Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn thành phố hồ chí minh...

Tài liệu Nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn thành phố hồ chí minh

.PDF
92
434
119

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHAN ÁI NHI NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI GIẾT NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số : 60.38.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. CAO THỊ OANH HÀ NỘI - 2016 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI GIẾT NGƯỜI ....................................................................................................9 1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội giết người .................................................9 1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội giết người ...............................11 1.3. Quá trình hình thành nhân thân người phạm tội giết người ..........................20 1.4. Những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội giết người .........................................................................................................................24 1.5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội giết người ..............31 Chương 2: THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI GIẾT NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................................................36 2.1. Khái quát tình hình tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2015 .......................................................................................................36 2.2. Thực trạng các đặc điểm của nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................................40 2.3. Thực trạng những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội giết người .............................................................................................................49 Chương 3: GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI GIẾT NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH TỪ KHÍA CẠNH NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI ..............................................................................................................64 3.1. Dự báo tình hình tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh .........64 3.2. Nhân thân người phạm tội và việc hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa tình hình tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ........................................68 KẾT LUẬN ..............................................................................................................77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................78 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ANTT An ninh trật tự BLHS Bộ luật hình sự CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng KCN Khu công nghiệp NLTNHS Năng lực trách nhiệm hình sự TAND Tòa án nhân dân TNHS Trách nhiệm hình sự TTATXH Trật tự an toàn xã hội VKSND Viện kiểm sát nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh được xem là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội lớn nhất cả nước. Là đầu tàu kinh tế của cả nước, Thành phố Hồ Chí Minh là nơi hoạt động kinh tế diễn ra năng động nhất, dẫn đầu cả nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trung bình hàng năm, Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp 21,3% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và 29,38% tổng thu ngân sách quốc gia của cá nước. Tổng diện tích của Thành phố Hồ Chí Minh là 2.095,06 km² trong đó khu vực đô thị bao gồm 19 quận nội thành và vùng nông thôn rộng lớn với 5 huyện ngoại thành là huyện Củ Chi, huyện Bình Chánh, huyện Hóc Môn, huyện Nhà Bè và huyện Cần Giờ. Là vùng “đất lành”, Thành phố Hồ Chí Minh thu hút một lượng lớn dân nhập cư từ mọi miền đất nước. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê năm 2015 thì dân số Thành phố Hồ Chí Minh là 8.224.000. Tuy nhiên, trên thực tế nếu tính những người cư trú không đăng ký và nhập cư trong thời gian ngắn hạn thì dân số thực tế của Thành phố Hồ Chí Minh vượt trên 10 triệu người. Mật độ dân số ở đây khá cao, khoảng 3.809 người/ km². Sự phân bố dân cư không đồng đều, chủ yếu tập trung ở các quận nội thành. Với đặc điểm dân cư như vậy nên ở Thành phố Hồ Chí Minh có đủ 54 thành phần dân tộc cùng nhau sinh sống nhưng đông nhất vẫn là dân tộc Kinh, dân tộc Hoa, dân tộc Khmer; ở đây cũng đa dạng về tôn giáo, nhưng phổ biến nhất là Phật giáo, Công giáo, Tinh lành, Cao Đài và một bộ phận dân cư theo tín ngưỡng thờ ông bà. Xuất phát từ những đặc điểm này, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều chiến lược, mục tiêu và ra sức nỗ lực trong mọi việc, trong đó có việc phòng, chống tội phạm nhằm đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Chẳng hạn như: Nghị quyết số 16/NQ-TW ngày 10/8/2012 của Bộ Chính trị về “phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020”; Chỉ thị số 10/CT-TU ngày 14/5/2003 của Thành ủy về “Lãnh đạo phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tộ quốc”; Chỉ thị 48/CT-TW ngày 20/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình 1 mới”;… Tuy nhiên, trên thực tế, tình hình tội phạm nói chung vẫn diễn ra rất phức tạp. Đối với tình hình tội giết người nói riêng luôn xảy ra với số lượng lớn và chiếm tỷ lệ cao so với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Theo số liệu thống kê của TAND Thành phố Hồ Chí Minh, trong giai đoạn 2011 – 2015, TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý 3426 hồ sơ vụ án với tổng số bị cáo là 8419 bị cáo, trong đó đã xét xử 2316 vụ án và tổng số bị cáo bị xét xử là 4950 bị cáo. Trong đó, chỉ riêng tội giết người thì TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý 894 vụ (chiếm 26,09% tổng số vụ) với tổng số bị cáo là 1778 bị cáo (chiếm 21,12% tổng số bị cáo). Tội giết người bao giờ cũng là loại tội phạm nguy hiểm nhất, gây bức xúc và tạo ra tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân vì nó tước đi quyền con người cơ bản nhất – đó là quyền được sống. Vậy mà tội giết người lại chiếm đến hơn ¼ số vụ án được xét xử, số bị cáo phạm tội giết người chiếm đến hơn 20% tổng số bị cáo phạm tất cả các loại tội phạm khác. Do đó, việc hạn chế và loại trừ được loại tội phạm nguy hiểm này là một vấn đề cấp bách. Với cách nhìn nhận như vậy, để phòng ngừa tội giết người hiệu quả hơn, đề tài “Nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” đã được lựa chọn để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 2.1. Các công trình nghiên cứu về lý luận chung của tội phạm học - Giáo trình tội phạm học, do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Đại học Huế. - Trung tâm đào tạo từ xa, năm 2008. - Giáo trình tội phạm học của tập thể tác giả, Trường Đại hoc Luật Hà Nội, năm 2012, tái bản năm 2013, 2015. - Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Tập thể tác giả, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, năm 2000. - Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam, do GS.TS Nguyễn Văn Cảnh và PGS.TS Phạm Văn Tỉnh chủ biên, Học viện cảnh sát nhân dân, năm 2013. - Bài viết: “Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản” của tác giả GS.TS. Lê Cảm, Tạp chí Toà án, số 10/2001, tr.7-11 và Số 11/2001, tr.5-8. 2 - Bài viết: “Nhân thân bị can và một số khái niệm kề cận”, của tác giả TS. Bùi Kiên Điện, Tạp chí Luật học, số 6/2001, tr.14-18. - Luận văn Thạc sĩ luật học: “Nhân thân người phạm tội trong tội phạm học” của Nguyễn Thị Thanh Thủy, Trường ĐH Luật Hà Nội năm 1996. - Luận án Tiến sĩ Luật học: Nhân thân người phạm tội trong trong luật hình sự Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Thủy, năm 2005. - Bài viết: “Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2001, tr.46-53. - Bài viết: “Nhân thân người phạm tội với việc quy trách nhiệm hình sự” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Toà án, số 8/2001, tr.2-7. Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nhân thân người phạm tội, bao gồm khái niệm nhân thân người phạm tội, phân biệt khái niệm nhân thân người phạm tội với một số khái niệm khác có liên quan, các đặc điểm của nhân thân người phạm tội, vai trò của nhân thân người phạm tội trong cơ chế hành vi phạm tội… Đây là những cơ sở lý luận quan trọng mà luận văn sẽ kế thừa làm nền tảng lý luận trong luận văn của mình. 2.2. Tình hình nghiên cứu cụ thể - Luận văn thạc sĩ Luật học: “Đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long từ góc độ nhân thân người phạm tội” của Nguyễn Chí Công (2013), Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. - Luận văn thạc sĩ Luật học: “Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh” của Phạm Uyên Thy (2015), Học viện Khoa học xã hội Việt Nam. - Luận văn thạc sĩ Luật học: “Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai dưới góc độ tội phạm học” của Ngô Minh Hải (2015), Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. - Luận văn thạc sĩ Luật học: “Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Bình Dương” của Phạm Thị Triều Mến (2016), Học viện Khoa học xã hội Việt Nam. 3 - Luận văn thạc sĩ Luật học: “Nhân thân người phạm tội xâm phạm sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi” của Võ Thị Tương (2016), Học viện Khoa học xã hội Việt Nam. - Bài viết: “Nhân thân người phạm tội một căn cứ để quyết định hình phạt” của tác giả Trần Văn Sơn, Tạp chí Luật học, số 1/1997, tr.41-43. - Bài viết: “Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân nhắc khi quyết định hình phạt” của tác giả Trịnh Tiến Việt, Tạp chí kiểm sát, số 1/2003, tr.21-23. - Bài viết: “Cần có biện pháp để thống nhất khi áp dụng tình tiết đã bị xử phạt hành chính trong Bộ luật hình sự” của tác giả Lê Đức Tùng, Tạp chí Kiểm Sát, số 5/2005, tr.34-36. - Bài viết: “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn quyết định hình phạt” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Toà án nhân dân, số 19/2005, tr.3- 9. - Bài viết: “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn truy cứu trách nhiệm hình sự” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí kiểm sát, số 17/2005, tr.32- 35. - Bài viết: “Các tình tiết định khung tăng nặng trong tội giết người phản ánh mức độ lỗi và các đặc điểm về nhân thân người phạm tội” của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí Toà án nhân dân, số 18/2005, tr.17- 20. - Bài viết: “Một số đặc điểm chú ý về nhân thân của người phạm tội về ma tuý ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tuyết Mai, Tạp chí Luật học, số 11/2006, tr.3237. - Bài viết: “Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự liên quan đến nhân thân người phạm tội” của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí Toà án, số 13/2009, tr.2327 và số 14,tr.19-28. - Bài viết: “ Một số vấn đề nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn Quang Hạnh, Tạp chí Nghề luật, số 1/2013, tr.52- 57. 4 - Bài viết: “Đặc điểm nhân thân người phạm tội và phương thức thực hiện tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai” của tác giả Lê Văn Định, Tạp chí kiểm sát, số 6/2015, tr.47- 53. Các tác giả trong các công trình nghiên cứu trên đã phân tích làm rõ vai trò của nhân thân người phạm tội trong quyết định hình phạt, trong định tội danh hoặc trong quy định liên quan đến các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự. Một số tác giả đã tập trung đi sâu phân tích đặc điểm nhân thân người phạm tội gắn với một số loại tội phạm cụ thể, như tội giết người, tội trộm cắp tài sản, các tội phạm về ma tuý… Những kết quả của các công trình nghiên cứu này cũng là những tri thức, hiểu biết quan trọng mà tác giả có thể kế thừa trong quá trình nghiên cứu làm đề tài của mình. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu chuyên sâu về nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa những tri thức lý luận nền tảng về nhân thân người phạm tội cũng như những tri thức nghiên cứu về nhân thân người phạm tội trong các loại tội, nhóm tội ở các địa phương nhất định trong các công trình của các tác giả kể trên, tác giả sẽ vận dụng đi sâu nghiên cứu về nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Từ thực tiễn tình hình tội phạm giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2015, tác giả sẽ đi sâu phân tích làm rõ lý luận về nhân thân người phạm tội gắn với đặc điểm tình hình kinh tế, văn hoá, đạo đức, truyền thống... của người dân thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, kiến nghị các giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ khía cạnh nhân thân người phạm tội. Đây chính là hướng nghiên cứu của luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội giết người trong giai đoạn 2011 đến năm 2015 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh không có mục đích tự thân. Mục đích của nó, thiết nghĩ, phải là hoàn thiện giải pháp phòng ngừa tội giết người 5 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thông qua việc làm rõ những đặc điểm nhân thân người phạm tội và xác định được các yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm tội giết người ở Thành phố Hồ Chí Minh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau: Một là, nghiên cứu lý luận và pháp luật. Nhiệm vụ này bao gồm những hoạt động cụ thể như: Tìm, thu thập và nghiên cứu những tài liệu về tội phạm học, về pháp luật hình sự và những tài liệu khác liên quan đến đề tài luận văn làm cơ sở cho việc nhận thức thống nhất, rõ ràng phương pháp luận nghiên cứu và sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể cho phù hợp; Hai là, nghiên cứu thực tế, bao gồm ba hoạt động sau: Tìm, thu thập, xử lý, phân tích, so sánh những số liệu thống kê thường xuyên của một số cơ quan tư pháp, đặc biệt là số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự từ năm 2011 đến năm 2015 của Toàn án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về tội giết người; Tìm, thu thập các bản án xét xử sơ thẩm hình sự về tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2015 và xử lý, phân tích, so sánh theo các tiêu thức Tội phạm học cần thiết. Tìm, thu thập và nghiên cứu các báo cáo tổng kết năm của cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Ba là, nghiên cứu sáng tạo, bao gồm các việc cụ thể sau: - Khái quát hóa những vấn đề lý luận chung về nhân thân người phạm tội; - Áp dụng lý luận đó vào việc làm rõ các đặc điểm nhân thân và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; - Kiến nghị hoàn thiện giải pháp phòng ngừa tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ khía cạnh nhân thân người phạm tội. 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài đã nêu thể hiện ở việc làm rõ mối quan hệ phụ thuộc giữa các đặc điểm nhân thân người phạm tội giết người với các hiện tượng, quá trình kinh tế-xã hội khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, tức là làm rõ quy luật của sự phạm tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Xét về mặt nội dung: đề tài của tác giả nghiên cứu trong phạm vi tội phạm học thuộc chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Về cấp xét xử: Luận văn tập trung nghiên cứu cấp xét xử hình sự sơ thẩm. Về thời gian: đề tài sử dụng chất liệu nghiên cứu trong vòng 05 năm, từ năm 2011 đến năm 2015, bao gồm số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án về tội giết người và 200 bản án hình sự sơ thẩm về tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Về không gian: đề tài Luận văn được thực hiện trên phạm vi Thành phố Hồ Chí Minh. Về tội danh: đề tài nghiên cứu tội giết người theo quy định tại Điều 93 Chương XIV Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏa, nhân phẩm, danh dự của con người trong BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta về phòng, chống tội phạm nói chung và phòng, chống tội giết người nói riêng. Trong quá trình thực hiện đề tài, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của lĩnh vực khoa học xã hội và các phương pháp nghiên cứu đặc thù của Tội phạm học, như: phương pháp kế thừa, phương pháp hệ thống, thống kê, lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, so sánh, dự báo để rút ra được những kết luận có tính lý luận và thực tiễn. 7 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Về lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về nhân thân người phạm tội giết người, kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần bổ sung lý luận về nhân thân người phạm tội giết người, nhân thân người phạm tội cũng như lý luận Tội phạm học. Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn là những tài liệu quan trọng giúp các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm do người phạm tội giết người thực hiện, góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động phòng, chống tội phạm nói chung trong phạm vi toàn Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng là những tài liệu tham khảo hữu ích cho các cán bộ, giảng viên, sinh viên trong các cơ sở đào tạo. 7. Cơ cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có kết cấu ba chương, cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về nhân thân người phạm tội giết người Chương 2: Thực tiễn nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Giải pháp phòng ngừa tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ khía cạnh nhân thân người phạm tội 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI GIẾT NGƯỜI 1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội giết người Nhân thân người phạm tội là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như: Khoa học Luật Hình sự, Khoa học Luật Tố tụng hình sự, Xã hội học Tội phạm,... Tuy nhiên, mỗi ngành khoa học nghiên cứu nhân thân người phạm tội dưới các góc độ, mục đích, cách tiếp cận khác nhau. Tội phạm học nghiên cứu các đặc điểm nhân thân người phạm tội có ý nghĩa đối với cơ chế hành vi phạm tội, cũng như có ý nghĩa trong phòng chống, tình hình tội phạm. Xã hội loài người là một tập hợp người, được tổ chức, có phân công lao động, tồn tại qua thời gian, sống trên cùng một vùng lãnh thổ và chia sẽ những mục đích chung, cùng nhau thực hiện những nhu cầu chủ yếu của đời sống, như: nhu cầu tái sản xuất, sản xuất của cải vật chất, nhu cầu an ninh, các nhu cầu tinh thần,... Theo K. Marx, xã hội là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người. Do đó, bản chất của con người bao gồm cả tính tự nhiên (những nội dung về sinh học) và cả tính xã hội (những nội dung về xã hội). Đặc tính sinh học của con người thể hiện ở giới tính, tuổi, dân tộc,... và những nhu cầu tự nhiên cho sự tồn tại của con người. Khi nghiên cứu về nhu cầu của con người, Maslow cho rằng con người có năm nhóm nhu cầu khác nhau cần được thỏa mãn: - Thấp nhất là nhu cầu sinh lý: ở đây con người thể hiện nhu cầu được sinh tồn như thở, thức ăn, nước uống, tình dục, nghỉ ngơi, nơi trú ngụ,... Con người chỉ có thể đáp ứng được nhu cầu này của mình thông qua hoạt động tự lao động. - Tiếp theo là nhu cầu được an toàn: Đây là nhu cầu được bảo vệ về an toàn thân thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản đước bảo đảm. - Bậc ba trong tháp nhu cầu của Maslow là nhu cầu được giao tiếp xã hội - Bậc bốn trong tháp nhu cầu của Maslow là nhu cầu được tôn trọng. - Bậc cao nhất trong tháp nhu cầu này là nhu cầu tự thể hiện, tự khẳng định bản thân. 9 Bất kỳ cá nhân nào trong xã hội đều cần thỏa mãn những nhu cầu này. Nhưng để thỏa mãn được nó, mỗi cá nhân không thể tách mình riêng biệt ra khỏi mối quan hệ và sự tương tác với những cá nhân khác trong xã hội. Tương tác xã hội là mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các cá nhân với nhau (cấp độ vi mô), sự tương tác giữa các thiết chế xã hội như: gia đình, nhà trường, chính trị, tôn giáo, nhà nước, pháp luật,... (cấp độ vĩ mô). Quá trình tương tác này được thực hiện thông qua hành vi của con người và chịu ảnh hưởng của các giá trị, chuẩn mực của xã hội. Chính sự tương tác xã hội sẽ tạo ra các mối liên hệ giữa người với người trong cơ cấu xã hội (nhóm, tập hợp, hội đoàn) – từ đó xuất hiện quan hệ xã hội giữa người và người. Đây chính là đặc tính xã hội của con người. Nhân thân con người là sự thống nhất giữa các đặc tính xã hội và các đặc tính sinh học, tâm lý của một người, thể hiện bản chất riêng của con người đó trong các mối quan hệ xã hội, thể hiện họ là chính họ. Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học là con người phạm tội chứ không phải con người nói chung. Người phạm tội là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS và bị coi là tội phạm [34, tr.149]. Vì vậy, khi đề cập đến nhân thân người phạm tội là nói đến các đặc điểm của nhân thân con người nói chung và cả những đặc điểm đặc trưng của bản thân người phạm tội – những đặc điểm thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của họ, như là: tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội họ có NLTNHS, đạt độ tuổi theo luật định, tâm lý, tính cách, thói quen, sở thích, quan điểm, thái độ, ý thức pháp luật,... Tất cả các đặc điểm tâm, sinh lý này của người phạm tội phụ thuộc vào điều kiện sống, giáo dục của gia đình và nhà trường, và những mối quan hệ nhất định. Chính các đặc điểm này dưới sự tác động của các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài, của những tình huống cụ thể đã tạo thành động lực thúc đẩy việc thực hiện tội phạm. Trong Tội phạm học, nhân thân người phạm tội là tổng hòa các yếu tố, các đặc điểm riêng biệt của người phạm tội ở một địa bàn hành chính – lãnh thổ nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định về các mặt tâm – sinh lý – xã hội, nhân 10 khẩu – nhân chủng học, dân tộc học và pháp lý, những cái có ý nghĩa, điều kiện của tội phạm để có giải pháp phòng ngừa tội phạm phù hợp [4, tr.348]. Như vậy, có thể kết luận rằng: Nhân thân người phạm tội là toàn bộ các đặc điểm tự nhiên, xã hội của người phạm tội trong mối tương tác với những hoàn cảnh, điều kiện nhất định dẫn đến việc con người thực hiện một hành vi mà pháp luật hình sự gọi đó là tội phạm. Bao gồm: đặc điểm tự nhiên, đặc điểm xã hội, và đặc điểm pháp lý hình sự. Các đặc điểm này của nhân thân người phạm tội chỉ bộc lộ hoàn toàn khi một người đã thực hiện hành vi phạm tội. Trên cơ sở khái niệm nhân thân người phạm tội nói chung có thể rút ra khái niệm nhân thân người phạm tội giết người như sau: Nhân thân người phạm tội giết người là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm tội giết người được quy định tại Điều 93 BLHS 1999, sửa đổi bổ sung 2009. 1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội giết người Mỗi nhân thân người phạm tội cụ thể đều có những đặc điểm, dấu hiệu chung trong từng nhóm người phạm tội hay trong tất cả người phạm tội và nó còn có những đặc điểm, dấu hiệu đặc thù của nhân thân người phạm tội đó. Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến các đặc điểm của nhân thân người phạm tội giết người. Hệ thống các đặc điểm của nhân thân người phạm tội giết người cũng có các đặc điểm của nhân thân người phạm tội nói chung nhưng cũng có các đặc điểm riêng, có thể chia làm bốn nhóm sau: - Nhóm đặc điểm sinh học của người phạm tội; - Nhóm đặc điểm xã hội của người phạm tội; - Nhóm đặc điểm nhận thức, tâm lí của người phạm tội - Nhóm đặc điểm pháp lí hình sự. 1.2.1. Nhóm đặc điểm sinh học 1.2.1.1. Giới tính 11 Nghiên cứu đặc điểm giới tính của người phạm tội, tội phạm học xác định hai vấn đề: tỷ lệ phạm tội của nam giới và nữ giới, và những đặc trưng của tội phạm do nam giới và nữ giới thực hiện. Khi nghiên cứu số liệu cơ cấu giới tính của những người phạm tội nói chung và người phạm tội giết người nói riêng cho thấy rằng nam giới chiếm số lượng tương đối lớn trong tổng số người phạm tội. Nghiên cứu đặc điểm giới tính của người phạm tội giết người giúp chúng ta xác định tỷ lệ người phạm tội giết người giữa nam và nữ, ảnh hưởng của giới tính đến việc thực hiện hành vi giết người. Thực tế hiện nay cho thấy, trong số các bị cáo phạm tội giết người thì có hơn 90% là nam giới. Sỡ dĩ nam giới phạm tội giết người nhiều hơn nữ giới là vì đặc điểm tâm sinh lý của nam dễ bị ảnh hưởng của môi trường sống, dễ làm phát sinh tâm lý tiêu cực, dễ nhiễm thói hư tật xấu. Bên cạnh đó, nam giới thường có khuynh hướng muốn thể hiện sức mạnh của mình hoặc thích dung vũ lực khuất phục và răn đe người khác nên họ cũng dễ phạm tội giết người hơn nữ giới. 1.2.1.2. Lứa tuổi Sự phát triển về thể chất, tâm sinh lý, nhận thức, tinh thần, ý thức, kiến thức xã hội, kinh nghiệm sống,… của mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có những đặc điểm riêng khác nhau. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hành vi của con người. Việc nghiên cứu đặc điểm về lứa tuổi nhằm xác định hai vấn đề quan trọng là: lứa tuổi nào phạm tội nhiều nhất, phân bố và diễn biến của tội phạm theo lứa tuổi và cơ cấu của tội phạm theo lứa tuổi. Độ tuổi của người phạm tội được tội phạm học nghiên cứu gồm 4 nhóm: nhóm người từ 14 đến dưới 18 tuổi, nhóm người từ 18 đến 30 tuổi, nhóm người từ 30 tuổi đến 45 tuổi và nhóm người trên 45 tuổi. Thực tế cho thấy người phạm tội giết người ở độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất. Những năm gần đây, người phạm tội giết người đang có xu hướng trẻ hóa, nhóm người phạm tội dưới 18 tuổi đang có xu hướng gia tăng. Nghiên cứu đặc điểm lứa tuổi giúp cho việc sắp xếp thứ tự ưu tiên trong các biện pháp giáo dục, cải tạo, đấu tranh phòng, ngừa tội giết người 1.2.2. Nhóm đặc điểm xã hội 12 1.2.2.1. Ttrình độ học vấn Theo định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt thì học vấn là sự hiểu biết do học tập mà có. Trình độ học vấn thể hiện mức độ hiểu biết, kiến thức của con người về thế giới khách quan, về xã hội, về các mối quan hệ xã hội và những lĩnh vực khác trong đời sống. Tất cả những sự hiểu biết này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển trí tuệ, đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Có thể nói, trình độ học vấn có sự tác động rất lớn lên hành vi ứng xử và cách giải quyết mâu thuẫn trong cuộc sống của mỗi người. Trong rất nhiều trường hợp do trình độ học vấn thấp đã tạo ra nhiều hạn chế trong việc một cá nhân xử lý các tình huống phát sinh trong cuộc sống hàng ngày, làm cho nhiều người có suy nghĩ lệch lạc, từ đó họ có những hành vi trái với những quy định của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Nghiên cứu đặc điểm về trình độ học vấn giúp xác định được sự phân bổ của tội phạm theo trình độ học vấn, cơ cấu của tội phạm theo trình độ học vấn. Kết quả thống kê cho thấy trình độ học vấn của người phạm tội thường thấp hơn so với những người không phạm tội trong cùng một lứa tuổi (trừ một số nhóm tội như: tội tham nhũng, các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về kinh tế, tội phạm có động cơ vụ lợi được thực hiện bằng cách lợi dụng chức vụ quyền hạn thì thường do những người có trình độ học vấn cao thực hiện). Đối với tội giết người, phần lớn người phạm tội giết người có trình độ học vấn là trung học cơ sở. Với trình độ học vấn này, người phạm tội giết người đã có đủ khả năng nhận thức về mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và hậu quả do hành vi của mình gây ra. Nhưng do nhân cách chưa phát triển hoàn chỉnh, ý thức pháp luật còn thấp, thiếu sự quan tâm giáo dục của gia đình, cùng với mặt trái của phim ảnh bạo lực, internet và các phương tiện truyền thông đại chúng khác đã làm nảy sinh những suy nghĩ tiêu cực, lệch lạc trong giải quyết mâu thuẫn, cuối cùng dẫn đến hành vi giết người. 1.2.2.2. Địa vị xã hội và nghề nghiệp 13 Địa vị xã hội và nghề nghiệp là một trong những đặc điểm quan trọng của nhân thân con người nói chung và nhân thân người phạm tội nói riêng. Nếu như vị trí xã hội là thế đứng của một cá nhân trong một nhóm, một đoàn thể đã được xã hội quy định thì địa vị xã hội được hiểu là toàn bộ đánh giá của xã hội về mặt uy tín, thế lực, sự trọng vọng,… đối với một cá nhân. Địa vị xã hội và nghề nghiệp có mối quan hệ nhất định với nhau và liên quan mật thiết đến hành vi của con người. Đối với những người có nghề nghiệp ổn định, có địa vị xã hội cao sẽ dễ dàng có được những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách, những nhu cầu cơ bản của đời sống được đảm bảo thì sẽ hạn chế được việc xảy ra mâu thuẫn, đặc biệt là những mâu thuẫn từ kinh tế. Nghiên cứu địa vị xã hội và nghề nghiệp cho biết nhóm người làm việc ở những ngành, lĩnh vực nào trong xã hội dễ thực hiện tội phạm và loại tội phạm họ thực hiện [41, tr.145]. Một số nhóm tội mà đặc điểm nghề nghiệp và địa vị xã hội có ảnh hưởng khá lớn đến hành vi phạm tội như là nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, nhóm tội tham nhũng,… Đối với tội giết người thì địa vị xã hội và nghề nghiệp không ảnh hưởng nhiều đến hành vi phạm tội. Theo số liệu thống kê thì đa số người phạm tội giết người thường là những người không có nghề nghiệp, hoặc có nghề nghiệp nhưng không ổn định hoặc là những người đã có tiền án, tiền sự về nhóm các tội xâm phạm sở hữu Dựa vào đặc điểm nghề nghiệp, người phạm tội giết người được chia thành 3 nhóm: nghề nghiệp ổn định, nghề nghiệp không ổn định và không có nghề nghiệp. Dựa vào địa vị xã hội, có thể chia người phạm tội giết người thành 2 nhóm: người có địa vị xã hội cao và người có địa vị xã hội thấp. 1.2.2.3. Hoàn cảnh gia đình Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau. Trong các nghiên cứu của xã hội học, gia đình được hiểu là một nhóm xã hội được hình thành trên cơ sở hôn nhân và quan hệ huyết thống, những thành viên trong gia đình có sự gắn bó 14 và ràng buộc với nhau về trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ có tính hợp pháp được nhà nước thừa nhận và bảo vệ [37, tr.176]. Đối với xã hội, gia đình có nhiều chức năng như chức năng tái sản sinh xã hội (duy trì nòi giống), chức năng giáo dục, chức năng kinh tế và văn hóa, chức năng thỏa mãn nhu cầu tình cảm, tâm lý, chức năng chăm sóc người già và trẻ em. Tất cả những chức năng này có mối liên hệ mật thiết và tác động lẫn nhau nhưng có thể nói rằng chức năng giáo dục của gia đình là chức năng quan trọng nhất. Gia đình là trường học đầu tiên và là môi trường quan trọng cho việc hình thành nhân cách và năng lực của cá nhân. Thông qua gia đình, cá nhân được học hỏi các chuẩn mực, các giá trị mà xã hội đề cao. Những yếu tố quan trọng nhất trong nhân cách của một cá nhân như là: nhận thức về chính mình, thái độ, sở thích, niềm tin, mục đích sống, định hướng giá trị, định hướng nghề nghiệp… đều được hình thành trong khuôn khổ gia đình thông qua vai trò của những thành viên trong gia đình đặc biệt là cha mẹ. Những khiếm khuyết của gia đình cộng với những yếu tố khác đã tác động đến việc thực hiện tội phạm của cá nhân. Người phạm tội thường xuất thân trong những gia đình có một số khiếm khuyết, hạn chế nhất định như sự khó khăn về kinh tế; hoàn cảnh hôn nhân, gia đình không đầm ấm, thiếu hạnh phúc; gia đình có sự hạn chế trong việc kiểm soát, giáo dục, quản lí đối với các thành viên. Những biểu hiện cụ thể của sự khiếm khuyết trong gia đình có thể ở một số hoàn cảnh như: gia đình có cơ cấu không hoàn thiện; gia đình có bầu không khí xung đột căng thẳng kéo dài; gia đình có khiếm khuyết, sai lệch trong ý thức đạo đức, ý thức pháp luật và định hướng giá trị; gia đình có một hoặc nhiều thành viên phạm tội. Nghiên cứu cho thấy phần lớn người phạm tội giết người xuất thân từ cuộc sống gia đình không hòa thuận, các thành viên trong gia đình không có trách nhiệm với nhau, thiếu sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Ngoài ra, hoàn cảnh kinh tế của gia đình của người phạm tội giết người cũng khá khó khăn. Điều kiện kinh tế của gia đình có sự ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục, trình độ học vấn, và nghề nghiệp của một cá nhân. 15 Dựa vào đặc điểm hoàn cảnh gia đình, người phạm tội giết người được chia thành: gia đình khuyết thiếu; gia đình không hòa thuận, thiếu quan tâm đến con cái; gia đình nuông chiều con cái; tình trạng hôn nhân của người phạm tội giết người được chia thành: chưa có gia đình; có gia đình (có con, chưa có con, đã ly hôn). Nghiên cứu đặc điểm về hoàn cảnh gia đình giúp nhận thức được nguyên nhân của việc hình thành các đặc điểm tâm lí tiêu cực của người phạm tội giết người; thấy được vai trò, trách nhiệm của gia đình đối với hành vi phạm tội của họ. Từ đó có thể kiến nghị những biện pháp phòng ngừa sớm từ góc độ gia đình thông qua các biện pháp giáo dục và kiểm soát của gia đình đối với cá nhân. 1.2.2.4. Nơi cư trú, dân tộc, quốc tịch, tôn giáo Ngoài các đặc điểm xã hội của nhân thân người phạm tội giết người nói trên, các đặc điểm khác như: dân tộc, quốc tịch, nơi cư trú, nơi sinh, tôn giáo,… cũng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách con người. Ngoài ra những yếu tố này còn có thể ảnh hưởng đến một số đặc điểm thuộc tâm lí cá nhân như: yếu tố văn hóa, tập quán, thói quen, nét tính cách đặc trưng của địa phương nơi cư trú,… Điều này có ý nghĩa trong hoạt động dự báo và hoạt động phòng, ngừa tội phạm. Dựa vào đặc điểm dân tộc, người phạm tội giết người được chia thành 02 nhóm: người dân tộc Kinh, người dân tộc thiểu số. Dựa vào đặc điểm quốc tịch, người phạm tội giết người được chia thành 03 nhóm: công dân Việt Nam, người nước ngoài và người không quốc tịch. Dựa vào đặc điểm tôn giáo, người phạm tội giết người được chia thành 04 nhóm: người không theo tôn giáo, người theo đạo Phật, người theo đạo Thiên chúa, và các tôn giáo khác. Dựa vào đặc điểm nơi cư trú và nơi cư trú, người phạm tội giết người được chia thành 03 nhóm: người nhập cư và có nơi cư trú ổn định, người có hộ khẩu thường trú, và người không có nơi cư trú ổn định. 1.2.3. Nhóm đặc điểm nhận thức, tâm lí 16 Nhóm các đặc điểm về nhận thức, tâm lí của người phạm tội giết người bao gồm: định hướng giá trị, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật, nhu cầu, hứng thú, động cơ, mục đích phạm tội,… 1.2.3.1. Ý thức đạo đức Theo Tâm lí học thì ý thức là hình thức phản ánh tâm lí cao nhất chỉ có ở con người, là sự phản ánh bằng ngôn ngữ những gì con người đã tiếp thu trong quá trình quan hệ qua lại với thế giới khách quan [11, tr. 291]. Theo Triết học Mac – Lênin thì ý thức xã hội là tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tri thức, quan điểm, tư tưởng, tình cảm, truyền thống, tập quán,… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong một giai đoạn nhất định. Là một dạng của ý thức xã hội, ý thức đạo đức thể hiện trong sự đánh giá về các giá trị như: tốt – xấu, khen – chê, cao thượng – thấp hèn,… Ý thức đạo đức được hình thành dựa trên sự hiểu biết và tuân thủ các nguyên tắc, các chuẩn mực trong việc điều khiển hành vi, trong cách ứng xử của con người trong đời sống xã hội. Những giá trị, chuẩn mực của đạo đức xã hội là nền tảng để điều chỉnh hành vi của cá nhân, hình thành nhu cầu đạo đức ở mỗi cá nhân. Những nguyên tắc, yêu cầu của đạo đức trở thành khuôn mẫu cho hành vi, xử sự của cá nhân. Khi nghiên cứu về ý thức đạo đức của người phạm tội giết người đã cho thấy người phạm tội giết người có sự hạn chế trong việc tiếp cận với những giá trị đạo đức, điều này thể hiện ở sự hiểu biết của họ về các giá trị đạo đức là không đầy đủ, thiếu chiều sâu. Bản thân họ có những quan niệm, đánh giá riêng về những giá trị đạo đức, sự đánh giá này lại sai lệch so với những chuẩn mực chung của xã hội. Đối với họ, lợi ích cá nhân, sự thỏa mãn cái tôi của bản thân họ là trên hết. Vì vậy họ lựa chọn cách xử sự để thỏa mãn nhu cầu đó của mình mà bất chấp cả việc điều đó có thể xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác. 1.2.3.2. Ý thức pháp luật Ý thức pháp luật được hiểu là một thể thống nhất gồm sự hiểu biết về pháp luật và thái độ đối với pháp luật của cá nhân. Thật ra, ý thức pháp luật và ý thức đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan