Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nhân vật “lữ khách” trong một số tiểu thuyết của nhà văn kawabata kawabata kawab...

Tài liệu Nhân vật “lữ khách” trong một số tiểu thuyết của nhà văn kawabata kawabata kawabata kawabata yasunari yasunari yasunari

.PDF
83
629
120

Mô tả:

ƯỜ NG ĐẠ Ơ TR TRƯỜ ƯỜNG ĐẠII HỌC CẦN TH THƠ ÂN VĂN KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NH NHÂ Ữ VĂN BỘ MÔN NG NGỮ ẦN TẤN PH ÁT TR TRẦ PHÁ MSSV: 6106344 ÂN VẬT “LỮ KH ÁCH NH NHÂ KHÁ CH”” ỂU THUY ẾT TRONG MỘT SỐ TI TIỂ THUYẾ À VĂN KAWABATA YASUNARI CỦA NH NHÀ Lu Luậận văn tốt nghi nghiệệp đạ đạii học ữ Văn Ng Ngàành Ng Ngữ ng dẫn: ThS.GV. TR ẦN VŨ TH Cán bộ hướ ướng TRẦ THỊỊ GIANG LAM ơ, năm 2013 Cần Th Thơ NG TỔNG QU ÁT ĐỀ CƯƠ ƯƠNG QUÁ ẦN MỞ ĐẦ U PH PHẦ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Mục đích nghiên cứu 4. Phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu ẦN NỘI DUNG PH PHẦ ƯƠ NG 1: NH ỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CH CHƯƠ ƯƠNG NHỮ 1.1. Giới thuyết về nhân vật văn học và nhân vật “lữ khách” trong tác phẩm của Kawabata 1.1.1. Nhân vật văn học 1.1.2. Kiểu nhân vật “lữ khách” trong tác phẩm của Kawabata 1.2 Vài nét về tác giả và tác phẩm 1.2.1. Kawabata - con người và sự nghiệp văn chương 1.2.1.1. Tiểu sử Kawabata Yasunari 1.2.1.2. Sự nghiệp văn chương 1.2.2. Các tác phẩm được khảo sát (Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Người đẹp ngủ mê) 1.2.2.1. Tác phẩm Xứ tuyết 1.2.2.2. Tác phẩm Ngàn cánh hạc 1.2.2.3. Tác phẩm Người đẹp ngủ mê ƯƠ NG 2: NH ÂN VẬT “LỮ KH ÁCH ” TRONG BA TI ỂU THUY ẾT XỨ TUY ẾT, CH CHƯƠ ƯƠNG NHÂ KHÁ CH” TIỂ THUYẾ TUYẾ ÀN CÁNH HẠC, NG ƯỜ P NG Ủ MÊ CỦA KAWABATA YASUNARI NG NGÀ NGƯỜ ƯỜII ĐẸ ĐẸP NGỦ 2.1. Chân dung nhân vật “lữ khách” 2.2. Hành trình khám phá cái đẹp của nhân vật “lữ khách” 3.2.1. Khám phá cái đẹp trong thiên nhiên 3.2.2. Khám phá cái đẹp ở con người ` 3.2.3. Khám phá cái đẹp trong văn hóa Nhật Bản 2.3. Hành trình khám phá bản ngã 2.4. Bi kịch của nhân vật “lữ khách” CH ƯƠ NG 3: NGH Ệ THU ẬT TH Ể HI ỆN KI ỂU NH ÂN VẬT “LỮ KH ÁCH CHƯƠ ƯƠNG NGHỆ THUẬ THỂ HIỆ KIỂ NHÂ KHÁ CH”” ẨM ĐƯỢ C KH ẢO SÁT CỦA KAWABATA YASUNARI TRONG TÁC PH PHẨ ĐƯỢC KHẢ 3.1. Điểm nhìn trần thuật 3.2. Không gian nghệ thuật 2 3.2.1. Không gian bối cảnh 3.2.1. Không gian tâm tưởng 3.3. Thời gian nghệ thuật 3.4. Thủ pháp dòng ý thức 3.5. Giọng điệu trần thuật ẬN KẾT LU LUẬ ỆU THAM KH ẢO TÀI LI LIỆ KHẢ M ỤC L ỤC 3 ẦN MỞ ĐẦ U PH PHẦ ĐẦU 1. Lí do ch chọọn đề tài Nhật Bản từ lâu đã nổi tiếng là một quốc gia mang đậm dấu ấn truyền thống văn hóa phương Đông độc đáo. Nhắc đến Nhật Bản, hầu như người dân trên khắp thế giới đều biết đến núi Phú Sĩ, hoa anh đào, những món ăn truyền thống được chế biến từ hải sản sống mà tiêu biểu là sushi, những loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống chỉ có ở Nhật Bản như trà đạo, kịch Nô…. Tuy nhiên, văn học Nhật Bản vẫn còn là một bí ẩn mà thế giới chưa giải mã hết được. Bạn đọc khắp thế giới dường như chỉ biết nhiều đến thơ Haiku như là đặc sắc, nổi bật của văn học Nhật Bản. Với vị trí địa lí thuận lợi, văn học Nhật Bản tiếp thu tinh hoa của các nước láng giềng đồng thời kết hợp với văn hóa, truyền thống trong nước để tạo nên một nền văn học riêng cho đất nước mình, nền văn học duy mĩ, duy tình. Trong kỉ nguyên hiện đại, văn học Nhật Bản đã sản sinh ra rất nhiều tài năng. Chúng ta có thể nhắc đến Akutagawa (1892-1927) như bậc thầy truyện ngắn Nhật Bản. Tiếp nối Akutagawa là rất nhiều nhà văn nổi bật như Yoko Mitsu Riichi (1898-1947), Ito Su (1905-1967)…. Nhưng người có công mang văn học Nhật Bản đến với thế giới phải kể đến Yasunari Kawabata (18991972). Tài năng của Kawabata phần nào đã được khẳng định khi ông được trao giải Nobel àn cánh hạc (Senbazuru), Cố đô văn học cho bộ ba tiểu thuyết: Xứ tuy tuyếết (Yukiguni), Ng Ngà (Kyoto) năm 1968. Nếu như giải Nobel văn học năm 1968 không được trao cho ông thì Kawabata vẫn là một bí ẩn đối với nền văn học thế giới. Sau khi được nhận giải Nobel văn học năm 1968, các tác phẩm của Kawabata được bạn đọc chú ý nhiều hơn, các nhà nghiên cứu cũng bắt đầu nghiên cứu các tác phẩm của ông. Từ đây, họ phát hiện ra một tâm hồn vĩ đại, một con người làm nhiệm vụ chuyển lưu cái đẹp của xứ sở “Mặt trời mọc” đến với thế giới qua các tác phẩm của mình. Trong buổi phát biểu Di Diễễn từ Nobel của ông, Kawabata đã đề cập đến cụm từ “Nhật Bản, cái đẹp và tôi” như một niềm tự hào về dân tộc, về lí tưởng tôn thờ cái đẹp và xem đó là quan niệm sáng tác của nhà văn. Tiếp nối truyền thống ca ngợi cái đẹp của các nhà văn đi trước, Kawabata đã đóng góp vào kho tàng văn học Nhật Bản những dòng văn mượt mà, tinh tế, giản dị mà thâm sắc, những vẻ đẹp vừa truyền thống vừa hiện đại. Với những ai yêu thích các tác phẩm của Kawabata có thể nhận thấy trong các sáng tác của ông thường xuất hiện một số kiểu nhân vật. Mỗi kiểu nhân vật thường mang những đặc điểm chung về tính cách, hành động, suy nghĩ… và thường xuất hiện với tần suất đều đặn trong các sáng tác của ông. Theo Đào Thị Thu Hằng, có thể liệt kê một số 4 kiểu nhân vật tiêu biểu sau: kiểu nhân vật “lữ khách đi tìm cái đẹp”, kiểu nhân vật “người phụ nữ trong trắng”, kiểu nhân vật “những kẻ lạc loài”…. Tuy nhiên, không nhất thiết một nhân vật trong tác phẩm của Kawabata chỉ thuộc một kiểu nhân vật duy nhất mà đôi khi, một nhân vật có thể cùng lúc vừa thuộc kiểu này, vừa thuộc kiểu kia. Kiểu nhân vật “lữ khách” được các nhà nghiên cứu xem là hình tượng gần nhất với nhà văn Kawabata. Các nhân vật thuộc kiểu này thường muốn đi tìm, khám phá cái đẹp. Đó là những vẻ đẹp tồn tại dưới nhiều hình thức, ở nhiều nơi trong cuộc sống. Kawabata cũng thế, cuộc đời nhà văn là một hành trình đi tìm kiếm cái đẹp. Là một tâm hồn luôn trân trọng cái đẹp, Kawabata đã đề xướng ra trường phái “Tân cảm giác” – một trường phái đề cao vai trò của trực giác trong cảm thụ cái đẹp. Có thế thấy đây chính là hình ảnh một con người luôn luôn muốn khám phá cái đẹp một cách trọn vẹn nhất. Kiểu nhân vật “lữ khách” cũng gần giống với tên gọi mà các nhà nghiên cứu ưu ái gọi nhà văn: “Kawabata – người lữ khách u sầu đi tìm cái đẹp”. Xét về tiểu thuyết của Kawabata, hình tượng nhân vật “lữ khách” khá phổ biến trong các sáng tác. Có thể kể đến Shimamura àn cánh hạc, Eguchi trong Ng ườ p ng ủ mê…. Họ là trong Xứ tuy tuyếết, Kikuji trong Ng Ngà Ngườ ườii đẹ đẹp ngủ những con người luôn luôn trăn trở, say đắm trước cái đẹp. Để làm rõ kiểu nhân vật “lữ khách” trong một số tiểu thuyết của Kawabata nói riêng, cũng như góp phần làm sáng tỏ kiểu nhân vật “lữ khách” trong sáng tác của àn cánh hạc và Ng ườ Kawabata nói chung, người viết chọn các tác phẩm Xứ tuy tuyếết, Ng Ngà Ngườ ườii p ng ủ mê để thực hiện đề tài: “Nh Nh ân vật lữ kh ách trong một số ti à đẹ đẹp ngủ Nhâ khá tiểểu thuy thuyếết của nh nhà àn cánh hạc bởi văn Kawabata Yasunari Yasunari”. Người viết tìm đến tác phẩm Xứ tuy tuyếết và Ng Ngà đây là hai trong ba tác phẩm xuất sắc của Kawabata đoạt giải Nobel văn chương, hình ườ tượng nhân vật “lữ khách” được nhà văn xây dựng rất thành công. Trong khi đó, Ng Ngườ ườii p ng ủ mê được độc giả biết đến như tác phẩm cuối cùng của Kawabata. Tác phẩm khi đẹ đẹp ngủ mới xuất hiện đã gây ra nhiều ý kiến trái chiều trong dư luận, tuy nhiên tác phẩm này được xem là một trong những tác phẩm hay nhất của Kawabata. Sự xuất hiện của “lữ khách” Eguchi đã làm cho yếu tố tính dục trong tác phẩm không hề mang tính dung tục. 2. Lịch sử vấn đề Giải Nobel văn chương năm 1968 đã phần nào khẳng định tài năng của Kawabata. Từ đó, nhiều công trình nghiên cứu, giới thiệu về Kawabata cũng như các tác phẩm của ông dần dần xuất hiện nhằm chứng minh, khẳng định tài năng của Kawabata. Trước tiên, người viết kể đến các công trình giới thiệu chung về Kawabata. Đáng ộc đờ ẩm của tác giả Lưu Đức kể nhất là công trình Yasunari Kawabata, cu cuộ đờii và tác ph phẩ Trung. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về cuộc đời và văn nghiệp của Kawabata 5 và những yếu tố ảnh hưởng đến nghệ thuật của Kawabata. Tác giả khẳng định: “Kawabata là nhà văn rất coi trọng ngôn ngữ. Ngôn ngữ của ông mẫu mực về phong cách Nhật: ngắn gọn, súc tích, sâu sắc. Câu văn mang nhiều biểu tượng và ẩn dụ kì diệu như thơ nhạc” [13;tr.20]. Những nhận xét của tác giả Lưu Đức Trung cho thấy Kawabata rất được đánh giá cao ở nghệ thuật kể chuyện, nhất là khả năng gợi cảm của ngôn từ. áp ti Ngoài ra, tác giả Lưu Đức Trung còn có bài viết Thi ph phá tiểểu thuy thuyếết Yasunari ật Bản nhân kỉ niệm 100 năm sinh của Kawabata Kawabata, nh nhàà văn lớn của Nh Nhậ (1899 – 1999). Trong bài viết này, tác giả trực tiếp khẳng định thi pháp tiểu thuyết của Kawabata là thi pháp chân không. Anders Osterling đã ca ngợi nghệ thuật viết văn của Kawabata tại buổi lễ trao giải Nobel: “Tác phẩm của Kawabata làm ta nhớ đến hội hoạ Nhật Bản; ông là kẻ tôn thờ cái đẹp mong manh và ngôn ngữ hình ảnh u buồn của hiện hữu trong cuộc sống của thiên nhiên và thân phận con người” [1;tr.958]. Lời văn ca ngợi của Anders Usterling cho thấy đặc điểm nổi bật trong nội dung các sáng tác của Kawabata, cái đẹp phải gắn với nỗi buồn. Đây cũng là đặc điểm xuất phát từ quan niệm thẩm mĩ trong truyền thống Nhật Bản, cái đẹp sẽ không hoàn hảo nếu thiếu nỗi buồn. ấu cái đẹ p (Thái Hà dịch ra tiếng Trong bài viết Kawabata – con mắt nh nhììn th thấ đẹp Việt), nhà nghiên cứu N.Fedorenko đã khẳng định: “Chất thơ trong văn xuôi, ngoài ngôn từ điêu luyện, suy nghĩ giàu chất nhân đạo, thái độ trân trọng đối với con người và thiên nhiên, đối với các truyền thống nghệ thuật dân tộc tất cả những cái đó làm cho sáng tác của Kawabata trở thành hiện tượng xuất sắc trong văn học Nhật và văn học thế giới” [6; tr.1052]. Ở đây, tác giả đề cao quan niệm nghệ thuật của Kawabata, quan niệm tìm về giá trị truyền thống. ườ p, trong đó có Năm 1991, Nhật Chiêu có bài Kawabata, ng ngườ ườii cứu rỗi cái đẹ đẹp đoạn: “Đối với Kawabata, người thuộc văn hóa Thiền tông, thì nghệ thuật vô ngôn và dư tình thuộc về truyền thống. Ông vận dụng nghệ thuật ấy một cách tuyệt vời vào tiểu thuyết hiện đại” [4;tr.1074] như một lời khẳng định rằng cái đẹp trong tác phẩm của Kawabata ít nhiều đều bị chịu ảnh hưởng của văn hóa nhà Phật. Mỹ học Kawabata của Khưu Việt Hà đã đề cập đến việc sử dụng biểu tượng như một phương thức biểu hiện cái đẹp: “Ở đây Kawabata đã nhấn mạnh đến việc tìm kiếm những biểu hiện nghệ thuật đặc biệt nhằm mang lại chiều sâu cảm xúc và ngữ nghĩa vô hạn của đối tượng miêu tả” [7;tr.72]. Về vấn đề kiểu nhân vật “lữ khách” trong tác phẩm của Kawabata, dường như chưa có công trình nào đi sâu phân tích cụ thể. Tuy nhiên, trong một số bài viết, các tác 6 giả ít nhiều cũng có đề cập đến vấn đề này. Ở đây, người viết xin đưa ra một số dẫn chứng từ một số bài viết của các tác giả Việt Nam. Trong Văn hóa Nh Nhậật Bản và Yasunari Kawabata của Đào Thị Thu Hằng, tác giả đã dành một mục để nói về các kiểu nhân vật tiêu biểu trong sáng tác của Kawabata. Đề cập đến kiểu nhân vật “lữ khách đi tìm cái đẹp”, tác giả nhận xét: “Không có giới hạn về tuổi tác đối với lữ khách này. Họ có thể chỉ là chàng sinh viên, trẻ trung, “vô sản” như tôi, độc thân như Kikuji, trung niên, có gia đình và giàu sang như Shimamura, hay thậm chí là những ông già như Shingo và Eguchi…. Có nghĩa, đã là con người, là nửa kia, là phái mạnh, thì họ, ai cũng tôn thờ cái đẹp” [9;tr.174]. Những nhận xét trên đã nêu lên những đặc điểm khái quát nhất về “lữ khách” trong tác phẩm của Kawabata. ườ p của nỗi bu ồn có Trong bài viết Yasunari Kawabata - Ng Ngườ ườii đi tìm vẻ đẹ đẹp buồ những câu văn nhận xét về nhân vật Shimamura trong tiểu thuyết trên phương diện một người “lữ khách đi tìm cái đẹp”: “Shimamura, một lữ khách u buồn, như mụ mị đi bởi vẻ đẹp của hoa tuyết đã tan, về mối tình đã mất. Với cái nhìn huyền ảo xuyên suốt qua cõi thực và mơ, "Xứ tuyết" là hình ảnh của thế giới thực và một thế giới ảo cùng soi chiếu vào nhau, tồn tại trong nhau bằng những sắc màu lung linh, huyền ảo” [15]. Đặc điểm của lữ nhân Shimamura cũng là đặc điểm chung của nhiều nhân vật “lữ khách” khác trong các sáng tác của Kawabata. ật Bản của Trần Bài viết Kawabata trong ti tiếến tr trìình hi hiệện đạ đạii hóa văn học Nh Nhậ Thị Tố Loan cũng có những nhận xét về nhân vật Shimamura: “Trong tác phẩm đã trở thành quốc bảo của người Nhật này, tác giả kể về những chuyến về xứ tuyết của lãng tử Shimamura. Tuy sống ở Tokyo bên người vợ xinh đẹp nhưng cuộc sống sôi động nơi đây khiến chàng cảm thấy ngột ngạt. Shimamura đã đáp tàu lên phương Bắc để tận hưởng vẻ đẹp trinh nguyên của con người và thiên nhiên nơi đây và cố tìm lại bản thân mình. Vẻ đẹp của xứ tuyết đã mời gọi chàng đến vào ba mùa xuân, thu, đông. Lần nào chàng cũng choáng ngợp trước vẻ đẹp của cảnh tuyết dát bạc trên các sườn núi và tâm hồn thuần khiết của con người nơi đây” [20]. Những nhận xét khiến chúng ta cảm thấy như Shimamura mang dáng dấp của một người xê dịch đi tìm cái đẹp, một cái đẹp hiện hữu trong thiên nhiên lẫn con người nơi Xứ tuy tuyếết. úc hướ ng nội trong ti Trong bài viết Cấu tr trú ướng tiểểu thuy thuyếết Y.Kawabata của PGS.TS Nguyễn Văn Hạnh đăng trên diễn đàn Văn học và học văn có đoạn: “Có cùng tâm trạng ấy là Simamura, một lữ khách cô đơn trong Xứ tuyết, người đã từ bỏ cuộc sống phố phường ồn ào, phồn tạp để tìm kiếm vẻ đẹp nguyên sơ thuần phác trong thiên nhiên. Chính ở đây, nơi miền bắc xa xôi phủ đầy tuyết trắng, Simamura đã nghe được tiếng lòng mình và nhận ra cái đẹp đích thực trong tâm hồn trong sáng đến mức thánh thiện của 7 Komako, được “trầm tư chiêm ngưỡng về sự phong phú về cái đẹp thánh thiện của những kiếp phù du” ” [14]. Vẫn là nhận xét thiên về nhân vật Shimamura, PGS.TS Nguyễn Văn Hạnh đã cho thấy được đặc điểm kiểu nhân vật “lữ khách” của Kawabata: trong cuộc hành trình tìm kiếm cái đẹp, nhân vật “lữ khách” còn tìm về với bản ngã của chính mình. ng cu ộc hành tr ở về xứ tuy ẩm Bài viết Ý ngh nghĩĩa bi biểểu tượ ượng cuộ trìình tr trở tuyếết trong tác ph phẩ Xứ tuy tuyếết của Yasunari Kawabata của Lê Thanh Huyền có đoạn: “Hình ảnh một con người hiện diện trong tác phẩm với những cuộc hành trình tìm về quá khứ, về truyền thống, về cái đẹp phôi pha là biểu tượng cho một nỗi niềm đau xót trước sự mất mát giá trị văn hóa dân tộc, và nhiều hơn thế. Với mỗi tác phẩm, hình tượng nhân vật hành trình lại chứa đựng những ngầm ẩn tượng trưng riêng nhưng bao giờ cũng gợi lên hình ảnh người lữ khách u sầu Kawabata lang thang tìm cái đẹp trong cảm hứng mất mát. Kiểu nhân vật hành trình là một sáng tạo biểu tượng của Y. Kawabata. Đó là biểu tượng cho chủ thể nhà văn” [17]. Tác giả bài viết đã nêu lên ý nghĩa thật sự đằng sau những cuộc hành trình của “lữ khách”, đồng thời khẳng định nhân vật “lữ khách” chính là hóa thân của Kawabata. Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu đáng kể về Yasunari Kawabata cũng như các tác phẩm của nhà văn. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu toàn diện, đi sâu phân tích phân tích cụ thể về kiểu nhân vật “lữ khách” trong tiểu thuyết của Kawabata nói riêng. Tất cả mới dừng lại ở những nhận định, đánh giá. Người viết xem đó là nền tảng để triển khai luận văn. 3. Mục đí ch nghi đích nghiêên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là để làm sáng tỏ kiểu nhân vật “lữ khách” àn cánh hạc và Ng ườ p ng ủ mê. Từ đó phát hiện trong tiểu thuyết Xứ tuy tuyếết, Ng Ngà Ngườ ườii đẹ đẹp ngủ những đặc điểm của kiểu nhân vật này trong các tác phẩm được nghiên cứu, đồng thời giúp bạn đọc tiếp cận với tác phẩm một cách dễ dàng hơn. Bởi nhân vật luôn là công cụ giúp người đọc thấu hiểu, đồng cảm với tác giả cũng như nhận diện nhân vật là nhiệm vụ trước khi bước vào đọc tác phẩm. Với việc tập trung làm sáng tỏ kiểu nhân vật “lữ khách” trong các tiểu thuyết Xứ ườ p ng ủ mê, có thể nói luận văn nghiên cứu cụ thể kiểu tuy tuyếết, Ng Ngààn cánh hạc và Ng Ngườ ườii đẹ đẹp ngủ nhân vật “lữ khách” trong ba tác phẩm kể trên. Ngoài ra, luận văn còn khái quát đôi nét về Kawabata, quan niệm sáng tác của ông cũng như nghệ thuật xây dựng nhân vật “lữ àn cánh hạc, Ng ườ p ng ủ mê. Từ đó đánh giá khách” trong ba tác phẩm Xứ tuy tuyếết, Ng Ngà Ngườ ườii đẹ đẹp ngủ được những đóng góp của Kawabata trong kho tàng tiểu thuyết Nhật Bản. 8 ạm vi nghi 4. Ph Phạ nghiêên cứu Bài viết đi sâu vào quá trình nghiên cứu kiểu nhân vật “lữ khách” trong tiểu thuyết Xứ tuy ườ p ng ủ mê, do đó người viết chủ yếu sử dụng tư liệu tuyếết, Ng Ngààn cánh hạc, Ng Ngườ ườii đẹ đẹp ngủ ườ p ng ủ mê. Về văn bản, người viết từ tác phẩm Xứ tuy tuyếết, Ng Ngààn cánh hạc và Ng Ngườ ườii đẹ đẹp ngủ khảo sát các văn bản dịch: Ng Ngààn cánh hạc của dịch giả Trùng Dương, Xứ tuy tuyếết của hai ườ p ng ủ mê của Quế Sơn. dịch giả Ngô Văn Phú và Vũ Đình Bình, Ng Ngườ ườii đẹ đẹp ngủ Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, người viết còn đề cập đến các bài nghiên cứu, bài báo về Kawabata, các công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề để cơ sở lập luận thêm sức thuyết phục cũng như làm dẫn chứng để nêu luận điểm chính. Phạm vi đề tài: nghiên cứu đặc điểm của kiểu nhân vật “lữ khách” cũng như nghệ thuật thể hiện kiểu nhân vật này trong một số tiểu thuyết của nhà văn Kawabata. ươ ng ph 5. Ph Phươ ương phááp nghi nghiêên cứu Để thực hiện đề tài này, người viết có sử dụng một số phương pháp sau: Phương pháp lịch sử: đặt tác phẩm trong thời gian tác phẩm ra đời để hiểu được tác phẩm một cách sâu sắc. Đồng thời cho thấy sự tác động, ảnh hưởng của các hiện tượng, sự kiện lịch sử đối với vấn đề. Phương pháp so sánh, đối chiếu: giúp hiểu rõ bản chất, vị trí của vấn đề trong các mối tương quan đa chiều của nó. Hơn nữa, tiến hành so sánh kiểu nhân vật “lữ khách” trong các sáng tác của Kawabata nhằm tìm ra nét chung phổ quát cũng như khẳng định nét đặc sắc, riêng biệt về kiểu nhân vật “lữ khách” trong tác phẩm. Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích văn bản tác phẩm để tìm ra được đặc điểm của kiểu nhân vật “lữ khách”. Ngoài ra, người viết còn sử dụng một số thao tác như chứng minh, bình luận, giải thích… Trên đây là một số phương pháp, thao tác được sử dụng trong quá trình nghiên cứu. Việc vận dụng các phương pháp, thao tác này trong bài viết được tiến hành phối hợp nhằm làm sáng tỏ vấn đề mà người viết nói tới. 9 ẦN NỘI DUNG PH PHẦ ƯƠ NG 1: NH ỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CH CHƯƠ ƯƠNG NHỮ ới thuy ân vật “lữ kh ách ” trong 1.1. Gi Giớ thuyếết về nh nhâân vật văn học và nh nhâ khá ch” tác ph phẩẩm của Kawabata 1.1.1. Nh Nhâân vật văn học Giáo trình Lý lu luậận văn học định nghĩa về nhân vật “Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học” [12;tr.277] hay “Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi đó là hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng.” [12;tr.277]. ữ văn học, Lại Nguyên Ân cho rằng: “Nhân vật văn học là sự Trong 150 thu thuậật ng ngữ thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người, nên có thể được xây dựng chỉ dựa trên cơ sở quan niệm ấy” [2]. Có thể nói, nhân vật là hình thức cơ bản để miêu tả con người trong văn học. Do đó, “nhân vật văn học” là một thuật ngữ dùng để chỉ những hình tượng nghệ thuật về con người. Biểu hiện của nhân vật trong tác phẩm rất đa dạng. Đối với các tác phẩm tự sự, nhân vật được phác họa một cách khá đầy đủ từ ngoại hình đến nội tâm. Trong khi đó, ở các tác phẩm trữ tình, nhân vật chỉ được bộc lộ qua cảm xúc, ý nghĩ. Có nhân vật hiện lên như một người bình thường, lại có nhân vật có “ba đầu sáu tay”. Nói chung, nhân vật văn học rất đa dạng. Nhân vật văn học có những đặc điểm khác với nhân vật của các loại hình nghệ thuật khác. Do hình tượng văn học là hình tượng “phi vật thể” cho nên nhân vật văn học là nhân vật tưởng tượng, chứ không phải là nhân vật “hữu hình” như trong các ngành nghệ thuật điêu khắc, hội họa, điện ảnh….Nhân vật văn học được cảm nhận rất khác nhau bởi khả năng liên tưởng, tưởng tượng của con người không giống nhau. Nhân vật văn học là một phạm trù thẩm mĩ. Vì thế, không nên đồng nhất giữa nhân vật văn học với con người thật. Nhân vật văn học chỉ là một khối thẩm mĩ được nhà văn mô tả như là sự bắt chước con người ngoài đời thực, nhưng bao giờ nhân vật văn học cũng chịu ảnh hưởng bởi quan niệm, cảm nhận của cá nhân. Nhân vật văn học luôn có những đặc trưng nghệ thuật riêng và được thể hiện trong tác phẩm thông qua các biện pháp nghệ thuật của nhà văn. Tuy nhiên, không vì thế mà nhân vật văn học kém phần chân thật. Nhà văn dùng nhân vật để nêu lên quan niệm về con người, cuộc đời, cũng như lí giải, cắt nghĩa con người, cuộc đời thấm đẫm thị hiếu thẩm mĩ. Do đó, khi đọc một tác 10 phẩm, tìm hiểu một nhân vật, ta không chỉ hiểu được một con người, một mảnh đời mà còn hiểu được ý nghĩa cuộc đời đằng sau mỗi số phận. Sức sống của một nhân vật văn học không chỉ nằm ở nghệ thuật miêu tả mà quan trọng nhất là ở tính điển hình. Một nhân vật có sức sống lâu bền là một nhân vật mang tính điển hình cao, là nhân vật ta có thể tìm thấy giữa cuộc đời. Đó là những nhân vật làm cho tên tuổi nhà văn trở thành bất tử. Là một phần của nhân vật văn học, nhân vật trong tiểu thuyết mang những đặc điểm chung vốn có của nhân vật văn học. Tuy nhiên, kiểu nhân vật này vẫn mang những nét riêng của thể loại tiểu thuyết. Trong cuốn Lí lu luậận văn học, nhà nghiên cứu Phương Lựu cũng có viết: “Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn phổ biến trong thời cận đại và hiện đại. Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [12;tr.387]. Vậy tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn có hư cấu, phổ biến trong thời cận đại và hiện đại, mà thông qua nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn, đề cập đến những vấn đề của cuộc sống con người, cũng như biểu hiện tính chất tường thuật, tính chất kể chuyện bằng ngôn ngữ xác định. Có thể nói nhân vật là yếu tố quan trọng nhất trong tiểu thuyết. Tiểu thuyết sẽ không thể nào tồn tại nếu không có nhân vật. Do đó, vấn đề quan trọng, được chú ý nhiều trong tiểu thuyết là vấn đề xây dựng nhân vật. Nhân vật trong tiểu thuyết không giống với các nhân vật trong các thể loại khác. Họ có những đặc điểm riêng mà các nhân vật trong thể loại khác không có được. Trong truyện ngắn, nhân vật chỉ được đặt trong thời gian gắn với những sự kiện, biến động lớn, do đó người đọc không thể nắm bắt về cuộc đời, không thể hiểu rõ tiểu sử của các nhân vật. Trong khi đó, với khuôn khổ rộng lớn của mình, nhân vật tiểu thuyết luôn được khai thác, miêu tả một cách tỉ mỉ. Tiểu thuyết còn có khả năng tạo được hình tượng điển hình từ nhiều con người khác nhau, từ bối cảnh khác nhau, điều mà thể loại kí không làm được. Thông qua nhân vật trong tiểu thuyết, người đọc có thể thấy được bộ mặt của con người, đồng thời thấy được ý nghĩa nhân sinh mà tác giả gửi gắm, chia sẻ trong tác phẩm. Có thể nói, nhân vật trong tiểu thuyết là cầu nối giữa thế giới thực và thế giới ảo trong tác phẩm. Nhân vật trong tiểu thuyết nhất thiết là phải những con người nếm trải, nghĩa là số phận của họ phải do logic của cuộc đời quy định. Do đó, nhân vật trong tiểu thuyết luôn có mối quan hệ mật thiết với hoàn cảnh. Đôi khi, chính hoàn cảnh làm thay đổi cuộc đời 11 của nhân vật hoặc ngược lại, nhân vật tạo ra một hoàn cảnh khác với hoàn cảnh ban đầu của câu chuyện. Hoàn cảnh ở đây được xem như yếu tố ảnh hưởng, tác động lớn đến nhân vật. Nhân vật trong tiểu thuyết được nhà văn xây dựng bằng vốn sống, sự hiểu biết về nhân vật và được miêu tả thông qua xung đột, biến cố cuộc đời hay đôi khi là mâu thuẫn nội tâm. Vì vậy, nhân vật trong tiểu thuyết gần giống như con người trong cuộc sống. Nghĩa là mỗi nhân vật đều có cá tính, cuộc đời, số phận riêng. Điều đó được thể hiện qua ngoại hình và nội tâm của nhân vật. Nhân vật trong tiểu thuyết đôi khi mang tính tự thân, thoát khỏi sự kiểm soát của tác giả để đi theo số phận, quy luật cuộc đời. Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa thì nhân vật trong tiểu thuyết phải là hiện thân cho tư tưởng của nhà văn. Như vậy, có thể thấy nhân vật trong tiểu thuyết luôn luôn phong phú, đa dạng, không kém phần hấp dẫn, và quan trọng hơn, nhân vật trong tiểu thuyết có thể khái quát được hiện thực xã hội, khái quát được quan điểm của nhà văn. 1.1.2. Ki Kiểểu nh nhâân vật “lữ kh kháách ch”” trong tác ph phẩẩm của Kawabata Nhắc đến kiểu nhân vật trong văn học là nhắc đến những con người được miêu tả và thể hiện bằng nghệ thuật ngôn từ trong tác phẩm văn học. Trong tác phẩm văn học, đặc biệt trong thể loại tiểu thuyết, việc xây dựng kiểu nhân vật luôn là vấn đề quan trọng và được các nhà văn đặc biệt quan tâm. Văn học phản ánh hiện thức khách quan thông qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Chủ thể trong tác phẩm đóng vai trò như những “tấm gương” của cuộc sống. Kiểu nhân vật trong tác phẩm vì thế trở thành nơi thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn trong một thời điểm nhất định. Có thể nói, sự thành bại của một tác phẩm phụ thuộc vào sự tinh tế của mỗi nhà văn trong việc lựa chọn và xây dựng nhân vật theo một kiểu nhất định. Trong lịch sử văn học thế giới, các nhà văn đã sáng tạo ra nhiều kiểu nhân vật khác nhau, góp phần làm đa dạng thế giới nhân vật trong các tác phẩm. Có thể kể đến kiểu nhân vật kiếm tìm với hình ảnh Jăng Van Jăng trên cuộc hành trình tìm kiếm một xã hội ững ng ườ ổ giàu có về vật chất, dạt dào về lòng yêu thương trong tác phẩm Nh Nhữ ngườ ườii cùng kh khổ của V. Hugo, hay cuộc tìm kiếm chân lí Fauxt trong vở kịch cùng tên của tác giả J. V. Gothe. Ở Việt Nam, nhà văn Hồ Biểu Chánh nổi bật với kiểu nhân vật hành đạo như nhân ng mùi đờ vật Trần Cao Đàng trong Cay đắ đắng đờii, Kỳ Tâm trong Tỉnh mộng hay Lê Văn Đó trong Ng Ngọọn cỏ gi gióó lùa. Nhà văn Võ Thị Xuân Hà, một cây bút nữ trong văn học đương đại Việt Nam cũng chọn cho mình một kiểu nhân vật trong các sáng tác là kiểu nhân vật bản năng. Riêng với kiểu nhân vật “lữ khách”, người đọc có thể tìm thấy kiểu nhân vật này nhiều nhất trong các tác phẩm văn học Nhật Bản. Có thể nói, “lữ khách” là một khái niệm 12 gắn liền với con đường. “Lữ khách” là những người hoặc có sở thích đi du lịch, hoặc quá trình đi là quá trình tìm kiếm, trăn trở cả một đời. Từ khởi thủy của văn học Nhật Bản đã xuất hiện kiểu nhân vật “lữ khách”. Có lẽ người khởi xướng cho kiểu nhân vật “lữ khách” ng sâu th ẳm. Toàn tập thơ trong văn học Nhật Bản là nhà thơ Basho với tập thơ Con đườ đường thẳ như khúc giao hưởng giữa một tâm hồn đang hòa nhập với cuộc sống. Xuyên suốt trong các tác phẩm là cuộc hành trình của nhân vật trữ tình đi tìm cái đẹp nơi thiên nhiên miền Bắc xa xôi. Ảnh hưởng bởi tính chất lữ nhân trong thơ Basho, Kawabata cũng sáng tạo ra kiểu nhân vật “lữ khách” của riêng mình. Nhân vật “lữ khách” trong tác phẩm của Kawabata nói chung và trong tiểu thuyết của nhà văn nói riêng đều mang đặc điểm chung về giới tính, họ là những người thuộc phái mạnh, là những con người không bị giới hạn về tuổi tác, xuất thân. Những “lữ khách” của Kawabata, mặc dù luôn chìm đắm trong cái đẹp, sống trong cái đẹp nhưng chưa bao giờ họ sở hữu được những vẻ đẹp ấy. Đó chính là lí do họ dành cả cuộc đời để tìm kiếm cái đẹp. Vẻ đẹp mà những “lữ khách” của Kawabata tìm kiếm là vẻ đẹp hiện diện nơi người phụ nữ - vẻ đẹp tác động mạnh vào tâm hồn tinh tế của “lữ khách” một cách sâu sắc, là vẻ đẹp của thiên nhiên, sự thấu thị về thiên nhiên, sự tương giao giữa nội tâm và thiên nhiên khiến tâm hồn “lữ khách” đạt đến sự tự do về tinh thần, và là vẻ đẹp của những giá trị truyền thống đang dần bị lãng quên. Các nhân vật “lữ khách” của Kawabata – những người dành cả cuộc đời để khám phá cái đẹp thì cuối cùng chính họ lại rơi vào bi kịch của cái đẹp. Kết thúc cuộc hành trình của những “lữ khách” chỉ là sự trống rỗng, day dứt trong tâm hồn. Tuy nhiên, họ cũng đã từng được sống trong cảm giác chân – thiên – mĩ rất con người và điều đó thôi thúc bước chân “lữ khách” không bao giờ bỏ cuộc trên con đường tìm kiếm cái đẹp dù phía trước họ còn nhiều khó khăn, thử thách. Với việc lựa chọn cho mình kiểu nhân vật “lữ khách” – kiểu nhân vật được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng là hóa thân của bản thân Kawabata – làm kiểu nhân vật chủ đạo trong sáng tác đã giúp nhà văn gặt hái nhiều thành công trên con đường văn nghiệp của mình. Kiểu nhân vật “lữ khách” khẳng định được nét riêng biệt không lẫn vào đâu của những tác phẩm mang “thương hiệu” Kawabata. Ngoài ra, kiểu nhân vật “lữ khách” còn một lần nữa khẳng định sự quan trọng của việc lựa chọn kiểu nhân vật phù hợp với mỗi nhà văn trong sáng tác để đạt đến thành công ẩm 1.2. Vài nét về tác gi giảả và tác ph phẩ 1.2.1. Kawabata – con ng ườ ươ ng ngườ ườii và sự nghi nghiệệp văn ch chươ ương 13 1.2.1.1. Tiểu sử Kawabata Yasunari Kawabata Yasunari (1899-1972), sinh ra ở một làng quê gần thành phố Osaka, là một người có nhiều thăng trầm trong cuộc đời. Thuở nhỏ, Kawabata đã sớm mồ côi từ năm hai tuổi. Nhà văn và chị ruột đến sống cùng ông bà ngoại. Khoảng thời gian từ bảy tuổi đến mười bốn tuổi là khoảng thời gian mất mát rất lớn đối với bản thân Kawabata khi lần lượt cả ông bà ngoại và người chị của ông đều qua đời. Từ đó, Kawabata phải về sống cùng với gia đình người dì. Thuở nhỏ, Kawabata thích vẽ tranh và ấp ủ ước mơ trở thành họa sĩ. Tuy nhiên, với việc ghi danh vào học tại Đại học Tổng hợp Tokyo năm 1920, Kawabata đã quyết định theo nghiệp văn chương. Năm đầu Kawabata học ở Khoa văn học Anh, lên năm thứ hai ông chuyển sang nghiên cứu văn học Nhật Bản và ra trường với đề tài tốt nghiệp về văn học Nhật Bản. Thời sinh viên, Kawabata tham gia rất nhiều các hoạt động văn học. Ông cùng với một số bạn bè sáng lập nên tạp chí Trào lưu mới (Shino). Ngoài ra, ông còn hoạt động trong một số tạp chí nổi tiếng đương thời như Văn nghệ Xuân Thu (Bungei Shunzui), Văn nghệ thời đại (Bungei Jidai). Cũng trong thời gian này, Kawabata yêu say đắm một người thiếu nữ. Ông đã cùng nàng hứa hôn nhưng khi tất cả đã chuẩn bị xong xuôi thì người thiếu nữ bất ngờ hủy hôn không một lời giải thích. Từ đó, người phụ nữ ấy trở thành nỗi ám ảnh đối với Kawabata và trở thành hình mẫu “người phụ nữ trong trắng” trong các tiểu thuyết của ông. Sau khi tốt nghiệp đại học 1924, Kawabata trở thành đại biểu của trường phái Tân cảm giác theo trào lưu văn học và văn hóa châu Âu, phủ nhận chủ nghĩa tự nhiên, chú trọng đặt cảm xúc và cảm giác vào trung tâm của tác phẩm. Đương thời, tiếng nói của Kawabata rất có giá trị, ông là người quyết định số phận sự nghiệp của các nhà văn trẻ. Tuy nhiên, cuộc sống riêng tư sau này của ông ít được sách vở nhắc đến. Kawabata từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như chủ tịch Hội văn bút Nhật Bản từ năm 1948 – 1965, thành viên của viện Hàn lâm Nhật Bản năm 1953, phó chủ tịch Hội văn bút quốc tế năm 1959. Cũng trong năm 1959, ông được trao tặng Huân chương Goethe tại Fankurf. Năm 1968 đánh dấu một cột mốc quan trọng trong cuộc đời văn nghiệp của Kawabata khi ông được trao tặng giải Nobel của Viện Hàn lâm Thụy Điển với ba tác phẩm Xứ tuy tuyếết, Ng Ngààn cánh hạc và Cố đô đô. Năm 1972, tức là bốn năm sau khi đoạt giải Nobel văn chương, Kawabata tự sát bằng khí gas tại nhà riêng. Đây là một điều bất ngờ bởi trước đó nhà văn luôn phê phán 14 việc tự tử trái với quy luật tự nhiên. Cho đến nay, cái chết của Kawabata vẫn còn là bí ẩn bởi lúc chết, nhà văn không để lại bức thư tuyệt mệnh nào. 1.2.1.2. Sự nghiệp văn chương Sự nghiệp sáng tác của Kawabata rất phong phú và hầu như ở thể loại nào, nhà văn cũng đạt được những thành công nhất định. Mảng truyện ngắn của Kawabata có thể kể ững truy ắn trong đến một số tác phẩm tiêu biểu như Vũ nữ Izu Izu, Lễ chi chiêêu hồn, Nh Nhữ truyệện ng ngắ ững truy lòng bàn tay tay, Cánh tay tay…. Trong đó, Nh Nhữ truyệện trong lòng bàn tay là những truyện mà nhà văn cảm thấy hài lòng nhất, là tập hợp những truyện có dung lượng ngắn nhưng nội dung chứa đựng nhiều triết lí sâu xa về con người, vũ trụ. Đây được xem là thể loại có nhiều đặc điểm gần giống với thơ Hai-ku của Nhật Bản. Với Kawabata, đó là những câu chuyện chứa đựng cả một hồn thơ tuổi trẻ. Năm 1925 đánh dấu sự thành công của Kawabata với truyện ngắn Vũ nữ Izu Izu. Câu chuyện kể về mối tình của một chàng sinh viên trẻ với một cô gái trong một gánh hát gia đình lưu động. Người đọc bị ấn tượng bởi chính câu chuyện được kể và khả năng miêu tả của Kawabata. Ngoài ra, kiểu nhân vật “người phụ nữ trong trắng” lần đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm. Kiểu nhân vật này sẽ còn xuất hiện trong các sáng tác của Kawabata sau này. Vũ nữ Izu được xem như kiệt tác đầu tay của Kawabata. Một tác phẩm cũng rất thành công về thể loại truyện ngắn của Kawabata là truyện Cánh tay tay. Câu chuyện kể về một đêm âu yếm giữa nhân vật tôi và cánh tay của người yêu, chỉ là cánh tay nhưng nó có sức hấp dẫn như người phụ nữ. Người đọc bị ấn tượng bởi những cảm giác lạ lùng cũng như thủ pháp nghệ thuật trong tác phẩm. Tuy nhiên, ý nghĩa chính xác của tác phẩm đến bây giờ vẫn chưa được khám phá. Tác phẩm đã sử dụng những thủ pháp của chủ nghĩa siêu thực khiến khả năng tưởng tượng của nó trở nên phong phú. Đó là lí do khiến tác phẩm trở nên lôi cuốn người đọc. Tác phẩm Cánh tay đã được các nhà phê bình ví như bức tranh của trường phái tưởng tượng. ủy nguy Ngoài ra, còn có thể nhắc đến truyện ngắn Th Thủ nguyệệt, tác phẩm sử dụng rất thành công thủ pháp “chiếc gương soi” – một thủ pháp khá phổ biến trong các sáng tác của Kawabata. Đây là tác phẩm được đưa vào chương trình văn học nước ngoài giảng dạy phổ thông. Tuy nhiên, thành công rực rỡ trong văn nghiệp của Kawabata là mảng tiểu thuyết. àn cánh hạc (1951), Cố Đỉnh cao của thể loại này bộ ba tác phẩm Xứ tuy tuyếết (1947), Ng Ngà đô (1961). Chính ba tác phẩm này đã mang đến cho ông vinh dự nhận giải Nobel của Viện Hàn lâm Thụy Điển năm 1968. Xứ tuy tuyếết là tiểu thuyết đầu tiên của Kawabata, được nhà văn bắt đầu viết từ năm 1934, đăng nhiều kì từ 1935 đến 1937 và hoàn tất vào năm 1947. Tác phẩm kể về mối 15 tình giữa Shimamura, một tay chơi ở Tokyo và một geisha tên Komako ở một thị trấn xa xôi mà quanh năm được phủ bởi tuyết. Vẻ đẹp của khung cảnh, của những ngôi làng, của thiên nhiên và đặc biệt là của những người phụ nữ hòa quyện vào nhau trong tác phẩm đã làm tác phẩm mang một màu cổ điển. àn cánh Tiếp theo sự thành công của Xứ tuy tuyếết là sự xuất hiện của tác phẩm Ng Ngà hạc vào năm 1957. Khi vừa mới xuất hiện, tác phẩm ngay lập tức đã đoạt giải thưởng của Viện Hàn lâm nghệ thuật Nhật Bản. Tác phẩm không đơn thuần là câu chuyện về thú chơi nghệ thuật truyền thống – trà đạo mà còn chứa đựng vấn đề ý thức xã hội của thế hệ trà đạo và hậu trà đạo. Trong tác phẩm của mình, Kawabata đã cố gắng chỉ ra sự thoái hóa của nghệ thuật trà đạo. Tuy nhiên, cái cuối cùng đọng lại trong tác phẩm lại là vẻ đẹp trong trắng của cô gái mang mang chiếc khăn ngàn cánh hạc, một vẻ đẹp hiện thân cho những giá trị truyền thống. Tác phẩm cuối cùng trong bộ ba tác phẩm đoạt giải Nobel: Cố đô được hoàn thành vào năm 1962. Trong tác phẩm, hình ảnh đất nước Nhật Bản xinh đẹp với những chùa chiền, những khóm hoa anh đào, những lễ hội truyền thống và ấn tượng hơn cả là tình cảm của người Nhật Bản được thể hiện thông qua các nhân vật. Cố đô là tiểu thuyết tâm lí sắc sảo, Kawabata đã đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm của nhân vật, điều này thể hiện rõ qua suy nghĩ, trăn trở của Chieko. Người đọc đến với tác phẩm chắc hẳn sẽ ấn tượng với vẻ đẹp của thành phố Kyoto. Sẽ là thiếu sót nếu chỉ nhắc đến bộ ba tiểu thuyết đoạt giải Nobel của Kawabata. Ngoài bộ ba tiểu thuyết kể trên, có thể nhắc đến tiểu thuyết Ti Tiếếng rền của núi (19501952). Đây là tiểu thuyết viết về cái chết cũng như những linh cảm về cái chết. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống của gia đình ông Shingo sau chiến tranh và những mối quan hệ của các thành viên trong gia đình: ông Shingo có cảm tình với cô con dâu Kikuko, Suychi, chồng của Kikuko có người tình bên ngoài. Câu chuyện kết thúc mà chưa có hồi kết làm người đọc cảm thấy mọi thứ dường như còn dang dở. Vào cuối đời, lúc Kawabata đã bảy mươi tuổi, ông cho ra mắt cuốn tiểu thuyết cuối ườ p ng ủ mê. Cuốn tiểu thuyết này được coi là hiện tượng lạ của văn học cùng Ng Ngườ ườii đẹ đẹp ngủ ườ p ng ủ mê được Nhật Bản và là cuốn tiểu thuyết mà người phương Tây rất thích. Ng Ngườ ườii đẹ đẹp ngủ kể bằng văn phong dòng ý thức, những liên tưởng trong tác phẩm được gợi lên đẹp đẽ và biểu lộ một cách rõ ràng. Sự kiện chồng chất và những giấc mơ quy định sự phức tạp của câu chuyện khiến nó không còn đơn điệu. Tình yêu trong tác phẩm mang màu sắc chua xót bởi những người đàn ông nằm bên cạnh các cô gái nhưng không thể xâm phạm đến sự trong trắng của họ. 16 ủ cờ Go Bản thân Kawabata cho rằng, tác phẩm hay nhất của ông là Danh th thủ (1951). Câu chuyện kể về một ván cờ vào năm 1938 mà nhà văn tường thuật cho báo Mainichi. Đó là ván cờ cuối cùng của danh thủ Shusai, ông đã thua người thách đấu trẻ tuổi hơn mình rồi qua đời một năm sau đó. Một số độc giả cho rằng câu chuyện ẩn dụ cho thất bại của Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ hai, số khác lại lại coi đó là cuộc đấu tranh giữa truyền thống và hiện đại. Kawabata còn viết tiểu luận phê bình, các tiểu luận của ông mang đậm dấu ấn cá nhân, một số công trình có ý nghĩa đối với giới văn học. Có thể kể đến hai công trình tiểu ối cùng (1933) và Di ật Bản, cái luận phê bình của ông như Cái nh nhììn cu cuố Diễễn từ Nobel: Nh Nhậ p và tôi (1968). đẹ đẹp 1.2.2. Các tác ph ứ tuy ườ phẩẩm đượ đượcc kh khảảo sát (X (Xứ tuyếết, Ng Ngààn cánh hạc, Ng Ngườ ườii đẹ đẹpp say ủ) ng ngủ 1.2.2.1. Tác phẩm Xứ tuyết Tiểu thuyết Xứ tuy tuyếết được viết và chỉnh sửa trong mười hai năm (từ năm 1934 đến năm 1947). Cốt truyện tuy khá đơn giản nhưng lại khó nắm bắt. Shimamura, một hóa thân của “lữ nhân” Kawabata đam mê nhiều thứ trong cuộc sống. Quá trính đam mê nhiều thứ ấy chính là quá trình đi tìm cái đẹp. Trong nghệ thuật, anh khát khao dung hòa giữa nghệ thuật truyền thống Nhật Bản và nghệ thuật phương Tây. Trong tình yêu, anh khao khát dung hòa vẻ đẹp của hai cô gái Komako va Yôko. Tiểu thuyết Xứ tuy tuyếết kể về câu chuyện của nhân vật Shimamura, một người thành đạt, giàu có, đã có vợ con ở Tokyo, trở lại một lần nữa để ngắm cảnh vào mùa thu và tắm suối nước nóng ở vùng núi nơi anh đã đến vào sáu tháng trước. Trên chuyến tàu đến vùng núi này, anh tình cờ gặp được Yôko, một người con gái đang chăm sóc một người đàn ông bị ốm và ngay lập tức, anh bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của Yôko, một vẻ đẹp đầy thánh thiện. Khi đến suối nước nóng, anh gặp lại Komako, một geisha xinh đẹp, đầy quyến rũ mà anh đã quen trong lần đầu tới đây. Shimamura đắm chìm trong tình yêu với Komako, nhưng đôi khi anh lại nhớ đến vẻ đẹp của Yôko, cô gái anh đã gặp trên toa tàu. Tình yêu anh dành cho Komako đầy cảm xúc trần thế, còn đối với Yôko thì đó là tình yêu lí tưởng. Thật trớ trêu khi Yôko và Komako cùng sống trong nhà của bà giáo dạy nhạc và mối quan hệ của họ với người đàn ông bị ốm không bao giờ được giải thích đầy đủ. Kết thúc tác phẩm là cảnh Yôko rơi từ tầng trên của một tòa nhà đang bốc cháy, Komako như hóa điên ôm xác Yôko trong tay. Shimamura dường như đứng không vững và khi anh ngã đầu về phía sau, dải ngân hà đang tuôn chảy lên anh. 1.2.2.2. Tác phẩm Ngàn cánh hạc 17 Tác phẩm Ng Ngààn cánh hạc xuất hiện năm 1951 và ngay lập tức đoạt giải thưởng của Viện Hàn lâm nghệ thuật Nhật Bản. Người đọc bị ấn tượng bởi nhân vật Kikuji. Một chàng trai dù không còn niềm đam mê, hứng thú với trà đạo nhưng lại bị cuốn hút bởi những dụng cụ uống trà. Không những vậy, Kikuji còn bị thu hút bởi vẻ đẹp của những người phụ nữ trong cuộc đời chàng, tiêu biểu là bà Ota, là Fumiko và cô gái nhà Inamura. Thông qua nhân vật Kikuji, ý thức xã hội về trà đạo của lớp thế hệ trước và lớp thế hệ trẻ sau này cũng được bộc lộ. Ng Ngààn cánh hạc là câu chuyện kể về Kikuji, con trai gia đình Mitani, nhận lời mời đến tham dự buổi tiệc do Chikako tổ chức. Chikako là người quen của cha chàng khi ông còn sống. Mục đích Chikako mời Kikuji đến buổi tiệc là để chàng xem mặt cô gái nhà Inamura. Nhưng trong buổi trà đạo, Kikuji đã gặp và bị cuốn hút bởi bà Ota – tình nhân trước đây của cha chàng. Chàng cũng có tình cảm với Fumiko - con gái bà Ota và cả cô gái nhà Inamura. Do cha mẹ Kikuji đã mất nên Chikako muốn làm chủ cuộc đời chàng, người phụ nữ này muốn Kikuji lấy cô gái nhà Inamura và nhượng lại cho bà ta những vật dụng uống trà trong gia đình. Chikako căm ghét hai mẹ con bà Ota vì tình cảm của Kikuji dành cho cả hai mẹ con. Bà Ota sau một thời gian vướng vào mối tình trầm luân với Kikuji đã tự sát vì không kiểm soát được tình cảm của mình, bà nhầm lẫn giữa hai cha con nhà Manita. Ngay cả khi bà Ota chết, Chikako vẫn lên tiếng sỉ nhục người đàn bà này bởi ý định của gửi gắm Fumiko cho Kikuji. Bà Ota qua đời, Fumiko – con gái bà Ota, tặng Kikuji hai vật dụng uống trà mà khi còn sống mẹ nàng vẫn thường dùng. Chikako vẫn muốn Kikuji lấy cô gái nhà Inamura nên đã mời nàng đến nhà Kikuji tham gia buổi trà đạo do chính Chikako tổ chức. Sau mối tình trầm luân với bà Ota, tình cảm của Kikuji trở nên khó lí giải. Chàng có cảm tình với cả hai cô gái: Fumiko và cô gái nhà Inamura nhưng chàng vẫn để mọi chuyện trôi qua. Do lòng đố kị, ganh ghét, Chikako nói với Kikuji rằng cả hai cô gái đã đi lấy chồng. Fumiko sau đó gặp lại Kikuji và do điều gì đó thôi thúc đã khiến nàng đập vỡ chén trà mà nàng đã tặng cho Kikuji rồi bỏ đi mất. Không có Fumiko, không có Inamura, chỉ còn lại Kikuji với Chikako xấu xí. Đó là ý nghĩ của Kikuji khi tác phẩm kết thúc. 1.2.2.3. Tác phẩm Người đẹp ngủ mê ườ p ng ủ mê ra mắt khi Kawabata đã 70 tuổi. Đây là một tiểu thuyết ngắn Ng Ngườ ườii đẹ đẹp ngủ mà người phương Tây rất thích, coi đó là hiện tượng kì lạ của văn học Nhật Bản. Câu chuyện kể về Eguchi, một người đã sáu mươi bảy tuổi nhưng vẫn luôn khao khát đi tìm cái đẹp. Eguchi không chỉ đơn thuần tìm kiếm cái đẹp của những cô gái ngủ say nơi khách điếm mà sâu xa hơn là vẻ đẹp của tuổi trẻ. Cái đẹp của tuổi xuân, sức trẻ mới chính là cái đẹp mà Eguchi mong muốn nhất. 18 Tác phẩm là câu chuyện về ông già Eguchi - nhân vật chính của tác phẩm, đến những ngôi nhà có những cô gái ngủ mê theo lời giới thiệu của một người bạn thân, mặc dù ông nhận thấy bản thân chưa rơi vào tình trạng suy nhược như những lão già bạn ông. Eguchi đến ngôi nhà có những người đẹp ngủ mê không phải vì những ham muốn nhục dục mà bởi ông muốn trải nghiệm nổi ghê sợ của tuổi già cũng như tìm kiếm lại những kí ức thời trai trẻ. Năm đêm trong ngôi nhà đó, ngủ qua đêm với tổng cộng năm cô gái còn trinh trong tư thế khỏa thân, bị thuốc cho ngủ mê tới mức không hay biết gì chuyện xung quanh, Eguchi có dịp ôn lại ký ức về những người phụ nữ đi qua đời mình. Cô gái đầu tiên với hương sữa của người phụ nữ đang cho con bú, mùi hương này gợi nhắc ông đến mối tình của ông và cô người yêu đầu tiên của mình. Cô gái thứ hai đã gợi nhắc cho ông ký ức về cô con gái út của ông đã mất đi sự trong trắng bởi một trong hai người bạn trai của nàng. Cô gái thứ ba nhắc nhớ ông về cuộc tình chóng vánh của ông với một người phụ nữ đã có chồng và hai con nhỏ mà ông quen trong một hộp đêm. Cô gái thứ tư và thứ năm gợi nhắc ông nhớ về mẹ ruột của ông trong cơn hấp hối và người vợ già hiện tại của mình. Hơn nữa, năm đêm ngủ lại trong ngôi nhà còn là khoảng thời gian Eguchi tự mình đấu tranh tư tưởng để bản thân không làm mất đi trinh tiết của các cô gái. Trong đêm cuối cùng ông ngủ ở ngôi nhà có những người đẹp ngủ say, một trong hai cô gái cùng ngủ với ông đã chết trong lúc đang ngủ. Ông nghĩ rằng xác của cô gái ấy sẽ được chở đến quán trọ nơi người bạn thân của ông Fukura được chở đến. 19 ƯƠ NG 2: NH ÂN VẬT “LỮ KH ÁCH ” TRONG BA TI ỂU CH CHƯƠ ƯƠNG NHÂ KHÁ CH” TIỂ ẾT XỨ TUY ẾT, NG ÀN CÁNH HẠC, NG ƯỜ P NG Ủ MÊ THUY THUYẾ TUYẾ NGÀ NGƯỜ ƯỜII ĐẸ ĐẸP NGỦ CỦA KAWABATA YASUNARI ách ” 2.1. Ch Châân dung nh nhâân vật “lữ kh khá ch” Xứ tuy Nhân vật “lữ khách” xuất hiện xuyên suốt các tác phẩm được khảo sát (X tuyếết, àn cánh hạc và Ng ườ p ng ủ mê). Theo nhiều nhà nghiên cứu, nhân vật “lữ khách” Ng Ngà Ngườ ườii đẹ đẹp ngủ được xem như hóa thân của nhà văn Kawabata. Xét theo chiều dài lịch sử Nhật Bản, có thể thấy những nhân vật “lữ khách” Shimamura, Kikuji hay Eguchi có nét tương đồng với những samurai ở thế kỉ XIII. Tuy nhiên, có đôi chút khác biệt giữa họ, nếu những võ sĩ samurai vì tính chất công việc không cố định, họ lang thang trên khắp mọi miền đất nước, nhờ đó nên có thể thưởng ngoạn vẻ đẹp của thiên nhiên, con người thì những “lữ khách” của Kawabata hoặc muốn rời xa chốn phồn hoa nơi thành thị, hoặc muốn níu kéo quá khứ, trốn tránh hiện tại mà tìm đến cái đẹp trong cuộc sống. Những nhân vật “lữ khách” được Kawabata xây dựng từ những ảnh hưởng của văn hóa và văn học Nhật Bản cũng như ảnh hưởng của các bậc tiền bối như Basho hay Akutagawa – những người đã tự biến mình thành lữ nhân. Tuy nhiên, để phác họa được chân dung của những lữ khách này là một điều không hề đơn giản. Với nhà văn Kawbatata, một người có xu hướng khuynh nữ, do đó phái yếu luôn chiếm vị trí quan trọng trong các sáng tác của ông. Các nhân vật nữ trong sáng tác của ông thường được tập trung miêu tả từ ngoại diện cho đến khắc họa tính cách còn những “lữ khách”, những nhân vật nam thì rất hiếm khi người đọc có thể bắt gặp những câu văn miêu tả trực tiếp ngoại hình của họ. Nhìn chung, những nhân vật “lữ khách” của Kawabata là những người không có giới hạn tuổi tác. Họ là những con người không giống nhau về độ tuổi nhưng luôn có niềm khao khát rất chung là tìm kiếm cái đẹp. Nhân vật Shimamura xuyên suốt tiểu thuyết Xứ tuy tuyếết cũng chỉ biết đến như một người đàn ông trung niên qua lời của Komako: “đôi má bầu bĩnh, nước da xanh và không có bộ ria” [11;tr.326], và là một người đã có vợ con: “đang nghĩ đến kì nghĩ hè sắp tới và tự hỏi mình sẽ đi đâu cùng gia đình để tránh cái nóng bức của mùa hè” [11;tr.239]. Đáng lẽ ở cái tuổi ấy, người ta đã dành thời gian cho gia đình thì đằng này, Shimamura vẫn rời xa gia đình của mình, rời xa cuộc sống thành thị để đến với xứ tuyết, không chỉ một lần mà là đến ba lần, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tự nhiên, vẻ đẹp của những người con gái để lại ấn tượng nơi anh. Nói về “lữ khách” Kikuji trong Ng Ngààn cánh hạc, là một thanh niên khoảng hai mươi lăm tuổi: “bà Ota năm nay khoảng bốn mươi lăm tuổi, tính ra bà hơn Kikuji đến hai mươi tuổi” [11;tr.526], tuổi của 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng