HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỒ NGỌC ANH
NH¢N SINH QUAN PHËT GI¸O TRONG "tRUYÖN KIÒu"
CñA NGUYÔN DU - GI¸ TRÞ Vµ H¹N CHÕ
Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS
Mã số
: 62 22 80 05
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Hµ NéI - 2014
Công trình được hoàn thành
tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS Nguyễn Hùng Hậu
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Học viện chấm luận án
tiến sĩ họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Vào hồi
ngày
tháng
năm 2014
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin khoa học, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới được du nhập
vào nước ta vào khoảng thế kỷ I. Mặc dù là một tôn giáo ngoại sinh, nhưng
Phật giáo đã sớm khẳng định mình và tìm được chỗ đứng vững chắc trong
đời sống tinh thần cũng như trong nhiều hoạt động văn hoá xã hội khác
của người Việt Nam.
Để có thể nhanh chóng xác lập được vị thế của mình trong đời sống xã
hội Việt Nam, tất nhiên bên cạnh việc lựa chọn con đường, cách thức
truyền bá phù hợp với tâm lý, truyền thống của người Việt thì không thể
không nhắc đến nội dung giáo lý của nhà Phật. Với tinh thần từ, bi, hỉ, xả
của mình, Phật giáo đã tạo nên sự khác biệt với những hệ tư tưởng cùng
thời được người Hán truyền bá vào Việt Nam. Nếu như Nho giáo phải mất
một thời gian khá dài khi mà xã hội Việt Nam đã tương đối phát triển mới
được trọng dụng thì Phật giáo ngay từ khi du nhập vào Việt Nam đã nhanh
chóng hoà mình vào nền văn hoá của người bản địa bằng những câu
chuyện thần thoại mang tính nhân văn cao cả (những ông Bụt tốt bụng,
thương, giúp người lương thiện khi gặp hoàn cảnh khó khăn…)
Chúng ta biết rằng Phật giáo không đơn thuần là một tôn giáo với hệ
thống thần linh và nghi lễ thờ cúng của mình, mà nó còn là một học thuyết
triết học tương đối thâm sâu. Trong những tư tưởng triết học đó, ngoài sự
lý giải về quan niệm sống của con người (thế giới quan) thì Phật giáo đã
dành rất nhiều nội dung cho những vấn đề liên quan đến con người, đến
cuộc đời của con người (nhân sinh quan).
Có thể khẳng định rằng, những tư tưởng Phật giáo ảnh hưởng sâu đậm
trong xã hội và con người Việt Nam đa phần và chủ yếu là những quan
niệm xoay quanh vấn đề về con người và cuộc đời con người (nhân sinh
quan). Những quan niệm này cùng với thời gian đã không ngừng thấm sâu
vào hành vi, lời nói, sinh hoạt hàng ngày của người Việt (những quan niệm
về thiện ác, về nhân quả và nghiệp báo, khuyên con người làm lành lánh
2
dữ…). Không những vậy, nó còn ảnh hưởng tới cả những chuẩn mực xã
hội được cộng đồng thừa nhận, ảnh hưởng đến pháp luật của nhà nước,
ảnh hưởng tới văn học nghệ thuật, tới không gian kiến trúc… của người
Việt Nam. Nói cách khác, Phật giáo đã trở thành một phần không thể thiếu
trong nền văn hoá mang đậm bản sắc của người Việt Nam.
Trong sự ảnh hưởng của Phật giáo tới văn học nghệ thuật Việt Nam,
chúng ta không thể không nhắc tới một tác phẩm bất hủ của Nguyễn Du,
đó là “Truyện Kiều”. Đọc “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có thể thấy rõ sự
khủng hoảng của xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đầu thế
kỷ XIX, thấy được cuộc sống của con người (đặc biệt là những người phụ
nữ) bị chà đạp và xâm hại nặng nề.
Với Nguyễn Du, đằng sau câu chuyện về cuộc đời của Thuý Kiều là
những day dứt, những băn khoăn, những niềm mong ước về một cuộc sống
hạnh phúc bình yên của mỗi con người. Có thể cảm nhận được những ảnh
hưởng sâu sắc mà Nguyễn Du đã tiếp nhận từ Phật giáo mà cụ thể là nhân
sinh quan Phật giáo thông qua khái niệm nhân quả, nghiệp báo, tâm… thể
hiện trong cuộc đời của Thuý Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, Mã Giám Sinh….
Truyện Kiều không chỉ dừng lại là một tác phẩm văn học đơn thuần
phản ánh tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX mà
những vấn đề do nó đặt ra vẫn không hề lạc hậu đối với xã hội Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thị trường đã
nảy sinh rất nhiều các vấn đề liên quan đến con người và xã hội, đặc biệt là
các vấn đề về đạo đức. Đó là sự thống trị của đồng tiền, coi đồng tiền là
trên hết trong lối sống thực dụng của một số cá nhân. Vì tiền họ sẵn sàng
xâm hại các chuẩn mực đạo đức của xã hội, các giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, những hình ảnh Mã Giám Sinh, Tú Bà, Bạc Hà,
Bạc Hạnh, Khuyển, Ưng… xuất hiện ngày càng nhiều trong xã hội. Sự
xuống cấp và băng hoại về đạo đức không chỉ diễn ra trong dân chúng mà
còn xuất hiện ở một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý của nhà nước
(giống như hình ảnh những tên quan lại phong kiến đã trực tiếp hoặc gián
tiếp đẩy Thúy Kiều và gia đình của mình vào khó khăn hoạn nạn) với tình
trạng tham nhũng, cửa quyền và vô cảm trước nhân dân.
3
Trong Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước,
Đảng ta đã khẳng định: “Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc,
đạo đức, lối sống và nhân cách. Xây dựng và phát huy lối sống "Mỗi người
vì mọi người, mọi người vì mỗi người"; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân
và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình
và xã hội. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng;
nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu,
cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh
hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người”.
Chính vì vậy, việc phân tích và vận dụng tư tưởng tích cực về đạo đức,
tôn giáo trong các tác phẩm văn học nghệ thuật nói chung, tác phẩm “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du nói riêng để khuyến khích con người làm việc thiện,
tránh xa việc ác, tự chịu trách nhiệm với những hành vi cá nhân của bản
thân… từ đó góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp, lành mạnh hơn, hướng
con người đến giá trị chân - thiện - mỹ là việc làm hết sức cần thiết.
Với tính cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn như vậy, nghiên cứu sinh đã
chọn đề tài “Nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn
Du - Giá trị và hạn chế” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Phân tích nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn
Du và những giá trị, hạn chế của nó.
2.2. Nhiệm vụ
- Trình bày cơ sở hình thành cũng như nội dung của nhân sinh quan
Phật giáo thể hiện trong quan niệm về nghiệp báo, nhân quả.
- Trình bày và chỉ ra nhân sinh quan Phật giáo qua quan niệm về nghiệp
báo và nhân quả trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
- Chỉ ra những giá trị và hạn chế của nhân sinh quan Phật giáo trong
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du; ý nghĩa của việc nghiên cứu này.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu là nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: luận án giới hạn việc phân tích nhân sinh
quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du chỉ trên khía cạnh
thuyết nhân quả, nghiệp báo, khía cạnh khá nổi bật trong “Truyện Kiều”.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước về việc kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hóa
nhân loại và những giá trị truyền thống của dân tộc.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, ngoài ra còn sử dụng các phương pháp như: lịch sử - cụ thể, hệ thống
hóa, phân tích và tổng hợp, so sánh, thống kê, văn bản học …..
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án đã khái quát và hệ thống hóa những nội dung cơ bản của nhân
sinh quan Phật giáo gắn với “Truyện Kiều”, cụ thể là những quan niệm về
nghiệp báo, nhân quả và sự tiếp biến của chúng ở Phật giáo Việt Nam.
- Luận án đã chỉ ra được những giá trị và hạn chế của nhân sinh quan
trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du; ý nghĩa của việc nghiên cứu này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần phát huy những giá trị nhân văn của Phật giáo
Việt Nam nói chung, tư tưởng Phật giáo trong văn học, trong “Truyện
Kiều” nói riêng.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và
giảng dạy những môn học có liên quan đến tư tưởng Triết học (Phật giáo)
Việt Nam; tôn giáo (Phật giáo) ở Việt Nam và văn học Việt Nam.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu
Nhân sinh quan Phật giáo nói chung, quan niệm về nhân quả, nghiệp
báo của Phật giáo trong “Truyện Kiều” nói riêng là những vấn đề đã và
đang được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở những mức độ và góc độ
khác nhau. Có thể chia những công trình nghiên cứu về vấn đề này thành
những nhóm sau:
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về nhân sinh quan Phật giáo
qua quan niệm về nghiệp báo, nhân qua
Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới với một hệ thống
các tư tưởng triết học đồ sộ. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu
về nhân sinh quan Phật giáo nói chung và quan niệm về nghiệp báo, luân
hồi và nhân quả nói riêng như: Narada Thera (Phạm Kim Khánh dịch)
(1999), Đức Phật và Phật pháp, Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ
Chí Minh; Thích Thiện Siêu, Chữ nghiệp trong đạo Phật, Nhà xuất bản
Tôn giáo, Hà Nội, 2002; Thích Chân Quang, Luận về nhân quả, Nhà xuất
bản Tôn giáo, Hà Nội, 2005; D. J. Kalupahana (Đồng Loại, Trần Nguyên
Trung dịch) Nhân quả - triết lý trung tâm Phật giáo, Nhà xuất bản Tp. Hồ
Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, 2007; Diệu Thanh Đỗ Thị Bình, Đôi điều
luận về nhân quả - nghiệp báo, 2009, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Số 4,
tr. 40-41; Lưu Thị Quyết Thắng, Thử bàn về nhân sinh quan Phật giáo
qua giáo lý duyên khởi, Tạp chí nghiên cứu Phật học, 2004, Số 5, Tr. 6-10;
Mộng Đắc, Vài nét về đạo Phật và thuyết Nhân quả, Tạp chí Nghiên cứu
tôn giáo, 2009, số 4 (70), tr 71 - 74; Văn Xương Đế Quân (Quảng Tráng
lược dịch), Nhân quả báo ứng, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, 2011.
Thích Đạt Ma Phổ Giác, Nhân quả & số phận con người, Nhà xuất bản
Hồng Đức, 2013, Hà Nội; Thích Thiện Hoa, Xây dựng đời sống trên nền
nhân quả, nghiệp và luân hồi, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, 2007;
6
Nguyễn Hùng Hậu (Minh Không) (2002), Đại cương triết học Phật giáo
Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
Thông qua những công trình này, tác giả luận án đã bước đầu nhận
diện được khái niệm, nội dung, phân loại và tính chất của các quan niệm
về nhân quả, nghiệp báo, luân hồi của Phật giáo. Đó chính là cơ sở để tác giả
luận án khai thác và triển khai vào luận án triết học của mình trong chương 2:
Nhân sinh quan Phật giáo qua quan niệm về nhân quả, nghiệp báo.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về “Truyện Kiều” của Nguyễn
Du và nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
“Truyện Kiều” là một kiệt tác văn học được Nguyễn Du viết vào
khoảng những năm đầu của thế kỷ XIX. Từ đó đến nay, đã có rất nhiều các
công trình nghiên cứu về Nguyễn Du và tác phẩm “Truyện Kiều” của ông.
Có thể kể đến những công trình tiêu biểu sau: Hoài Thanh, Quyền sống
của con người trong truyện Kiều của Nguyễn Du, Hội văn hoá Việt Nam,
1949; Trương Tửu, Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du (Phê bình văn
học), Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội, 1956; Phan Ngọc, Tìm hiểu phong
cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội,
2003; Lê Nguyên Cẩn, Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá, Nhà
xuất bản Thông tin và Truyền thông, 2011; Trịnh Bá Đĩnh (2002), Nguyễn
Du -Về tác giả và tác phẩm, Nhà Xuất bản Giáo dục; Mai Phương Chi
(tuyển soạn). Truyện Kiều và lời bình / Nguyễn Khắc Viện, Đặng Thai
Mai, Đào Duy Anh... Nhà xuất bản. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005; Ngô
Quốc Quýnh, Thử tìm hiểu tâm sự của Nguyễn Du qua truyện Kiều, Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2010; Nguyễn Quảng Tuân, Tìm hiểu Nguyễn
Du và Truyện Kiều, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000; Trần
Nho Thìn, Cảm nhận của Nguyễn Du về xã hội trong Truyện Kiều, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, số 5 (tr 25-40), số 6 (tr 17-40), 2004...
Thông qua những công trình này, tác giả luận án đã phần nào nắm
được thân thế, sự nghiệp và thời đại mà Nguyễn Du sống. Đồng thời tác
giả cũng phần nào hiểu thêm về nội dung của “Truyện Kiều”, cũng như
những đánh giá, nhận định khác nhau về “Truyện Kiều” và xã hội phong
7
kiến đương thời (dù ở nhiều các khía cạnh và góc độ tiếp cận khác nhau).
Trên cơ sở những nhận định và đánh giá ấy, tác giả triển khai tìm hiểu và
đánh giá “Truyện Kiều” dưới góc độ triết học của mình.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về “Truyện Kiều” của Nguyễn
Du thì cũng đã có những công trình (dù chưa nhiều) nghiên cứu về nhân
sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (Nếu có thì chủ
yếu dưới những nội dung riêng lẻ, rời rạc. Có thể kể đến: Huyễn Ý, Truyện
Kiều qua cách nhìn của người học Phật, Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh,
Tp. Hồ Chí Minh, 2006; Thích Nhất Hạnh, Thả một bè lau, Nhà xuất bản
Văn hóa Sài gòn, Tp Hồ Chí Minh, 2009; Lê Văn Quán, “Góp phần tìm
hiểu triết lý đạo Phật trong Truyện Kiều”, Tạp chí Hán Nôm, Số 5 (102)
2010 (tr.56-66).
Nhìn chung, những công trình này chưa đi sâu vào tìm hiểu sự ảnh
hưởng của thuyết nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo trong “Truyện Kiều”
của Nguyễn Du, mà chỉ tiếp cận ở những góc độ chung như: quan niệm về
sự đau khổ, nguồn gốc của sự đau khổ, thiền, sự giải thoát…. Đôi chỗ các
tác phẩm có nói đến nghiệp báo và nhân quả, nhưng còn thực sự chưa rõ
nét và chưa được tiếp cận dưới góc độ triết học.
Trên cơ sở đó, tác giả đã kế thừa và phát triển nội dung của luận án
dưới góc độ triết học để tìm hiểu sâu về quan niệm nhân quả, nghiệp báo
của Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
1.2. Một số vấn đề đặt ra qua các công trình nghiên cứu
Để có thể tiếp cận và nghiên cứu “Truyện Kiều” của Nguyễn Du dưới
góc độ triết học theo lát cắt Phật học để chỉ ra được những ảnh hưởng của
quan niệm nghiệp báo, nhân quả Phật giáo đối với nội dung của “Truyện
Kiều”, luận án cần phải đặt ra và giải quyết được những vấn đề sau:
- Một là: cần phải khái lược lại những quan niệm về nhân quả, nghiệp
báo, luân hồi của Phật giáo, để từ đó làm công cụ tiếp cận và giải quyết
vấn đề thứ hai.
- Hai là: cần phải chỉ ra được tư tưởng về nhân quả, nghiệp báo của
Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du thông qua cuộc đời của
8
Thúy Kiều cũng như sự xuất hiện của các nhân vật khác trong “Truyện
Kiều”.
- Ba là: Dưới góc độ triết học, tác giả luận án cần phải có những đánh
giá về giá trị và hạn chế của những quan niệm về nghiệp báo, nhân quả
trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
Tiểu kết chương 1
Nội dung tư tưởng nhân sinh quan của Phật giáo cũng như những giá
trị tư tưởng của tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du cùng với vấn đề
nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đã và đang
được khá nhiều các tác giả nghiên cứu dưới những góc độ tiếp cận khác
nhau. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về
nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du một cách
có hệ thống dưới góc độ triết học khi chỉ ra những quan niệm về nghiệp
báo, nhân quả của Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du cũng
như những giá trị, hạn chế và ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân sinh quan
Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Chương 2
NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
2.1. Cơ sở hình thành của nhân sinh quan Phật giáo
2.1.1. Cơ sở kinh tế - xã hội cho sự hình thành nhân sinh quan
Phật Giáo
Phật giáo là một trong số các học thuyết triết học - tôn giáo lớn trên
thế giới, được hình thành vào khoảng thế kỷ V (TCN) ở Ấn Độ cổ đại.
Giáo lý và tư tưởng của Phật giáo khá đa dạng và phong phú, nhưng về cơ
bản thì nội dung của tư tưởng Phật giáo chủ yếu hướng vào giải quyết vấn
đề con người và đời sống của con người, chỉ ra những đau khổ và cách
thức hóa giải những đau khổ đó (nhân sinh quan).
Cơ sở kinh tế xã hội cho sự ra đời Phật giáo với nội dung chủ yếu là
những vấn đề thuộc về nhân sinh quan (những quan niệm về cuộc sống của
9
con người, về hạnh phúc và đau khổ mà con người đang phải trải qua, về
đẳng cấp và sự bất bình đẳng…) chính là sự phân hoá và mâu thuẫn giai
cấp, đẳng cấp hết sức sâu sắc trong xã hội Ấn Độ cổ đại trên mọi phương
diện và mọi mặt của đời sống xã hội.
2.1.2. Cơ sở tư tưởng cho sự hình thành nhân sinh quan Phật giáo
Sự hình thành và phát triển của các tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại
luôn gắn liền với những thành quả của khoa học, tư tưởng và tôn giáo đã
và đang tồn tại trong xã hội lúc bấy giờ. Các hệ tư tưởng ra đời sau luôn
chịu sự ảnh hưởng và có tính kế thừa các tư tưởng của các học thuyết và
trào lưu tư tưởng trước đó.
Phật giáo nói chung, nhân sinh quan Phật giáo nói riêng ra đời trên cơ
sở kế thừa những tư tưởng triết học đương thời như: Samkhuya; Yoga;
Nyaya; Mimansa; Vedanta (đây còn gọi là năm trường phái triết học chính
thống - tức là thừa nhận tính đúng đắn tuyệt đối của Vêda) với nội dung
nhân sinh quan cơ bản xoay quanh quan niệm về nhân quả, nghiệp báo và
luân hồi.
2.1.3. Đức Phật - người hình thành nên nhân sinh quan Phật giáo
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thời thơ ấu là một thái tử tên Siddhantha
(Tất Đạt Đa), theo truyền thuyết, Ngài giáng sinh vào ngày 15-4 năm 624
TCN tại vườn Lumbini (Lâm tỳ ni) cách thành Kapilavastu (Ca tỳ la vệ)
khoảng 15 km. Song thân của Ngài là Quốc Vương Suddhodana (Tịnh
Phạn) và Hoàng Hậu Màya (Ma da) thuộc dòng dõi Sakya (Thích Ca).
Ngay từ khi sinh ra, Ngài đã được tiên đoán là sẽ là một vĩ nhân có thể cứu
giúp nhân loại khỏi khổ đau. Mặc dù được sống trong nhung lụa, giàu
sang, nhưng Ngài đã từ bỏ lên núi tu hành để tìm con đường giải thoát nỗi
khổ cho chúng sinh. Sau sáu năm tu hành khổ hạnh trên núi không thành
công, Ngài xuống núi và ngộ ra Tứ diệu đế khi ngồi thiền 49 ngày dưới
gốc cây Bồ đề.
Thông qua truyền thuyết về cuộc đời Đức Phật đã phần nào cho ta
thấy lý do ra đời nhân sinh quan Phật giáo - đó chính là sự quan tâm, mong
muốn hàng đầu của Đức Phật cho việc giải thoát con người khỏi sự đau
10
khổ, bất hạnh - vấn đề thuộc về nhân sinh quan chứ không quá sa đà vào
những vấn đề thuộc siêu hình học bởi vì nước mắt của chúng sinh nhiều
hơn nước biển.
2.2. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo
Trong tư tưởng triết học của Phật giáo, nhân sinh quan là những quan
niệm về con người và cuộc đời con người mà hạt nhân của nó chính là Tứ
diệu đế và thuyết nhân quả, nghiệp báo, luân hồi. Với những quan niệm ấy,
Phật giáo phủ nhận vai trò quyết định của một vị thượng đế tối cao đến sự
hình thành cũng như cuộc sống của con người. Theo đó, Phật giáo cho
rằng con người nói riêng, giống hữu tình nói chung được hình thành theo
luật nhân quả, nghiệp báo.
2.2.1. Nhân sinh quan Phật giáo thể hiện trong thuyết nghiệp báo
Nghiệp, theo quan niệm của Phật giáo, là hành vi hay hành động có
tác ý. Theo đó, tất cả những hành động có tác ý, dù biểu hiện bằng thân,
khẩu, hay ý, đều tạo Nghiệp. Tất cả những hành động có tác ý, thiện hay
bất thiện, đều tạo Nghiệp. Những hành động không có chủ tâm (không
tác ý, vô ý), mặc dầu đã biểu hiện bằng lời nói hay việc làm, đều không
tạo Nghiệp.
* Nguồn gốc của Nghiệp
Theo Phật giáo, sở dĩ chúng ta có những hành động (thân, khẩu, ý) tạo
Nghiệp là do vô minh và tham dục gây ra. Vô minh là điểm khởi đầu của
thập nhị nhân duyên - nguyên nhân gây đau khổ của con người. Vô minh
được hiểu là lớp mây mù bao phủ, che lấp mọi sự hiểu biết của con người,
làm cho con người không nhận thức được thực tướng của sự vật, hiện
tượng (vạn pháp) hay không thấu hiểu chân tướng của chính mình. Đức
Phật có nói: “Vô minh là lớp ảo kiến mịt mù dày đặc trong ấy chúng sinh
quay quần quanh lộn”
* Phân loại Nghiệp
Thông thường, Nghiệp được tạo tác trên cơ sở của thân, khẩu và ý.
Tất nhiên, cả ba nghiệp trên đều xuất phát từ ý hay còn gọi là tâm. Như
thế, khi xét đến Nghiệp của một con người là xét đến thân Nghiệp, khẩu
11
Nghiệp và ý Nghiệp. Ngoài ba Nghiệp này, không còn một cái Nghiệp
nào khác.
Tuy nhiên, tùy vào tiêu chí khác nhau mà nghiệp có những tên gọi
khác nhau.
1. Căn cứ vào tính chất và cảnh giới thì có: Thiện Nghiệp và Ác Nghiệp
2. Căn cứ theo tiến trình (từ nhân đến quả) của nghiệp thì có hai loại
nghiệp cơ bản: Định nghiệp và Bất định nghiệp.
3. Theo phương diện tác động: Sinh nghiệp; Trì nghiệp; Chướng
nghiệp và Đoạn nghiệp.
4. Theo năng lực (mức độ): Tập quán nghiệp; Cực trọng nghiệp; Cận
tử nghiệp; Tích lũy nghiệp.
5. Theo thời gian trả quả: Hiện báo nghiệp; Sinh báo nghiệp; Vô hạn
định nghiệp và Vô hiệu nghiệp.
2.2.2. Nhân sinh quan Phật giáo thể hiện trong thuyết nhân qua
Nhân có thể được hiểu là năng lực phát động, là cái hạt, còn quả được
hiểu là sự hình thành của năng lực phát động ấy, là cái quả do hạt ấy sinh
ra. Nhân và quả không tồn tại độc lập với nhau mà có liên quan mật thiết
với nhau, đan lấy nhau, ảnh hưởng, tương phản và thừa tiếp nhau. Một quả
được hình thành có thể do nhiều nhân tạo ra. Một nhân cũng có thể cho
nhiều quả khác nhau. Bản thân nhân, quả cũng chỉ mang tính tương đối.
Nhân không thể sinh ra quả nếu thiếu Duyên. Duyên là yếu tố tác động
giữa “nhân” và “quả”. Duyên cũng được hiểu là điều kiện, hoàn cảnh, môi
trường…(điều kiện xấu được gọi là nghịch duyên, còn điều kiện tốt được
gọi là thuận duyên).
Theo quan niệm của Phật giáo, tất cả mọi sự trên thế gian này đều do
nhân duyên hợp thành. Tất nhiên, sự ràng buộc của nhân và duyên ấy không
phải là ngẫu nhiên, mà nó hàm chứa nhân quả hay “nghiệp” ở trong đó.
Cũng giống khái niệm nhân, quả, “duyên” cũng mang tính tương đối.
Nghĩa là, trong mối quan hệ này, nó có thể được hiểu là duyên, nhưng
cũng vẫn là nó, khi xem xét ở mối quan hệ khác thì lại trở thành nhân hoặc
quả của một cái gì đó.
12
Tiểu kết chương 2
Trên cơ sở những điều kiện kinh tế, chính trị xã hội cũng như kế thừa
những tư tưởng của các trường phái triết học trước đó, Phật giáo đã hình
thành nên nội dung nhân sinh quan riêng có của mình. Trong những vẫn đề
thuộc nhân sinh quan ấy thì quan niệm về nghiệp báo, nhân quả và luân
hồi là những tư tưởng cơ bản, nòng cốt của triết học Phật giáo. Điểm nổi
bật của những tư tưởng này chính là sự phủ nhận vai trò của những lực
lượng siêu nhiên, thần thánh chi phối đến sự hình thành và biến đổi của
con người cũng như cuộc sống của họ, mà khẳng định tính khách quan, vô
thần khi nhấn mạnh đến sự thọ lãnh trách nhiệm của con người đối với
chính hành vi (thân, khẩu, ý) của mình trong quá khứ cũng như ở hiện tại.
Chương 3
NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG “TRUYỆN KIỀU”
CỦA NGUYỄN DU
3.1. Khái lược chung về cuộc đời của Nguyễn Du và
“Truyện Kiều”
3.1.1. Về cuộc đời của Nguyễn Du
Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử vô cùng rối
ren và phức tạp. Đất nước chia đôi, các thế lực phong kiến cầm quyền bị
phân hóa, các cuộc khởi nghĩa chống đối của nhân dân nổi lên khắp nơi
cùng với các cuộc chiến tranh liên miên giữa hai nhà chúa đã đưa đất nước
vào chỗ suy sụp về mọi mặt, sản xuất nông nghiệp bị đình trệ vì các cuộc
xung đột vũ trang cũng như bởi thiên tai, dịch bệnh… người dân rơi vào
cảnh cơ cực và khốn đốn.
Với hoàn cảnh xã hội đầy rối loạn như vậy, tinh thần tam giáo dường
như lại có cơ hội để phát triển. Phật giáo không chỉ tiếp tục khẳng định vị
trí quan trọng ở tầng lớp bình dân mà còn được mở rộng ở tầng lớp nho sĩ.
13
Thái độ “cư Nho mộ Thích”, “dĩ Phật tải Nho” là khá phổ biến trong tầng
lớp nho sĩ cũng như quan lại phong kiến thời kỳ này.
Tất cả những yếu tố của thời đại ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đến suy nghĩ
và hành động của Nguyễn Du. Tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
không đơn thuần là một tác phẩm được ra đời theo một cốt truyện của một
tác phẩm khác, mà hơn thế nữa, nó chính là tâm sự, là tấm gương phản ánh
cuộc đời của Nguyễn Du và thời đại của ông.
3.1.2. Khái lược tác phẩm “Truyện Kiều”
“Truyện Kiều” được Nguyễn Du phóng tác từ tác phẩm “Kim Vân
Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác giả sống khoảng cuối đời
Minh, đầu đời Thanh - Trung Quốc. Câu chuyện kể về cuộc đời tài hoa bạc
mệnh, truân chuyên lưu lạc của người con gái họ Vương tên Thúy Kiều.
Thúy Kiều mặc dù xinh đẹp và có tài nhưng vì cứu gia đình nên phải bán
mình vào lầu xanh. Kể từ đây, Kiều phải trải qua 15 năm đầy đau khổ và
tuyệt vọng với Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần. Nhưng rồi mọi sự khổ
đau của Kiều cũng chấm dứt sau khi được sư Giác Duyên cứu vớt ở sông
Tiền Đường và được đoàn viên với gia đình cũng như Kim Trọng.
3.2. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du
3.2.1. Quan niệm về nghiệp báo của Phật giáo trong “Truyện Kiều”
Nội dung quan niệm nghiệp báo trong truyện Kiều được thể hiện qua
những nội dung chính sau:
Thứ nhất Toàn bộ sự đau khổ của Kiều là do những nghiệp của Kiếp
trước tạo ra. Chỉ dấu đầu tiên cho thấy sự đau khổ mà Kiều sẽ gặp phải
sau này đó chính là bản nhạc Bạc mệnh do Kiều sáng tác ra khi 16 tuổi.
Bên cạnh đó, nghiệp báo của Thúy Kiều còn thể hiện ở sự đa sầu, đa cảm
của Thúy Kiều khi thấy mộ Đạm Tiên thì tỏ ra đau khổ, thương cảm và
liên hệ ngay đến bản thân mình.
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
“Nỗi niềm tưởng đến mà đau
Thấy người nằm đó biết sau thế nào”
14
Thứ hai, chính vì cái nghiệp báo của kiếp trước quá nặng nên Kiều đã
phải gánh chịu những tai học và đau khổ bất ngờ giáng xuống khi buộc
phải bán mình để cứu gia đình. Nàng cũng đã tìm đến cái chết nhưng
Số nàng nặng nghiệp má đào
Người dù muốn quyết trời nào đã cho”
“Người này nặng nghiệp oan gia
Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho”
Bởi những Nghiệp nhân Kiều đã gây trong quá khứ nên bây giờ Kiều
phải trả, không thể trốn thoát đi đâu được, mà phải sống để trả cái nợ do
nghiệp trước đã gây ra.
“Kiếp xưa đã vụng đường tu
Kiếp này chẳng kẻo đến bù mới xuôi
Dẫu sao bình đã vỡ rồi
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!”
Bởi vì nếu không trả nợ hết mà chết thì sang kiếp sau vẫn tiếp tục phải
trả nợ, như vậy thì nợ sẽ chồng chất.
“Kiếp này trả nợ chưa xong
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau”.
Thứ ba, cuộc đời đau khổ và đầy đọa của Kiều không chỉ do cái
nghiệp tiền kiếp quy định, Theo Nguyễn Du và dưới cái nhìn Phật học,
Những tai họa mà Kiều gặp phải còn do chính hành động và suy nghĩ của
Kiều trong cuộc sống hiện tại gây ra. Đó chính là việc Kiều đã vướng vào
chuyện tình ái với Kim Trọng, rồi khi được Hoạn Thư cho tu ở Quan Âm
Các, Kiều lại phạm giới, tu không đến nơi đến chốn nên đã tích nghiệp xấu
là tư tình với Thúc Sinh, trộm đồ thờ khi trốn khỏi Quan Âm Các vì sợ Hoạn
Thư đánh ghen, nói dối với sư Giác Duyên khi đến Am Chiêu Ẩm. Với
những nghiệp xấu mắc phải ở kiếp hiện tại ấy, Kiều đã phải gánh những hậu
quả khổ đau ngay sau đó là bị lừa bán vào lầu xanh lần thứ hai. Sau đó nàng
lại tiếp tục trả thù những người đã gây ra đau khổ cho mình như Mã Giám
Sinh, Tú Bà, Bạc Hà, Bạc Hạnh…để rồi nàng mắc lừa Hồ Tôn Hiến dẫn đến
việc hại chết Từ Hải và bị ép làm vợ của một viên thổ quan.
15
3.2.2. Quan niệm về nhân qua của Phật giáo trong "Truyện Kiều"
Thứ nhất, với những ảnh hưởng của quan niệm nhân quả của Phật
giáo, Nguyễn Du đã quy cho mười năm năm đau khổ của Thúy Kiều
không hoàn toàn do nghiệp của quá khứ tạo ra mà còn do nghiệp nhân của
hiện tại chi phối.
“Ma đưa lối, quỷ dẫn đàng,
Lại tìm những chốn đoạn tràng mà đi.”
“Có trời mà cũng tại ta,
Tu là cõi phúc, tình là dây oan”
Trong 15 năm đoạn trường, Kiều không chỉ mắc phải những nghiệp
nhân xấu mà nàng có tích được rất nhiều nghiệp nhân tốt. Chính điều này
đã giúp cho Kiều có được sự giải thoát khỏi đau khổ khi được Giác Duyên
cứu và đoàn viên với gia đình.
Thứ hai, quan niệm nhân quả không chỉ thể hiện trong cuộc đời của
Thúy Kiều mà còn thể hiện ở quan niệm ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, đời
cha ăn mặn, đời con khát nước, gieo gió gặt bão, gieo nhân nào, gặt quả
ấy… Theo đó, những kẻ làm điều ác nhất định phải bị trừng trị, những người
lương thiện nhất định sẽ nhận được sự báo đáp công bằng, hạnh phúc. Chính
vì vậy mà Nguyễn Du đã sắp đặt cho Thúy Kiều thực hiện một cuộc đền ơn,
báo oán phân minh với những người đã giúp hay hại mình.
Thứ ba, theo quan niệm của Phật giáo, nhân và quả không tồn tại
độc lập với nhau mà có liên quan mật thiết với nhau, đan xen và ảnh
hưởng lẫn nhau. Nhân không thể sinh ra quả nếu thiếu duyên. Bản thân
nhân, quả cũng chỉ mang tính tương đối, trong nhân đã chứa quả, và trong
quả đã chứa nhân. Chính trong nhân hiện tại đã có hàm chứa cái quả vị
lai; cũng chính trong quả hiện tại đã có hình bóng của nhân quá khứ. Khi
nào điều kiện thuận lợi (có duyên) thì nhân sẽ được chuyển hóa thành quả.
Trong truyện Kiều, sông Tiền Ðường vừa là sự kết thúc của một
cuộc đời hồng nhan bạc mệnh, nhưng đồng thời cũng là khởi điểm cho
một cuộc đời mới sung sướng, bình yên và hạnh phúc hơn. Những nhân tốt
mà Kiều đã gieo đã chuyển hóa thành quả ngọt mà Kiều được thụ hưởng
sau khi nhảy xuống sông Tiền Đường và được sư Giác Duyên cứu sống.
16
Có thể thấy, sư Giác Duyên là một nhân vật rất đặc biệt và quan trọng
trong cuộc đời của Thúy Kiều. Dưới cái nhìn của thuyết nhân quả thì Giác
Duyên chính là điều kiện, là duyên để nghiệp nhân tốt của Kiều được chuyển
hóa thành quả. Giác Duyên không phải chỉ là một con người, Giác Duyên là
tất cả những điều kiện có tác dụng làm cho Thúy Kiều bừng tỉnh (ngộ). Sự
xuất hiện của Giác Duyên trong đời Thúy Kiều là sự xuất hiện của Bụt. Và,
cũng nhờ Thúy Kiều đã chạm đến đáy vực của sự đau khổ cùng cực; nhờ có
sự gieo trồng những hạt nhân tốt (ba nghiệp tốt mà đạo cô Tam Hợp đã nêu
ra), nhưng quan trọng hơn nữa đó là sự xuất hiện và nắm tay của Giác Duyên
đã giúp sự chuyển hóa nghiệp của Thúy Kiều thành công.
Tiểu kết chương 3
“Truyện Kiều” là một tác phẩm bất hủ của Nguyễn Du - một nhà nho,
một quan lại của triều đình phong kiến Việt Nam thế kỷ 18 - 19. Nhưng
nội dung của “Truyện Kiều” lại không hoàn toàn phản ánh những tư tưởng
của Nho giáo, của nhà nước phong kiến mà nó lại thấm đẫm những tư
tưởng Phật giáo, đặc biệt là các quan niệm về nghiệp báo, nhân quả.
Có thể thấy rằng, việc Nguyễn Du sử dụng đến những tư tưởng
nghiệp báo và nhân quả của Phật giáo để lý giải cho cuộc đời đầy đau khổ
và bất hạnh của Thúy Kiều và lấy con đường tu, tích thiện của Phật giáo để
cứu vớt cuộc sống của Thúy Kiều đã cho thấy sự bế tắc và lúng túng của
Nguyễn Du trong việc lựa chọn một hệ tư tưởng xuyên suốt trong tác
phẩm của mình. Tác giả đã không chọn Nho giáo mà lại lựa chọn Tam
giáo trong đó những tư tưởng Phật giáo đóng vai trò trọng tâm.
Chương 4
MỘT SỐ GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN CỨU
NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG “TRUYỆN KIỀU”
CỦA NGUYỄN DU
4.1. Một số giá trị của nhân sinh quan Phật giáo
trong "Truyện Kiều"
17
4.1.1. Nhân sinh quan Phật giáo trong "Truyện Kiều" góp phần
điều chỉnh suy nghĩ và hành vi đạo đức của con người
Rất nhiều tư tưởng nhân sinh của Phật giáo nói chung và trong
"Truyện Kiều" nói riêng đã và đang ảnh hưởng đến đời sống của con
người Việt Nam hiện đại. Đó là quan niệm về thiện - ác của Phật giáo;
quan niệm từ, bi, hỉ, xả, bình đẳng, bác ái, vị tha, tu thân, tích đức, nhẫn
nhịn; nuôi dưỡng nhân tâm để đạt tới trí tuệ sáng láng của nhà Phật.
Thuyết nhân quả, nghiệp báo của đạo Phật giúp họ có ý thức hơn trong
mỗi hành động, lời nói và suy nghĩ của mình. Những nội dung đó được thể
hiện trong lối sống, trong suy nghĩ và đến cả sự hình thành nhân cách của
con người Việt Nam.
“Cho hay muôn sự tại trời,
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta”
“Mấy người bạc ác tinh ma,
Mình làm mình chịu kêu mà ai thương.”
4.1.2. Nhân sinh quan Phật giáo trong "Truyện Kiều" giúp con
người tìm được sự “tĩnh tâm”, hướng thiện trong cuộc sống
Với câu chuyện về thân phận và sự đau khổ mà Kiều gặp phải, có thể
nhìn nhận nó dưới một cách nhìn khác, đó là sự “tĩnh tâm”. Mặc dù cuộc
sống của Kiều bị chi phối bởi những nghiệp quả xấu trong tiền kiếp, nhưng
rõ ràng rằng, với những hành động ở hiện tại cũng đã tác động không nhỏ
đến tương lai của Kiều sau này. Vì vậy nếu như ngay từ đầu và cả những
biến cố sau này nữa, Kiều biết tĩnh tâm, biết gạt đi những dục vọng đời
thường, nhận ra sự vô thường của vạn pháp mà không cố chấp bám giữ
vào những ảo ảnh của cuộc sống, không sai lầm tạo ra nghiệp báo mới thì
có lẽ cuộc đời của Thúy Kiều đã khác đi rất nhiều.
Sư rằng: phúc họa đạo trời.
Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
18
Tất cả những phiền não, dục vọng, tham, sân, si, danh lợi… không
còn trong lòng của Kiều nữa, vì vậy Kiều không muốn trở về chốn bụi bặm
làm gì. Lửa lòng ở đây là phiền não. Không có lửa dục, lửa tham, lửa sân
nữa thì gọi là tắt lửa lòng. Nhưng đã có một thứ lửa khác nhem nhúm, đó
là lửa tam muội, lửa từ bi. Đây là một sức sống mới trong con người Thúy
Kiều.
Thông qua hình ảnh và cuộc đời của Thúy Kiều, có thể thấy rằng
trong cuộc sống, đặc biệt trong cuộc sống hiện đại ngày nay, đôi khi chúng
ta mải mê chạy theo, tìm kiếm và thỏa mãn nhu cầu cuộc sống vật chất của
bản thân mà vô tình hay hữu ý làm cho cuộc sống chúng ta trở nên bó
buộc, căng thẳng, mệt mỏi, đôi khi là sự bế tắc. Những lúc như vậy, chúng
ta hãy tĩnh tâm trở lại, tìm lấy một sự an trú về tinh thần, từ đó tìm ra
những con đường, cách thức sống cho phù hợp với hoàn cảnh của bản
thân. Có như vậy mới giúp chúng ta giải thoát khỏi sự khổ đau mà chúng
ta đang gặp phải.
Với niềm tin vào thuyết nhân quả, nghiệp báo, Phật giáo đã chi phối ý
thức đạo đức cũng như hành vi của mỗi tín đồ, hướng tín đồ đến những
hành động (nghiệp) thiện mà xa lánh hành động (nghiệp) ác. Không những
vậy, nó còn lan toả và tác động đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội,
tạo ra cho con người một sức mạnh tinh thần để vượt lên cám dỗ vật chất,
những trắc trở trong cuộc sống, hướng họ vào một lý tưởng sống tốt đẹp,
vị tha. Tình thương và lòng nhân ái có thể giúp con người hạn chế bớt tính
ích kỷ, từ bỏ tham, sân, si cốt lõi của những thói xấu, những mâu thuẫn,
xung đột và bạo hành trong xã hội.
4.2. Một số hạn chế của nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du
4.2.1. Nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” không phan
ánh đúng nguyên nhân đau khổ, bất hạnh của con người
Trong “Truyện Kiều”, khi Nguyễn Du tìm cách lý giải về căn nguyên
những đau khổ, bất hạnh và gian truân mà Thúy Kiều phải gánh chịu trong
- Xem thêm -