kiệt tác này. 1.2. Truyện Kiều là một tác phẩm được đưa vào giảng dạy ở trường phổ thông cũng như ở các trường Đại học, Cao đẳng. Số lượng các đoạn trích của tác phẩm được trích giảng ở trường phổ thông là nhiều hơn cả so với các tác phẩm khác. Ở bậc THCS có đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”,“Cảnh ngày xuân”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Thúy Kiều báo ân báo oán”. Ở bậc THPT là đoạn trích “Trao duyên”, “Chí khí anh hùng” và đọc thêm các đoạn “Nỗi 2 thương mình”, “Thề nguyền” (Ban cơ bản). Các tài liệu viết về các đoạn trích này từ trước đến nay nghiêng về bình giảng vẻ đẹp của từ ngữ, nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật, phẩm chất của nhân vật,…Luận văn nghiên cứu “Nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du từ góc nhìn văn hóa ứng xử” sẽ giúp các thầy cô giáo và các em học sinh có thêm sự tham khảo để hiểu hơn các đoạn trích giảng, từ đó hiểu hơn văn hóa ứng xử của người Việt, nhằm giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Qua việc khảo sát và tìm hiểu, chúng tôi thấy rằng từ trước đến nay đã có một số công trình nghiên cứu văn học tiếp nhận Truyện Kiều dưới góc nhìn văn hóa và văn hóa ứng xử. Có thể kể đến một số công trình nổi bật: Trong cuốn “Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa”, tác giả Trần Nho Thìn đã trình bày những tâm huyết của mình về cách tiếp cận văn hóa như một hướng đi chủ yếu để nghiên cứu văn học Việt Nam. Theo tác giả “nếu chúng ta tìm kiếm và tích lũy được nhiều sự kiện văn hóa trong quá khứ để giải thích văn học thì khả năng suy diễn, khả năng hiện đại hóa có thể được giảm thiểu và chúng ta có nhiều cơ may đền gần sự thật lịch sử văn học” [55, 6]. Ở bài viết Nghiên cứu và giảng dạy văn học trung đại nhìn từ góc độ văn hóa (Qua lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều) [55, 37], Trần Nho Thìn đã chỉ ra những hạn chế của các công trình nghiên cứu Truyện Kiều theo hướng hiện đại hóa và khẳng định cần phải nghiên cứu tác phẩm này dưới văn hóa của thời đại Nguyễn Du. Ví dụ nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng không thể hiểu chữ “Nghĩa” theo khái niệm vốn có trong Nho giáo để hiểu chữ “Nghĩa” trong Truyện Kiều (“Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân”, “Kẻ chê bất nghĩa, kẻ cười vô lương”). Chữ “Nghĩa” trong những câu thơ của Truyện Kiều đã chuyển từ phạm vi văn hóa chính trị sang phạm vi văn hóa ứng xử đời thường. Kinh nghiệm cho thấy với Truyện Kiều không thể xuất phát từ lý thuyết rồi đem đối 3 chiếu một cách hình thức với khái niệm trong tác phẩm mà phải xuất phát từ chính tác phẩm, từ cách hiểu của tác giả, một cách cảm nhận mang tính nguyên hợp về thế giới để xem xét. Một ví dụ khác là tác giả cũng khẳng định không thể lấy quan điểm giai cấp để xem xét các nhân vật trong Truyện Kiều theo thành phần giai cấp, quan hệ giữa các nhân vật là quan hệ mang tính giai cấp. Cách lý giải của Trương Tửu trong “Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du” là không thích hợp vì cho rằng tác phẩm đã phản ánh trung thành tình hình đấu tranh giai cấp ở cuối thế kỷ XVIII dựa học thuyết đấu tranh giai cấp. Ở đây, cần phải xuất phát từ trình độ nhận thức về xã hội của Nguyễn Du để lý giải. Theo quan điểm truyền thống, Nguyễn Du nhìn xã hội thành hai loại người là người tốt và người xấu. Quan lại hay dân thường đều có người tốt người xấu. Nguyễn Du có cách cảm nhận riêng về xã hội. Có lẽ xã hội như chúng ta hiểu ngày nay được Nguyễn Du hình dung qua các khái niệm “cõi người ta” “quê người” “đất khách quê người” “chân trời góc bể” tức là những gì đối lập với “gia đình”. Những không gian xã hội ấy luôn thù địch với con người, chứa đựng đầy những bất trắc đe dọa tính mạng con người và con người cảm thấy nhỏ bé, mong manh, cô đơn trước không gian ấy. Sự phân tích nhận thức xã hội của Nguyễn Du như vậy không chỉ đảm bảo tính cụ thể của lịch sử tư tưởng tác giả mà còn giúp hiểu được nỗi cô đơn của con người trong “cõi người ta”, cảm nhận hết chiều sâu của những dòng thơ ly biệt cũng như tâm trạng nhớ nhà của nhân vật…. Trong bài viết “Triết lý Truyện Kiều trong bối cảnh văn hóa xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX” ở cuốn “Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa” [55, 125], tác giả Trần Nho Thìn đã chỉ ra những đóng góp cũng như những hạn chế của các tác giả như Trần Đình Hượu, Phan Ngọc hay Trần Ngọc Vương khi lý giải về thuyết “tài mệnh tương đố”. Mỗi tác giả có cách lý giải khác nhau, song tựu chung lại là chưa thực sự tính hết 4 tính đa dạng của các từ ngữ do chính Nguyễn Du dùng, đặc biệt là chưa phân tích riêng triết lý của Truyện Kiều trong tương quan với thời đại sản sinh ra nó. Theo cách lý giải của Trần Nho Thìn, muốn hiểu đúng nội dung triết lý của Truyện Kiều cần giải mã khái niệm “tài” như một khái niệm đặc thù của Truyện Kiều. Mặt khác, cần phải chỉ rõ tại sao Nguyễn Du lại nêu vấn đề đó, tức là cần đặt vấn đề vào bối cảnh thực tế lịch sử xã hội và tâm lý tư tưởng của bản thân Nguyễn Du. Theo tác giả, chữ “tài” trong Truyện Kiều có nhiều nội dung khác nhau: tài mạo, tài hoa, tài sắc, tài tình, tài đánh giặc,…song chỉ có tài sắc và tài tình mới thuộc triết lý “tài mệnh tương đố” (“Thương thay cũng một kiếp người. Hại thay mang lấy sắc tài làm chi”, “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”).Và tác giả đã dựa vào văn hóa trung đại để lý giải triết lý này. Lý giải vấn đề người tài sắc thường hay bất hạnh tác giả dựa vào thực tiễn lịch sử văn hóa: Trong xã hội phong kiến phụ quyền Phương Đông, người phụ nữ có nhan sắc thường là nạn nhân của sự chuyên quyền độc đoán của đàn ông, số phận của họ lệ thuộc vào đàn ông. Người phụ nữ không có quyền lựa chọn cho mình cách sống, cách ứng xử hay làm chủ thân xác và tâm lý của mình. Họ có thể bị cướp, bị bắt, bị tuyển mộ, bị dâng nạp, bị gả bán cho bạn quan lại, vua chúa hay bọn lắm tiền nhiều của. Họ bị đối xử để thỏa mãn dục vọng, bị đối xử bất công nên nhan sắc tàn phai, số phận bi đát. Bên cạnh “tài sắc” là những người phụ nữ “tài tình” (tài làm thơ, tài đánh đàn – tài gắn với môn nghệ thuật đề cao cảm xúc) cũng nằm trong triết lý “tài mệnh tương đố” của Truyện Kiều. Triết lý này bắt nguồn từ những quan sát và suy ngẫm lâu dài của Nguyễn Du về thân phận của những người ả đào mà ông đã gặp. Những người phụ nữ đem tài sắc của mình để phục vụ cho nhu cầu ăn chơi, giải trí của bọn đàn ông và họ làm thành một lớp người đặc biệt trong xã hội được gọi là đào nương, ả đào, cô đào. Họ phải bán tài đàn hát để kiếm sống, thậm chí có thể kiếm sống bằng cả thân xác và trở thành vợ thiếp. Số phận, cuộc đời của họ cũng bất hạnh, đau khổ. 5 Trong cuốn “Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa”, tác giả Lê Nguyên Cẩn đã khám phá văn hóa tâm linh cũng như văn hóa ứng xử trong Truyện Kiều. Với văn hóa tâm linh, người Việt Nam đồng thời tiếp nhận cả ba thành tố Nho – Phật – Lão và hòa trộn chúng, theo cách Việt Nam, thành hệ thống quan niệm phục vụ cho đời sống tư tưởng và tâm linh của mình. Ở Truyện Kiều, ta thấy sự hòa trộn đó: bên cạnh các nho gia như Vương ông và Vương Quan, Kim Trọng, hay Hồ Tôn Hiến, còn có các nhân vật đại diện Phật giáo như Giác Duyên, Tam Hợp Đạo Cô và cả một thầy phù thủy nữa. Như vậy, thế giới nhân vật trong tác phẩm này gắn chặt với quan niệm về thế giới tâm linh vốn đã có từ trước trong lòng dân tộc. Còn dưới góc nhìn văn hóa ứng xử, tác giả Lê Nguyên Cẩn cũng đã phân tích những ứng xử của Thúy Kiều theo chữ “Hiếu”, theo đạo tòng phu của Nho giáo, cách cư xử đầy tinh thần sẻ chia trách nhiệm của Thúy Vân, ứng xử của Chung Công theo đạo lý “tình làng nghĩa xóm” “tắt lửa tối đèn” có nhau của dân tộc ta, ứng xử của Kim Trọng đối với Kiều và với gia đình nhà Kiều,… Dưới góc nhìn văn hóa, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn “Truyện Kiều từ góc nhìn nhân học văn hóa” của Lê Minh Huệ (Trường Đại học sư phạm Hà Nội) cũng đã nghiên cứu Truyện Kiều ở nhiều khía cạnh mới như gia đình, dòng họ, hôn nhân, giới tính, ngôn ngữ. Qua sự phân tích cấu trúc về gia đình, các hình thức tổ chức quan hệ dòng họ, những cuộc hôn nhân và giới tính từ góc nhìn nhân học văn hóa, tác giả khẳng định Truyện Kiều đã thể hiện được những đặc trưng của văn hóa trung đại, nói được những vấn đề của xã hội bấy giờ: Đó là sự mục ruỗng của xã hội phong kiến, nỗi khổ của người dân, đặc biệt là những người phụ nữ đẹp; đồng thời cũng nói lên được tiếng nói khát khao hạnh phúc của con người và khẳng định được vai trò của các nhân vật theo đúng giới tính. 6 2.2. Những công trình nghiên cứu riêng về nhân vật Thúy Kiều, từ trước tới nay cũng rất nhiều, song các công trình nghiên cứu tập trung khai thác nghệ thuật xây dựng nhân vật (ngôn ngữ đối thoại, nghệ thuật độc thoại nội tâm nhân vật, …), hoặc so sánh nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du với nhân vật Thúy Kiều trong tác phẩm “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc); so sánh nhân vật Thúy Kiều với nhân vật Dao Tiên trong truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự,…Cũng có một số công trình đã đề cập đến ứng xử của nhân vật Thúy Kiều nhưng chỉ phân tích ứng xử củaThúy Kiều ở một phương diện nào đó như ứng xử trong quan hệ cha con hoặc ứng xử trong tình yêu… mà chưa có sự thống kê đầy đủ và phân tích toàn diện tất cả những ứng xử của nhân vật Thúy Kiều trong các mối quan hệ phức tạp với các nhân vật khác trong tác phẩm. Trên cơ sở kế thừa thành tựu của các công trình nghiên cứu về tác phẩm Truyện Kiều cũng như thành tựu nghiên cứu về nhân vật Thúy Kiều, luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề “Nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du từ góc nhìn văn hóa ứng xử” với hi vọng đem đến nhận thức một cách đầy đủ về những ứng xử của Thúy Kiều trong mối quan hệ phức tạp với các nhân vật trong tác phẩm. 3. Mục đích nghiên cứu Đề tài thực hiện các mục đích: - Tìm hiểu nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du trong các mối quan hệ đan xen phức tạp dưới góc nhìn văn hóa ứng xử. - Phân tích tâm lý, tính cách nhân vật Thúy Kiều thông qua văn hóa ứng xử làm nổi bật phẩm chất, tính cách của nhân vật. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du trong mối quan hệ với các nhân vật khác từ góc nhìn văn hóa ứng xử. 7 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4.2.1. Phạm vi tư liệu Truyện Kiều của Nguyễn Du, Nguyễn Thạch Giang Khảo đính và chú giải, (tái bản lần thứ 7), Nxb Văn học (xuất bản năm 2008) 4.2.2. Phạm vi khoa học Những biểu hiện văn hóa ứng xử của nhân vật Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du: - Văn hóa ứng xử trong tình yêu - Văn hóa ứng xử trong quan hệ gia đình - Văn hóa ứng xử trong quan hệ xã hội - Ý nghĩa của việc tìm hiểu văn hóa ứng xử qua nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu. - Phương pháp khảo sát, thống kê, hệ thống hóa: Người viết tiến hành khảo sát, thống kê và hệ thống hóa những câu thơ theo cách ứng xử của Thúy Kiều. - Phương pháp so sánh: So sánh, đối chiếu để tìm ra điểm khác biệt của nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du với nhân vật Thúy Kiều trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. - Phương pháp liên ngành giữa văn học và văn hóa: Nghiên cứu ứng xử của nhân vật Thúy Kiều theo văn hóa Nho giáo, theo truyền thống đạo lý dân tộc Việt Nam. - Phương pháp phân tích: Phân tích các dẫn chứng để làm sáng tỏ ứng xử của Thúy Kiều trong các mối quan hệ với những nhân vật khác. 6. Đóng góp của đề tài Luận văn nghiên cứu một cách hệ thống nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa ứng xử. Qua đó đưa đến một cái nhìn tổng quát về văn hóa ứng xử của xã hội phong kiến thời bấy giờ, thấy được cụ thể 8 hơn về một phương diện của nền văn hóa của dân tộc. Từ đó khẳng định vai trò to lớn của nhà thơ, nhà văn hóa Nguyễn Du trong lịch sử dân tộc. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn có ý nghĩa thực tiễn, cung cấp thêm tư liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, giảng dạy về Truyện Kiều. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận gồm 3 chương: Chương 1: Văn hóa ứng xử trong tình yêu của nhân vật Thúy Kiều. Chương 2: Văn hóa ứng xử trong quan hệ gia đình của nhân vật Thúy Kiều. Chương 3: Văn hóa ứng xử trong quan hệ xã hội của nhân vật Thúy Kiều. 9 NỘI DUNG Chương 1 VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG TÌNH YÊU CỦA NHÂN VẬT THÚY KIỀU 1.1. Giới thuyết khái niệm 1.1.1. Khái niệm văn hóa Văn hóa là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo, có từ thuở bình minh của xã hội loài người. Văn hóa đã xuất hiện rất lâu trong lịch sử các dân tộc, các quốc gia. Văn hóa là nền tảng, là động lực của quá trình phát triển của cộng đồng nói chung và của từng cá thể trong cộng đồng nói riêng. Có rất nhiều những định nghĩa văn hóa khác nhau tùy theo góc độ của người nghiên cứu muốn nhấn mạnh về phương diện nào đó. Có thể nhìn văn hóa từ góc độ một hệ thống tôn giáo – đạo đức ( Nho – Phật – Đạo), có thể nhìn văn hóa từ góc độ dân tộc – chủng tộc. Từ hình thái xã hội cũng có thể nêu ra định nghĩa về văn hóa. Như chúng ta đã biết, văn hóa là một từ Việt gốc Hán. Theo nhiều tài liệu cổ xưa nhất của Trung Quốc thì người Trung Quốc dịch từ văn hóa là biểu hiện cách nhìn của người phương Đông: văn có nghĩa là “vẻ đẹp”, hóa có nghĩa là “thay đổi, biến đổi”; “giáo hóa”... nói gộp lại, văn hóa hiểu theo nghĩa gốc là “làm cho trở nên đẹp đẽ, văn vẻ”. Vào thế kỉ XIX thuật ngữ “văn hóa” được những nhà nhân loại học phương Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hóa thế giới có thể phân loại ra từ trình độ thấp nhất đến cao nhất và văn hóa của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hóa hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B.Taylo là đại diện của họ. Theo ông, “Văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín 10 ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội”.[65,18 ] Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”.[28, 413] Theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên): văn hóa là: 1. Tổng thể nói chung những giá tri vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Kho tàng văn hóa dân tộc. Văn hóa Phương Đông. Nền văn học cổ. 2. Những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời sống tinh thần ( nói tổng quát ). Phát triển văn hóa. Công tác văn hóa. 3. Tri thức, kiến thức khoa học ( nói khái quát ). Học văn hóa. Trình độ văn hóa. 4.Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh. Sống có văn hóa của nền văn hóa truyền thống dân tộc và phê phán những hành vi ăn nói thiếu văn hóa. 5. Nền văn hóa của một thời kì lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau. Văn hóa rìu hai vai. Văn hóa gốm màu. Văn hóa Đông Sơn. Định nghĩa về văn hóa có tính chất cấu trúc luận, tác giả Phan Ngọc cho rằng: “ Không có vật gì gọi là văn hóa cả và ngược lại bất kì vật gì cũng có cái mặt văn hóa. Văn hóa là một quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân 11 khác. Nét khác biệt giữa các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau là độ khúc xạ. Tất cả mọi cái mà tộc người tiếp thu hay sáng tạo đều có một khúc xạ riêng có mặt ở mọi lĩnh vực và rất khác độ khúc xạ ở một tộc người khác ”. [65, 22] Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa: “ Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. [49, 27] Trước tình hình có rất nhiều định nghĩa về văn hóa, UNETSCO – Tổ chức khoa học và giáo dục Liên hợp quốc đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “ Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần hay vật chất, trí tuệ và xúc cảm, quyết định tính cách của một xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng” [65, 23 - 24 ] Có thể nói, dù mỗi nhà nghiên cứu văn hóa trên thế giới hay ở Việt Nam khi tiếp cận văn hóa đều có cách hiểu, cách tiếp cận riêng, song họ luôn thống nhất rằng, khi nói đến văn hóa là nói đến tất cả những gì trong hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử nhằm đáp ứng nhu cầu của cuộc sống và làm cho tình người phát triển ngày càng cao hơn.Văn hóa là của con người, do con người và cho con người. Không có con người nằm ngoài văn hóa cũng như không có văn hóa nào mà lại không có con người. Con người chính là sản phẩm của xã hội đã xây dựng do những định chế quy định hành vi ứng xử xã hội và hành vi ứng xử bản thân trong không gian xã hội. Xét con người trong một thời đại lịch sử nào đó thì nó sẽ chịu sự phản ánh cả về vật chất lẫn tinh thần của một nền văn hóa mang trong nó tiếng nói, hơi thở, sức sống của dân tộc hay cộng đồng 12 ấy.Văn hoá là quá trình chuẩn mực hóa con người trong các mối quan hệ biểu hiện qua những hành vi ứng xử. Do đó, chúng tôi sẽ xem xét các biểu hiện của văn hóa nói chung từ các góc nhìn khác nhau khi soi chiếu vào nhân vật. 1.1.2. Khái niệm văn hóa ứng xử Văn hoá ứng xử có vai trò rất quan trọng trong đời sống thường nhật và đời sống tâm linh của nhân loại nói chung, của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam nói riêng. Thuật ngữ “ứng xử” có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (chủ biên), nhóm tác giả đưa ra khái niệm “ứng xử” là từ ghép gồm “ứng” và “xử”. “Ứng” là sự ứng đối, ứng phó, “xử” là xử thế, xử lí, xử sự... “Ứng xử” là phản ứng của con người đối với sự tác động của người khác đến mình trong trường hợp cụ thể nhất định. Là sự phản ứng có lựa chọn, tính toán, cách nói năng tùy thuộc vào tri thức, kinh nghiệm và nhân cách của mỗi người nhằm đạt kết quả cao trong giao tiếp. Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, phản ứng của con người chịu sự chi phối của các quan hệ xã hội, dư luận xã hội, phong tục tập quán, truyền thống... tổ chức xã hội. Như vậy, phản ứng của con người không còn là tự nhiên nữa mà ngay cả bản thân mình cũng mang tính chất xã hội. Điều đó chứng tỏ bản chất xã hội của con người được bộc lộ qua các hành vi ứng xử. Như vậy khái niệm ứng xử bao hàm cả nội dung bản chất tự nhiên và bản chất xã hội của con người. Con người cần học hỏi trau dồi kiến thức ngay từ khi còn nhỏ và hòa vào môi trường tập thể để mọi giá trị tinh thần của cá nhân bộc lộ như tình cảm, trí tuệ, tư duy trừu tượng, ngôn ngữ... trong ứng xử với mọi người để cải tạo tự nhiên, xã hội và cải tạo chính bản thân mình. Từ đó khái niệm ứng xử mang những đặc trưng như sau: Ứng xử được bắt nguồn từ mỗi cá nhân cụ thể. Trong trường hợp cụ thể mỗi cá nhân có đặc điểm và nhận thức hành vi ứng xử theo trình độ của mình. 13 Ứng xử chịu sự chi phối của các chuẩn mực xã hội. Chuẩn mực xã hội do các giá trị văn hóa tạo nên, nó điều hòa các mối quan hệ ứng xử theo một trình tự nhất định, từ vị trí xã hội của mỗi cá nhân khác nhau mà có những ứng xử khác nhau. Sự kết hợp hài hòa trong ứng xử của con người giữa “bản chất tự nhiên” và “bản chất xã hội” là do yếu tố văn hóa quy định. Vậy cụm từ “văn hóa ứng xử” được định nghĩa như thế nào? Ứng xử là thành tố của văn hóa. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về cấu trúc văn hóa. Sau đây là một cách tiếp cận. Trong văn hóa, nhân tố hàng đầu là sự hiểu biết nhưng hiểu biết không thôi thì chưa thành văn hóa. Chỉ thành văn hóa khi sự hiểu biết được sử dụng làm nền tảng và định hướng cho lối sống, đạo lý, tâm hồn, hoạt động cho mỗi dân tộc và vươn tới những cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong mối quan hệ giữa người với người, người với môi trường xã hội và tự nhiên. Qua cách tiếp cận trên thì cấu trúc của văn hóa chính là sự hiểu biết, là khả năng ứng xử được thể hiện trong lối sống, đạo lý, tâm hồn, hành động,... chỉ có thể đánh giá được văn hóa của một người thông qua ứng xử của người đó. Văn hóa là các giá trị hình thành trong các mối quan hệ ứng xử căn bản: ứng xử tự nhiên, ứng xử xã hội và ứng xử bản thân. Con người với tự nhiên: tương tác mật thiết, trước hết là ở môi trường sống của con người, cung cấp cho con người những điều kiện cần thiết để tồn tại và phát triển. Con người từ thuở thiếu thời đã gắn với thiên nhiên: cây đa, giếng nước, sân đình, bờ suối, ngàn dâu,... tùy từng vùng miền mà hình tượng nào được xuất hiện nhiều trong văn chương. Thiên nhiên là người bạn, là chứng nhân cho bao nỗi buồn vui của con người.Thiên nhiên là cội nguồn góp phần cung cấp cho con người những nhân cách cao quý. Thuở xưa, xem nhân cách cao quý, các đấng bậc được coi là sản phẩm sẵn có của trời - đất, là sự kết tinh của những gì tốt đẹp nhất trong vũ trụ. Vì thế mà con người vay 14 mượn từ thiên nhiên các mẫu mực để diễn tả những gì liên quan đến con người: ngoại hình, dung mạo, hành vi đến đời sống nội tâm,... Trong ứng xử xã hội của con người: tạo nên các ứng xử giữa người này với người khác. Các hệ chuẩn mực được hình thành trong các hoạt động xã hội của con người rất rộng lớn bao gồm: văn hóa sản xuất, văn hóa tư duy, văn hóa giao tiếp, văn hóa sinh tồn và nhiều hệ chuẩn về các phương diện văn hóa khác của đời sống xã hội được hình thành từ những quan hệ huyết tộc, những mối quan hệ lịch sử, nền kinh tế, chế độ chính trị, hệ tư tưởng, ngôn ngữ,... Người ta biết đến các hệ chuẩn mực về giới tính, về thế hệ, về tuổi tác. Nguyên tắc chung để hình thành những hệ chuẩn mực này là tạo ra sự đồng thuận xã hội, cân bằng về các lợi ích giữ gìn bản sắc và phát triển giao tiếp. Bên cạnh đó còn là những hệ thống chuẩn mực về tinh thần đó là: các chuẩn mực về tín ngưỡng, tâm linh, văn hóa, nghệ thuật, đạo đức, thẩm mỹ,... các chuẩn mực này làm định hướng cho những nhu cầu, những đánh giá, những sở thích của con người trong đời sống xã hội. Các chuẩn mực về thiết chế xã hội, nhằm duy trì và củng cố các những hoạt động văn hóa giữ gìn bản sắc văn hóa. Trong mỗi chuẩn mực xã hội người ta nhìn thấy sự tổng quát. Hệ thống các chuẩn mực xác định bản sắc văn hóa vùng, miền, tộc người, dân tộc về các giai cấp tầng lớp trong xã hội, về giới tính, tuổi trẻ, thế hệ và về rất nhiều những chuẩn mực khác. Do đặc thù lịch sử, dân tộc ta đã chịu đô hộ ngót nghìn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc vì thế văn hóa nước ta cũng bị ảnh hưởng và chi phối theo mô hình ứng xử của phương Đông truyền thống. Ứng xử với bản thân con người: với tư cách là chủ thể hoạt động xã hội, hoạt động năng lực của con người, nguồn lực của con người, thể chất, trí tuệ, tình cảm của con người, phẩm hạnh của con người, thiên hướng của con người, nhận thức, đánh giá sáng tạo của con người... là trung tâm của nền văn 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan