Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nhân tố con người trong sự phát triển lực lượng sản xuất và chiến lược đào tạo n...

Tài liệu Nhân tố con người trong sự phát triển lực lượng sản xuất và chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao

.DOC
30
492
131

Mô tả:

HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH-VIỄN THÔNG ĐỀ TÀI NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Môn : Triết học GVHD: GVC Th.s Nguyễn Thị Hồng Vân Thực hiện: Nhóm 1, Lớp QTKD đợt 2 [Tháng 03/2016] MỤC LỤC Lời mở đầu Trang 1 Nội dung Phần I: Khái niệm lực lượng sản xuất và vai trò nhân tố con người trong lực lượng sản xuất. 1. Khái niệm lực lượng sản xuất (LLSX). 2. Vai trò của con người trong LLSX. Trang 2- 4 Trang 4- 7 Phần II: Chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay. 1. Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao 2. Tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao: Trang 7- 8 Trang 9 3. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự phát Trang 9 - 12 triển của đất nước 4. Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao tại nước ta hiện Trang 12-15 nay 5. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc phát triển Trang 15-24 nguồn nhân lực chất lượng cao . 6. Một số đề xuất định hướng giải pháp thực hiện phát triển Trang 24-28 nguồn nhân lực chất lượng cao trong giai đoạn mới. Kết luận Trang 29 Tài liệu tham khảo Trang 30 LỜI MỞ ĐẦU Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con người phải được đào tạo trình độ học vấn, có năng lực đồng thời phải không ngừng tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển khoa học công nghệ hết sức nhanh chóng. Trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" thì hiện nay con người và nguồn nhân lực chất lượng cao được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết sức bức thiết và cần có tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về con người và nguồn nhân lực xét trong nước ta nói riêng và quốc tế nói chung. Chúng ta khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội, đồng thời phải là những con người có tri thức và đạo đức. Từ đây mỗi con người dần dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao gồm các giá trị tinh thần và giá trị vật chất cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là, ta phải thực hiện chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển con người một cách toàn diện cả thể lực lẫn trí lực để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên thế giới. I. KHÁI NIỆM LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ VAI TRÒ NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT. 1. Khái niệm lực lượng sản xuất (LLSX). a. Định nghĩa và tính chất LLSX. Lực lượng sản xuất là tổng thể các nhân tố vật chất kỹ thuật được sử dụng trong các quá trình sản xuất của xã hội tức là trong quá trình con người cải tạo, cải biến giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. Như vậy, xét về mặt tính chất thì khái niệm lực lượng sản xuất, nó phản ánh một số tính chất căn bản sau: Trước hết, nó phản ánh quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Là động vật cao cấp nhất, là tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm của quá trình phát triển hết sức lâu dài của giới tự nhiên. Con người phải tìm kiếm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như: thức ăn, thức uống, nhà để ở,,,. Theo một số nhà nhân học khẳng định nhánh người bắt đầu hình thành rõ cách đây khoảng 10 triệu năm bắt đầu từ “vượn người ”. Khi đó vượn người đã biết sử dụng gậy gộc, đá, xương động vật làm công cụ và bắt đầu biết chế tạo công cụ lao động thô sơ cũng như dùng lửa. Nhưng cuộc sống của loài vượn vẫn theo quy luật sinh vật : sống hoà lẫn vào thiên nhiên, sinh sống hoàn toàn tuỳ theo bản năng vốn có trong cơ thể và những thứ sẵn có trong tự nhiên, có thể nói là hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên. Theo thời gian vượn người tiến hoá thành người khéo, người đứng thẳng, người khôn và con người hiện đại ngày nay. Nhưng sự tiến hoá ấy không làm thay đổi mối quan hệ mật thiết giữa con người với tự nhiên. Ngày nay, con người vẫn đang chinh phục tự nhiên bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau. Như vậy, ngay từ thời kỳ sơ khai nhất, con người đã biết dựa vào những thứ vốn có trong tự nhiên để cải biến nó theo nhu cầu sinh tồn và phục vụ nhu cầu sống của mình. Do đó ta thấy rõ một sự thật tất yếu khách quan là con người không thể tồn tại nếu không có mối quan hệ mật thiết, gắn kết chặt chẽ với tự nhiên. Đồng thời nó cũng thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người cụ thể hơn là biểu hiện mức độ, khả năng chinh phục tự nhiên của con người. Trong thời nguyên thuỷ con người chỉ mới sử dụng những công cụ hết sức thô sơ, hầu hết là những công cụ thủ công vào quá trình lao động sản xuất. Do đó năng suất lao động thấp, chất lượng kém chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của con người, chưa tạo ra nhiều của cải dư thừa có khả năng trao đổi với nhau phục vụ nhu cầu sống hết sức sinh động, phong phú của mình. Điều đó phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên vẫn còn non thấp kém. Cho đến khi chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, con người đã dần sáng tạo ra các công cụ lao động tiến bộ hơn song về bản chất nó vẫn mang tính thủ công. Do vậy, mặc dù sản phẩm lao động làm ra ngày một phong phú hơn song trong quá trình lao động sản xuất vẫn còn dựa vào sức người - mặt thể lực là chính, cần nhiều thời gian và quan trọng hơn vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng của con người. Sang chế độ tư bản chủ nghĩa, con người đã tạo ra hàng loạt những máy móc hết sức hiện đại để phục vụ vào quá trình lao động sản xuất, khai thác tài nguyên thiên nhiên, cải biến nó thành những vật dụng và sản phẩm có giá trị, chất lượng cao, phong phú về hình thức, đa dạng về chủng loại, mẫu mã. Đặc biệt cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra bắt đầu từ thế kỷ XVII suốt cho đến ngày nay đã nhanh chóng làm biến đổi bộ mặt kinh tế xã hội của thế giới. Theo đánh giá của C.Mác và Ph.Ăngghen: “chỉ sau hơn hai thế kỷ tồn tại, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một khối lượng của cải vật chất nhiều hơn tất cả các thời đại trước gộp lại”. Như thế trình độ chinh phục tự nhiên của con người đã bước lên một mốc mới, đánh dấu một bước phát triển cao của tiến bộ loài người. Cũng chính trong giai đoạn này con người đã dần dần chiếm thế chủ động trong quá trình lao động sản xuất. Mặt khác, lực lượng sản xuất có tính khách quan trong quá trình sản xuất. Thật vậy không có một quá trình sản xuất nào mà lại không cần đến sức lao động của con người hay những yếu tố sẵn có trong tự nhiên. Nói cách khác trong quá trình sản xuất vật chất không thể không cần đến lực lượng sản xuất. b. Cấu trúc LLSX. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Chính những người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Bước kinh tế tri thức, sự phát triển của lực lượng sản xuất biểu hiện ở hai mặt: o Trí lực đóng vai trò chủ đạo, tức là sẽ xuất hiện một tầng lớp lao động trí óc đông đảo hợp thành chủ thể trong đội ngũ những người lao động. o Những nhân tố mới thúc đẩy lực lượng sản xuất sẽ được phát triển rộng khắp. Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Con người không thể sản xuất vật chất mà không cần đến những yếu tố sẵn có trong tự nhiên như đất, nước, khoáng sản, không khí, … đó chính là những đối tượng lao động. Đặc trưng nổi bật của công cụ sản xuất và đối tượng lao động biểu hiện chủ yếu ở sự gia tăng hàm lượng khoa học và công nghệ, cuối cùng là hàm lượng tri thức được kết tinh trong sản phẩm ngày càng nhiều. Còn tư liệu lao động là những phương tiện, công cụ lao động mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, sản xuất ra của cải vật chất. Thông qua các công cụ của họ đã chứng tỏ họ có hoạt động lao động và đây cũng chính là ranh giới tách người ra khỏi giới sinh vật nói chung, thế giới động vật nói riêng. c. Tính chất đặc biệt của LLSX hiện đại. Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất, là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những phát minh khoa học trở thành thang điểm xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công nghệ mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất, cụ thể là vào người lao động và tư liệu sản xuất, trở thành một yếu tố không thể thiếu được trong sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt, tạo thành cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Như vậy, dù không phải là yếu tố thứ ba của lực lượng sản xuất nhưng có thể nói khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. 2. Vai trò của con người trong LLSX. a. Khái niệm con người. Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ thời cổ đại đến hiện đại. Trong đó quan niệm của triết học Mac-Lênin về con người và bản chất con người, xuất phát từ giác độ khái quát nhất, đứng trên lập trường duy vật biện chứng, làm cơ sở phương pháp luận cho việc giải quyết những vấn đề khác của con người, có thể nói là đúng đắn nhất cho tới ngày nay. Trước hết con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm của thế giới tự nhiên. Con người là một bộ phận của tự nhiên.Con người không thể tồn tại mà thoát ly khỏi quá trình tất yếu đó là sinh ra, phát triển rồi chết đi. Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành người điều đó được chứng minh trong các công trình nghiên cứu của Đacuyn. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người. Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là mặt xã hội. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ đời sống của mình, hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn bị quyết định bởi các hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau. Chúng cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành các nhu cầu về sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu tái sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu hưởng thụ các giá trị tinh thần. Như vậy ta thấy rõ mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất nhất để phân biệt con người với loài vật. Hai mặt trên thống nhất với nhau để tạo nên con người tự nhiên- xã hội hay một thực thể song trùng. Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, Mác đã nêu trong luận đề nổi tiếng Luận cương về Phoiơbăc: “bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội”. Trong đời sống con người, xét trên ba phương diện khác nhau: quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội và chính bản thân con người, suy đến cùng đều mang tính xã hội. Nhưng có thể nói quan hệ giữa con người với con người là quan hệ bản chất nhất bao trùm lên các mối quan hệ khác. Thực tế lịch sử đã chứng minh không có một cá nhân nào có thể tự đáp ứng đầy đủ nhu cầu của bản thân cũng như không thể lao động một cách độc lập tuyệt đối để sản xuất vật chất mà phải liên kết lại với nhau, phân công lao động và trao đổi sản phẩm cho nhau. Từ đó hình thành các quan hệ xã hội, điều chỉnh và chi phối hoạt động, hành vi của con người. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ đó, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất của mình. Trong điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người sản xuất ra của cải vật chất đồng thời hoàn thiện bản thân mình. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Không có giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy con người là sản phẩm của lịch sử. Song điều quan trọng là con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. Con người sáng tạo ra lịch sử, nhưng không bao giờ sáng tạo ra lịch sử trong những hoàn cảnh và điều kiện được lựa chọn, mà trong hoàn cảnh và điều kiện sẵn có do quá khứ để lại. Do đó ta phải luôn chú ý tới mối quan hệ hai chiều, giữa hiện tại và quá khứ, đặc biệt là môi trường sống của con người. Thông qua môi trường sống con người có sự tác động qua lại lẫn nhau thực hiện các quan hệ xã hội tạo nên bản chất người, làm cho con người khác với con vật. b. Con người là nhân tố trung tâm có tính quyết định LLSX. Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Con người là nhân vật chính của lịch sử, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển xã hội. Nhân tố con người vừa là phương tiện sáng tạo ra mọi giá trị của cải vật chất và tinh thần, sáng tạo và hoàn thiện ngay chính bản thân mình đồng thời vừa là chủ nhân sử dụng có hiệu quả mọi tài sản vô giá ấy. Trên phương diện đó vai trò nhân tố con người lao động trong lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất sáng tạo nhất của quá trình sản xuất. Nhân tố trung tâm của con người chính là sức lao động bao gồm thể lực và trí lực. Không có người lao động nào trong quá trình sản xuất vật chất lại không cần đến lao động thể lực hay lao động cơ bắp. Chính những người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người không ngừng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người ngày càng phát triển. Trong quá trình đó không những con người sử dụng trí tuệ nội tại của mình mà còn được kế thừa những kinh nghiệm, qua học hỏi lẫn nhau giữa những người lao động cho nên có thể nói kinh nghiệm cũng là một lực lượng sản xuất. Kinh nghiệm được tích luỹ dần trở thành kỹ năng và cao hơn nữa nó có thể trở thành tri thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Vai trò con người trong thời đại mới là cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia….Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, các nhân tố khác đều là sản phẩm của người lao động . Chỉ có nhân tố con người mới có thể làm thay đổi được công cụ sản xuất làm cho sản xuất ngày càng phát triển với năng suất và chất lượng cao, thay đổi quan hệ sản xuất và các quan hệ xã hội khác. Công cụ lao động thô sơ hay hiện đại, xấu hay tốt, phụ thuộc trực tiếp vào nhân tố con người. Giới tự nhiên nói chung và đối tượng lao động nói riêng, chỉ là những vật vô tri vô giác mà thôi. Nó chỉ có ý nghĩa khi trở thành sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người. Muốn vậy tất yếu người lao động phải tác động vào tư liệu sản xuất để sản sinh ra nó. Như thế quá trình sản xuất vật chất không thể thoát ly khỏi lao động của con người. Trong thời đại mới, nhân tố con người có tri thức ngày càng đóng vai trò quyết định hơn trong lực lượng sản xuất. Có thể khẳng định rằng nhân tố con người đóng vai trò quyết định quá trình lao động sản xuất ra của cải vật chất. II.CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. 7. Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao Nguồn nhân lực là một yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất. Theo cách hiểu thông thường, nguồn nhân lực là nguồn lực con người của một quốc gia hay một vùng lãnh thổ, một địa phương nhất định đang và có khả năng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Có quan điểm cho rằng, nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích lũy được có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai. Một quan điểm khác lại cho rằng, nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị ở các mức độ khác nhau sẵn sàng tham gia vào một công việc lao động nào đó, đó là những người lao động có kỹ năng đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với quan điểm về nguồn nhân lực như vậy nên đã có nhiều cách hiểu khác nhau về nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo cách hiểu mang tính chất định tính thì nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của lực lượng lao động, có khả năng đáp ứng những yêu cầu phức tạp của công việc, từ đó tạo ra năng suất và hiệu quả cao trong công việc, có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng và phát triển của cộng đồng cũng như của toàn xã hội. Nếu tiếp cận theo cách hiểu mang tính chất định lượng thì nguồn nhân lực chất lượng cao được hiểu theo các cách khác nhau: Một là, nguồn nhân lực chất lượng cao là những người lao động đã qua đào tạo, có bằng cấp và trình độ chuyên môn kỹ thuật. Trên thực tế, khái niệm “lao động qua đào tạo” rất phức tạp vì hiện nay có rất nhiều hình thức và phương pháp đào tạo khác nhau, từ học nghề ngắn hạn đến cao đẳng, đại học đều có thể được xem là “lao động qua đào tạo”. Như vậy, nếu coi nguồn nhân lực chất lượng cao là lao động qua đào tạo sẽ dẫn đến một sự phân hóa lớn về trình độ của nguồn nhân lực này. Hai là, một cách hiểu theo định lượng hẹp hơn là coi nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực có trình độ đại học, cao đẳng, nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý và hoạch định chính sách, nguồn nhân lực khoa học, công nghệ, đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao đẳng... Thực tế, có một cách hiểu hẹp hơn nữa là chỉ xem những người có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ mới là nguồn nhân lực chất lượng cao. Có thể thấy, về mặt khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao chưa có sự thống nhất. Cả hai cách hiểu mang tính định tính và định lượng đều có những hạn chế nhất định. Cách hiểu về mặt định tính sẽ dẫn đến khó khăn trong việc thống kê nguồn nhân lực chất lượng cao. Cách hiểu về mặt định lượng sẽ không tính đến những nghệ nhân, những người có khả năng đặc biệt làm được những công việc mà ít người làm được nhưng lại không qua trường lớp đào tạo nào. Mặt khác, không phải bất kỳ người lao động nào đã qua đào tạo đều có khả năng đáp ứng được yêu cầu của các công việc tương ứng với trình độ đào tạo nhưng vẫn được xem là nhân lực có chất lượng cao. Vì vậy, nên hiểu nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của nguồn nhân lực nói chung, nhưng là một bộ phận đặc biệt, bao gồm những người có trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên đang làm việc trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, có những đóng góp thiết thực và hiệu quả cho sự phát triển bền vững của cộng đồng nói riêng và toàn xã hội nói chung. 8. Tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao: Với cách hiểu như vậy, ta có thể đưa ra 6 tiêu chí để đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao đó là: o Khả năng thích ứng nhanh nhất với môi trường lao động và với tiến bộ khoa học công nghệ mới, với năng lực chuyên môn và trình độ thành thạo nghiệp vụ cao. o Có ý chí vượt khó, bền bỉ trong công việc, có năng lực kiềm chế bản thân... o Có đạo đức nghề nghiệp thể hiện qua tinh thần kỷ luật, ý thức trách nhiệm, tinh thần dân chủ, hợp tác và ý thức về tập thể, vì cộng đồng cao. o Có kỹ năng làm việc nhóm, khả năng thay đổi, thích ứng nhanh, hội nhập cao, có sáng kiến đột phá, sáng tạo trong công việc... o Có năng lực thực tế tạo nên kết quả cao và vượt trội trong công việc, có năng lực cạnh tranh, có đóng góp thực sự hữu ích cho xã hội... 9. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự phát triển của đất nước Nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tố quyết định thành công trong quá trình cạnh tranh, hội nhập và phát triển. Mỗi quốc gia để phát triển bao giờ cũng phải có các nguồn lực cho sự phát triển. Trong bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào, trình độ và tính chất phát triển ra sao thì các nguồn lực cho sự phát triển vẫn là tư liệu sản xuất (đất đai, tài nguyên, máy móc thiết bị, công nghệ, tài chính...) và sức lao động (nguồn nhân lực và rộng ra là nguồn vốn con người, vốn xã hội, vốn thể chế...). Trong đó, sức lao động - nguồn nhân lực - con người là yếu tố động nhất, nguồn gốc của mọi của cải vật chất và sức sáng tạo ra các nền văn minh. Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, sự thành bại của các quốc gia không thể là quá trình lịch sử tự nhiên, tuần tự nhi tiến, mà là một quá trình liên tục kế tiếp nhau của năng lực sáng tạo mang tính cách mạng của nhân loại qua các khúc quanh lịch sử. Một quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên, rất thuận lợi cho sự phát triển, nhưng chưa hẳn là quốc gia giàu có. Trong khi đó, Nhật Bản là đất nước gần như không có tài nguyên gì đáng kể, đã tạo nên một "thần kỳ Nhật Bản" với mô thức "truyền thống Nhật Bản cộng với kỹ thuật phương Tây" được cả thế giới ngưỡng phục. Cũng tương tự như vậy, với việc chú trọng phát triển giáo dục - đào tạo, nhất là ở bậc tiểu học; đẩy mạnh xuất khẩu và bảo đảm tiết kiệm quốc gia luôn ở mức trên 35% GDP; thực hiện phương thức "chính phủ cứng và thị trường mềm", Hàn Quốc - một quốc gia cũng nghèo tài nguyên, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, chỉ sau chưa đầy 30 năm, đã làm nên một "kỳ tích sông Hàn", từ một nước nghèo đã trở thành thành viên thứ 25 của OECD - Câu lạc bộ các quốc gia giàu có của thế giới. Một quốc gia giàu về truyền thống văn hóa thường có rất nhiều tiềm năng cho sự phát triển, nhất là ở các giá trị tinh thần và chuẩn mực xã hội, tạo dựng nên năng lực nội sinh cho phát triển bền vững. Tuy nhiên, việc chuyển hóa các giá trị văn hóa thành các tiền đề phát triển để các quốc gia giàu về truyền thống văn hóa phát triển thành các quốc gia thịnh vượng lại tùy thuộc rất đáng kể vào sức mạnh sáng tạo và tư duy đổi mới của con người ở các thế hệ tiếp sau. Tuỳ theo tiềm lực quốc gia, lực lượng lao động hiện có và thể chế chính trị thì mỗi quốc gia đều xây dựng cho mình chiến lược đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thường là chiến lược dài hạn trong đó chia ra từng giao đoạn cụ thể. Trên thực tế, không phải quốc gia nào có các nền văn minh cổ đại rực rỡ cũng trở thành các quốc gia giàu có. Vùng Trung Mỹ rất tự hào với nền "văn minh Maia" nhưng sự giàu có của châu lục này lại thuộc về Bắc Mỹ - vùng "đất mới", nơi hội tụ và lan tỏa của trí tuệ con người được khởi nguồn từ văn minh công nghiệp châu Âu. Rõ ràng, tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên văn hóa rất quan trọng cho sự phát triển, nhưng quan trọng và quyết định nhất lại là tài nguyên con người, sự kết tinh của văn hóa và sức sáng tạo vô tận của nguồn lực con người. Nhà tương lai học Mỹ Ây-vin Tô-phơ (Avill Toffer) đã nhận định rất đúng rằng "Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất, chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không mất đi, mà còn lớn lên". Hoa Kỳ trở thành nền kinh tế hàng đầu thế giới với nhiều nguyên nhân khác nhau, song điều không ai có thể phủ nhận đây là nơi đã thai sinh ra khoảng hai phần ba số lượng các nhà khoa học được nhận giải thưởng Nô-ben (Nobel) danh giá từ trước đến nay, với các nhà kinh tế học nổi tiếng như P.Cru-gmen, G.Xtiếc-lít (P.Krugman, J. Stiliz,...) những người luôn đưa ra những tư tưởng khoa học công nghệ, tư duy phát triển "vượt trước" nhân loại. Một thí dụ khác, Xin-ga-po (Singapore) trở thành một trong "bốn con hổ Ðông Á", là đầu mối trung chuyển thương mại và dịch vụ của thế giới bởi họ luôn chú trọng xây dựng quốc đảo này thành "hòn đảo trí tuệ", nhấn mạnh vai trò quyết định của chất lượng nguồn nhân lực với "nhân tài là men ủ cho sự trỗi dậy của đất nước". Cũng tương tự như vậy, bằng đột phá từ công nghệ thông tin - một ngành công nghiệp mới luôn gắn với đổi mới và sáng tạo của con người, Ma-lai-xi-a đã tiên phong xây dựng "hành lang đa phương tiện" nhằm biến quốc gia này thành "đầu mối" nối mạng của cả khu vực và toàn cầu. Từ những dẫn dụ trên đây, có thể khẳng định rằng, nguồn lực con người, vốn con người là hết sức quan trọng trong chiến lược và chính sách phát triển của mọi quốc gia. Theo Liên hợp quốc thì "nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và đất nước". Ngân hàng thế giới cũng cho rằng "nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người, bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp của mỗi cá nhân". Như vậy, con người là tài nguyên đặc biệt và nguồn nhân lực là tổng hòa thể lực và trí lực của lực lượng lao động toàn xã hội. Nguồn nhân lực ấy kết tinh truyền thống, kinh nghiệm, trí tuệ của mỗi dân tộc và tinh hoa tri thức nhân loại được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu phát triển hiện tại và tương lai của mọi quốc gia. Ðiều này càng hoàn toàn đúng và trở thành quan trọng hơn trong thời đại ngày nay, khi khoa học và công nghệ đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, kinh tế tri thức ngày càng chiếm ưu thế trong phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia - dân tộc; khi lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã không còn dựa trên con số cộng của các yếu tố cấu thành đầu vào như: đất đai, khai thác tài nguyên, lao động rẻ, nhiều vốn tài chính, mà là dựa trên công nghệ, tri thức, tư duy đổi mới và năng lực sáng tạo của chính con người. Nguồn nhân lực, nguồn vốn con người, theo đó, đang ngày càng được xác định là yếu tố trung tâm trong hệ thống các nguồn lực phát triển, nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Và điều quan trọng hơn, ngày nay, nguồn nhân lực được mọi quốc gia quan tâm tới không phải là nguồn nhân lực nói chung, mà là nguồn nhân lực chất lượng cao. Ðó là những người lao động có kỹ năng, các nhà kinh doanh năng động và tài ba, các nhà quản lý giỏi, các nhà khoa học và công nghệ xuất sắc, các nhà lãnh đạo chính trị có tầm nhìn chiến lược và tư duy đổi mới vượt trội. Do đó, cũng có thể nói, nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tài của các quốc gia, nhân tố quyết định năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của mọi nền kinh tế; quyết định vận mệnh của các dân tộc và tương lai phát triển của nhân loại. Kinh nghiệm của thế giới về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao rất phong phú và sinh động. Hầu hết các quốc gia phát triển, các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển không rơi vào bẫy thu nhập trung bình đều có chung một đặc điểm phổ biến là, vừa chăm lo phát triển giáo dục - đào tạo, lấy xây dựng "xã hội học tập" và thực hiện "chế độ học tập suốt đời" làm phương châm; vừa rất chú trọng đến việc trọng dụng, đãi ngộ và thu hút nhân tài, kể cả việc thu hút nhân tài từ bên ngoài, trong đó hình thành và phát huy "thương hiệu quốc gia" - nơi hội tụ của những tài năng, đã được vận hành rất hiệu quả. Rõ ràng, đầu tư cho giáo dục đào tạo, cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và bồi dưỡng nhân tài, về thực chất là đầu tư cho phát triển; và chăm lo cho sự phát triển toàn diện của con người chính là chăm lo cho phát triển bền vững của các quốc gia, là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất sự phồn vinh, hạnh phúc và thịnh vượng của mỗi quốc gia, dân tộc. 10.Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao tại nước ta hiện nay Hiện tại, Việt Nam đang sở hữu một nguồn nhân lực khá dồi dào về số lượng nhưng lại rất hạn chế về mặt chất lượng. Cả nước hiện có khoảng 14.000 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.432 giáo sư; 7.750 phó giáo sư; 16.000 thạc sĩ; 30.000 cán bộ hoạt động khoa học và công nghệ; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong số đó giảng viên đại học có trình độ thạc sĩ trở lên chiếm khoảng 49%. Cả nước hiện có 14.000 giáo viên trung cấp chuyên nghiệp; 11.200 giáo viên dạy nghề và 925.000 giáo viên hệ phổ thông. Trong số 9.000 tiến sĩ được điều tra thì có 70% giữ chức vụ quản lý, chỉ có 30% thực sự làm công tác chuyên môn. Theo kết quả điều tra gần đây, hiện tại ở nước ta 63% số sinh viên tốt nghiệp đại học chưa có việc làm, nhiều cơ quan, doanh nghiệp nhận sinh viên vào làm việc phải mất từ 1 đến 2 năm đào tạo lại. Trong số 37% sinh viên ra trường có việc làm thì về cơ bản cũng chưa đáp ứng được yêu cầu công việc... Rõ ràng là chất lượng nguồn nhân lực của nước ta chưa cao, có sự mâu thuẫn giữa lượng và chất của nguồn nhân lực chất lượng cao. Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay đạt mức 3,39/10 điểm. Theo báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 2014 thì Việt nam đã tăng lên 02 bậc và đứng thứ 68/144 nền kinh tế, đứng thứ 6 trong khu vực Đông Nam Á (xếp sau Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonexia và Philippin). Cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta cũng có sự mất cân đối nghiêm trọng: cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học thì chỉ có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật. Trong khi đó, tỷ lệ này của thế giới tương ứng là 4 và 12. Ở Việt Nam, cứ 1 vạn dân thì có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100 và Trung Quốc là 140... Hơn nữa, nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta lại phân bố không hợp lý: 92,2% cán bộ có trình độ tiến sĩ trở lên tập trung ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, số cán bộ có trình độ từ tiến sĩ trở lên ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ chiếm chưa tới 1%. Trong số giáo sư và phó giáo sư, có tới 86,2% ở Hà Nội; 9,5% ở Thành phố Hồ Chí Minh, các địa phương còn lại chưa tới 4,3%. Những năm gần đây, ở Việt Nam mỗi năm có hàng trăm ngàn sinh viên đại học, hàng chục ngàn học viên cao học, nghiên cứu sinh. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên tăng từ 3,8% trong tổng lực lượng lao động năm 2002 lên khoảng 6.2% trong năm 2013... Nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta đang còn rất nhiều vấn đề bất cập. Số lượng lao động qua đào tạo ở trình độ từ đại học trở lên ngày một gia tăng, nhưng chất lượng của lao động qua đào tạo, khả năng thích ứng công việc và phát huy kết quả đào tạo của số lao động này lại rất thấp. Theo kết quả khảo sát gần đây, số lao động qua đào tạo phát huy được năng lực, sở trường và kiến thức chưa tới 40%, tình trạng bằng cấp không đúng thực chất, “bằng dởm” không phải là hiện tượng cá biệt, ngay cả những trường hợp được học hành, đào tạo rất quy củ, bài bản một cách nghiêm túc nhưng khi ra làm việc thực tế vẫn không đáp ứng được yêu cầu, không phát huy được tác dụng... Thực trạng này được lý giải như thế nào? Nguyên nhân của thực trạng trên phải được xem xét trên cả 3 phương diện: đào tạo, sử dụng và đãi ngộ. Trên thực tế, chúng ta vẫn thường nói đào tạo nguồn nhân lực phải dựa vào nhu cầu, vào xu hướng phát triển của nền kinh tế, đào tạo đúng địa chỉ sử dụng, tiếp cận tinh hoa tri thức nhân loại... Nhưng thực tế, chúng ta chưa đạt hiệu quả mong muốn. Nhiều người cho rằng, đào tạo ở Việt Nam chỉ là để phục vụ “cầu” còn “cung” thì chưa rõ phải làm gì! Ngành nào là ngành mũi nhọn cũng chưa được xác định nhất quán, lĩnh vực nào là thế mạnh cần được quan tâm cũng chưa rõ ràng, nội dung, chương trình, mục tiêu đào tạo... chưa được xác định một cách khách quan, khoa học. Ngoài ra do tư tưởng, nhận thức của chính bản thân, của cha mẹ: người người học đại học, phải cố gắng mọi giá phải cho con học đại học để bằng bạn bằng bè, bằng đồng nghiệp, hàng xóm. Hơn nữa, chúng ta cũng đang còn lúng túng trong việc lựa chọn và quyết định hình thức, phương pháp, loại hình đào tạo thích hợp! Việc sử dụng lao động cũng còn nhiều bất hợp lý. Nguyên tắc đúng người, đúng việc, đúng chuyên môn ở nhiều nơi vẫn chỉ là những câu nói cửa miệng. Việc đãi ngộ lao động ở nước ta hiện nay cũng chưa phù hợp, chưa tương xứng, đang là cản trở lớn cho việc phát huy tiềm năng và sức sáng tạo của lao động qua đào tạo. Chúng ta vẫn thường nói “hiền tài là nguyên khí quốc gia” nhưng chế độ đãi ngộ với “hiền tài” như thế nào thì vẫn chỉ là các chủ đề được đề cập trong các cuộc hội thảo, trong các dự kiến, dự định của các cấp và các cơ quan có thẩm quyền. Theo TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, nguyên trợ lý bộ trưởng Bộ GD&ĐT tại hội thảo khoa học “Đổi mới công tác đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam” do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ GD&ĐT và Hội đồng Quốc gia giáo dục và phát triển nhân lực tổ chức ngày 26/12/2014 tại Hà Nội đã chỉ ra 5 điểm yếu của phát triển nhân lực tại Việt Nam đó là: thiếu gắn kết giữa các cơ sở giáo dục ĐH với các nhà tuyển dụng, các doanh nghiệp, các viện nghiên cứu khoa học, các cơ sở giáo dục đào tạo khác. “Các trường rất ít cộng tác với nhau trong chia sẻ thông tin và nguồn lực. Đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng phân cắt giữa các cơ sở giáo dục ĐH với các cơ sở đào tạo nghề, dẫn tới sự phá vỡ tính chỉnh thể của hệ thống, tạo thành rào cản trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo” đồng thời thiếu sự gắn kết với các trường phổ thông. Các trường phổ thông vẫn nặng về truyền thụ kiến thức với chương trình quá tải, đôi khi trùng lặp với giáo dục ĐH. Đồng thời không có sự chuẩn bị cần thiết cho học sinh tốt nghiệp trung học về tâm thế, nhận thức, định hướng và kỹ năng để theo học ĐH. Chúng ta rất dễ dàng nhận thấy sự chênh lệch đến độ khó tưởng tượng trong đãi ngộ giữa thủ khoa đại học, huy chương vàng Olimpic các kỳ thi học sinh giỏi quốc tế, mức thưởng cho một phát minh sáng chế... với tiền thưởng cho “hoa hậu”, tiền cat-xê cho các “sao”... Thực tế là, 9 năm qua (2004 - 2013) Thành phố Hà Nội đã tuyên dương 973 thủ khoa đại học nhưng chỉ thu hút được 100 thủ khoa về công tác tại các cơ quan của Thành phố Hà Nội. Hiện tượng “chảy máu chất xám”, đào tạo nhân tài nhưng lại không sử dụng được người tài, đào tạo để “người khác” sử dụng vẫn đang phổ biến ở nước ta hiện nay đều có nguyên nhân từ cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước. Vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện vẫn đang là bài toán cần tìm lời giải. Mặc dù, xét về số lượng nhân lực có học hàm, học vị, Việt Nam không thua kém các nước trong khu vực, nhưng khả năng đáp ứng nhu cầu công việc còn hạn chế, nhất là đối với yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay. Để giải quyết vấn đề này, việc đổi mới cơ chế giáo dục đào tạo đang là một đòi hỏi bức thiết. Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú ý đến công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Mặc dù có rất nhiều cố gắng và triển vọng, song công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta còn gặp một số khó khăn và hạn chế. Trước hết là hạn chế về khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu xã hội trên 2 phương diện: Đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu về số lượng, dự báo hằng năm đào tạo mới chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu của xã hội; Đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, 80% đến 90% số sinh viên ra trường vừa được tuyển dụng cần phải đào tạo lại ít nhất là một năm. Hạn chế thứ hai là sự mất cân đối về số lượng giữa các ngành nghề được đào tạo do sự thiếu định hướng trong việc chọn nghề và chọn trường cho sinh viên. Trên thực tế, việc chọn trường, chọn ngành học của học sinh, sinh viên nhiều khi lại dựa vào các quyết định cảm tính, mơ hồ như ngành đó, trường đó đang là “mốt”, gia đình có người thân quen, trường này dễ đỗ, trường kia “danh giá”... Điều này dẫn đến cung - cầu về nhân lực chất lượng cao vẫn luôn ở trạng thái “thiếu vẫn thiếu, thừa vẫn thừa”, gây lãng phí cho các gia đình và cho cả xã hội. Những hạn chế trên có nguyên nhân từ những khó khăn về cơ sở vật chất, về nội dung chương trình đào tạo, về phương pháp giảng dạy, về đội ngũ giảng viên. Cơ sở vật chất phục vụ giáo dục đào tạo ở nước ta còn thiếu thốn và có sự chênh lệch rất lớn giữa các vùng, miền, đặc biệt là các thiết bị giảng dạy và học tập, các công trình phục vụ thí nghiệm và thực hành cho sinh viên. Nội dung chương trình đào tạo của các ngành học ở bậc đại học đã có nhiều đổi mới, từng bước đi vào chuẩn hóa. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn nhiều giáo trình, bài giảng chưa được thường xuyên cập nhật, chuẩn hóa về nội dung. Phương pháp đào tạo của các trường cao đẳng, đại học đều đã cố gắng đổi mới theo hướng nâng cao tính chủ động, sáng tạo của sinh viên, đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển sang đào tạo theo tín chỉ, nhưng những đổi mới này đang còn gặp nhiều khó khăn, trong đó có khó khăn từ chính bản thân sinh viên, vì sau 12 năm học phổ thông đã quá quen với lối học thụ động. Đội ngũ giảng viên các trường đại học, mặc dù số lượng có học hàm, học vị hằng năm đều tăng nhưng vẫn còn tình trạng thiếu các chuyên gia đầu ngành. Theo thống kê của Hội đồng chức danh Giáo sư nhà nước nhiệm kỳ 2009 – 2014, số giáo sư nghỉ hưu gấp 3 lần số giáo sư mới được bổ sung. 11.Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao . Nhận thức rõ vai trò của nguồn nhân lực đối với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), Ðảng ta đã đề ra quan điểm: "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững"(1), và "nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa"(2). Ðồng thời, nhấn mạnh tầm quan trọng và ý nghĩa quyết định của nguồn nhân lực chất lượng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng và lợi thế cạnh tranh quốc tế đã thuộc về công nghệ, tri thức, lao động có kỹ năng..., Tại Ðại hội X, Ðảng ta đã đề ra chủ trương "Ðổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển NNLCLC... chấn hưng nền giáo dục Việt Nam"(3). Và, để thực hiện thắng lợi công cuộc đẩy mạnh CNH, HÐH gắn với kinh tế tri thức phải phát triển NNLCLC, tức là chuyển hướng chiến lược phát triển nguồn nhân lực từ theo chiều rộng sang chiều sâu, Ðảng ta chủ trương phải đặc biệt coi trọng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Theo tinh thần của Ðại hội X, Hội nghị Trung ương 7 khóa X đã ban hành Nghị quyết 27 (2009) về Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xác định rõ vai trò căn bản, động lực của việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chính là xây dựng đội ngũ trí thức. Ðảng ta nhấn mạnh: "Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Ðầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững"(4). Tại Ðại hội XI của Ðảng, xuất phát từ yêu cầu thực hiện mục tiêu tổng quát là "đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại", Ðảng ta đã xác định ba khâu đột phá chiến lược: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng đồng bộ; và phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao được xác định là "yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững"(5). Khâu đột phá này chính là bước ngoặt quan trọng nhằm tập trung nâng cao sức mạnh nội sinh: tri thức - trí tuệ của dân tộc Việt Nam để thích ứng và đột phá phát triển trong một thế giới năng động, của thời đại khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão; và chỉ có như vậy, nền kinh tế nước ta mới có được sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả, có chất lượng và bền vững; mới có thể thoát ra khỏi nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình đang hiện hữu và sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Với tư duy và quan điểm toàn diện về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, vận dụng có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, Ðảng ta đã đặc biệt chú trọng đến phát triển đội ngũ các nhà lãnh đạo, quản lý, nhất là đội ngũ lãnh đạo cán bộ cấp chiến lược. Ðây là điểm mới trong việc triển khai và cụ thể hóa Nghị quyết Ðại hội lần thứ XI của Ðảng. Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, cùng với chủ trương ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, Ðảng ta đặc biệt quan tâm công tác cán bộ, nhấn mạnh việc nêu cao tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên là lãnh đạo các cấp ủy đảng. Tiếp tục quán triệt định hướng này về công tác cán bộ, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 24 về đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Như vậy, từ tư tưởng chỉ đạo "con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển" đến việc xác định vai trò đột phá chiến lược của phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tư duy về phát triển của Ðảng ta đã có một bước tiến mới, xuất phát từ chủ thể sáng tạo của con người, từ mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và vai trò của các cá nhân trong lịch sử, đã nhìn rõ hơn vai trò hạt nhân của nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung, của đội ngũ các nhà lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược nói riêng - những người cần phải có lý tưởng cao đẹp vì dân tộc, đạo đức trong sáng vì con người; có tầm nhìn chiến lược và năng lực hành động xuất sắc, luôn gương mẫu tiên phong, liên tục được hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Để triển khai và cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, một loạt các Nghị quyết, Kết luận của các hội nghị Trung ương của nhiệm kỳ Đại hội XI đã được ban hành, định hướng khá tập trung vào phát triển con người, nguồn nhân lực chất lượng cao và xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Một số luận điểm mới đưa ra là: Thứ nhất, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là NNLCLC phục vụ yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; cũng như để khẳng định vị thế của tri thức và trí tuệ Việt Nam trong sân chơi toàn cầu, Đảng xác định phải đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục đào tạo, trong đó chuẩn mực của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay phải là: "Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính" (1) . Trong Nghị quyết 29-NQ/TW về "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế", Đảng ta không chỉ coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, mà còn nhấn mạnh ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đã hàng chục năm qua, chúng ta bắt mạch đúng rằng, nguồn nhân lực yếu kém là một trong các điểm nghẽn của tăng trưởng. Giáo dục đào tạo nặng về lý thuyết, thiếu năng lực thực hành; bằng cấp tràn lan và thực học còn hạn chế; thừa thầy, thiếu thợ; lao động vừa thiếu, vừa thừa, thiếu lao động kỹ năng và thừa lao động không qua đào tạo; thu hút nhân tài rầm rộ ở mọi địa phương nhưng kết quả chẳng được bao nhiêu và hầu hết là không giữ được người; lương bổng và chế độ đãi ngộ không gắn với tài năng và hiệu quả công tác; cạnh tranh quốc tế bằng lao động phổ thông, giá nhân công rẻ đang khiến chúng ta yếu thế và lép vế ngay cả trên sân nhà... Đây chính là những vấn đề lớn, xét cho cùng, là nhiệm vụ trung tâm của đổi mới giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; nếu không, chúng ta sẽ tiếp tục tụt hậu, không bắt kịp với sự phát triển của thế giới, không cải thiện được năng lực cạnh tranh, phát triển thiếu bền vững. Thứ hai, Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, phát triển đất nước nhanh và bền vững, trong nhiệm kỳ này, Đảng ta xác định phải lựa chọn con đường phát triển tất yếu dựa vào khoa học và công nghệ. Bởi suy cho cùng, cạnh tranh phát triển giữa các quốc gia hiện nay cũng chính là cạnh tranh về khoa học, công nghệ, đặt ra yêu cầu phải "gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ". Đây là hai trụ cột, đồng thời là động lực mới cho sự phát triển đất nước, khi sau gần 30 năm đổi mới, các động lực tăng trưởng như: đất đai, lao động rẻ, xuất khẩu sản phẩm thô, đầu tư, tín dụng... đã không còn nhiều dư địa. Để tạo đột phá mới trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XI, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tếnhằm, cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ cũng phải thật sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển đất nước. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về hệ thống tổ chức các cơ quan khoa học, về cơ chế đầu tư, về cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ; nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của nguồn nhân lực khoa học - công nghệ, coi đây là nhân tố quyết định đối với sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ và là nhân tố giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Quán triệt quan điểm thị trường là cơ chế huy động, tổ chức và phát triển khoa học công nghệ, thị trường khoa học công nghệ, Nhà nước thực hiện quản lý hoạt động khoa học công nghệ theo quy hoạch, kế hoạch và theo nguyên tắc thị trường; cần ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; tạo điều kiện để mọi người tham gia và được thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động khoa học và công nghệ thông qua hình thức khoán chi và chế độ tiền lương đặc thù như các nước trên thế giới đã áp dụng; tôn vinh các nhà khoa học và tạo môi trường thuận lợi để thu hút các nhà khoa học Việt kiều về làm việc trong nước. Cụ thể, ngày 23/12/2010 Chính phủ đã ra quyết định số 2342/QĐ-TTg V/v thành lập Viện nghiên cứu cao cấp về Toán. Trong hai năm gần đây, Viện đã đón nhận 137 cán bộ nghiên cứu đến làm việc, trong đó có 40 nhà toán học là người nước ngoài hoặc người Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Đã có 21 công trình được công bố chính thức trên các tạp chí toán học quốc tế có uy tín và 69 công trình công bố dưới dạng tiền ấn phẩm có sự tài trợ toàn bộ hoặc một phần từ Chương trình trọng điểm quốc gia phát triển toán học. Thứ ba, xây dựng phát triển con người Việt Nam một cách toàn diện, trên nhiều chiều cạnh, nhất là từ góc nhìn văn hóa, phát triển con người. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Việt Nam xây dựng là nền kinh tế từ trong thuộc tính của nó mang đậm chất nhân văn, nền kinh tế do con người và vì con người. Việc đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, khẳng định ý nghĩa quyết định của nhân tố con người trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng, trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, cũng như trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng này phù hợp và bắt kịp được với xu thế chung của nhân loại tiến bộ - Không tuyệt đối hóa sức mạnh kinh tế, không thần thánh hóa khoa học, công nghệ hay bất kỳ một nhân tố nào khác, mà trở lại với con người, vì sự phát triển con người. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI; trên cơ sở kế thừa những quan điểm, chủ trương của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, tổng kết lý luận và thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong những năm qua, nhất là từ việc chỉ ra những thành tựu, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người, với việc ban hành Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI, Đảng ta đã có sự đổi mới trong tư duy về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Nghị quyết đã nhấn mạnh quan điểm phát triển con người, gắn phát triển văn hóa với sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Và "Xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học". Đây là các biểu hiện mới của đặc trưng nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng và phát triển. Đó là sự kế thừa tinh thần của Đề cương Văn hóa năm 1943 để bổ sung, phát triển, hoàn thiện, vừa đúng với quan điểm lý luận nhất quán, vừa đáp ứng đúng yêu cầu mới của thực tiễn. Đồng thời, trong mục tiêu chung về xây dựng và phát triển văn hóa, con người, Nghị quyết đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa, phải thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan