Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pha...

Tài liệu Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

.PDF
186
21
125

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT QUẢN THỊ NGỌC THẢO NGUY£N T¾C THÈM PH¸N Vµ HéI THÈM XÐT Xö §éC LËP Vµ CHØ TU¢N THEO PH¸P LUËT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT QUẢN THỊ NGỌC THẢO NGUY£N T¾C THÈM PH¸N Vµ HéI THÈM XÐT Xö §éC LËP Vµ CHØ TU¢N THEO PH¸P LUËT Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 62 38 01 04 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí 2. PGS.TS Nguyễn Tất Viễn HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ của các bạn bè, đồng nghiệp. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Quản Thị Ngọc Thảo MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục bảng, biểu đồ MỞ ĐẦU ......................................................................................................................1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..........................................................................................8 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước .....................................................................8 1.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài ...................................................................14 1.3. Những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu ........................................18 Kết luận Chương 1 .....................................................................................................20 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................................22 2.1. Nguồn gốc và khái niệm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .........................................................................22 2.2. Ý nghĩa của việc quy định nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật...................................................................27 2.3. Đặc điểm và nội dung của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật tố tụng hình sự ........................30 2.4. Các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .........................48 2.5. Quy định của luật tố tụng hình sự một số quốc gia về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .........................59 Kết luận Chương 2 .....................................................................................................67 Chương 3: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ...............................................................................68 3.1. Lịch sử lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .......................................68 3.2. Đánh giá việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, giai đoạn 2006-2015 .....................................................................86 3.3. Đánh giá về các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ...................98 3.4. Thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử từ phía Hội thẩm ...............................120 Kết luận Chương 3 ...................................................................................................124 Chương 4: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ ......................125 4.1. Yêu cầu khách quan bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .......................................................125 4.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .....................................................133 4.3. Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm trong quá trình xét xử vụ án hình sự ....................................................141 Kết luận Chương 4 ...................................................................................................147 KẾT LUẬN .............................................................................................................148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.......................................................................................................151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................152 PHỤ LỤC ................................................................................................................166 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT QPPL: Quy phạm pháp luật TTHS: Tố tụng hình sự TAND: Tòa án nhân dân THTT: Tiến hành tố tụng VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên bảng, biểu đồ Bảng 3.1. Thống kê số lượng, tỉ lệ vụ án bị hủy, sửa Trang 87 Biểu đồ 3.1. So sánh số lượng vụ án bị hủy, sửa, giám đốc thẩm, tái thẩm trên tổng số vụ án đã xét xử 88 Biểu đồ 3.2. Diễn biến tỉ lệ vụ án bị hủy, sửa 88 Biểu đồ 3.3. Tương quan tỉ lệ về lí do hủy, sửa vụ án 89 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Đề tài Tư pháp là hiện thân của công lý. Để công lý được đảm bảo và thực thi, tư pháp cần phải được độc lập. Đó là một định đề được thừa nhận chung trong lịch sử tư pháp của nhân loại. Trong xu hướng hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay, độc lập trong hoạt động xét xử nói chung và trong tố tụng hình sự nói riêng đã được ghi nhận trong Hiến pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới, không phụ thuộc vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Ở Việt Nam, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, hệ thống tư pháp thực dân phong kiến bị xóa bỏ, hệ thống tư pháp của chính quyền dân chủ nhân dân được thiết lập, nguyên tắc độc lập của Tòa án được ghi nhận từ rất sớm. Các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013 cũng như các sắc lệnh, các đạo luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án đều ghi nhận nguyên tắc này. Trong tiến trình cải cách tư pháp, nguyên tắc độc lập xét xử đã trở thành một trong những nội dung được quan tâm nhất. Tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: “Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” [23, tr.2]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định nhiệm vụ đảm bảo tính độc lập của Tòa án và các chức danh tư pháp trong hoạt động tố tụng, hướng đến mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [25, tr.2]. Triển khai các nghị quyết nói trên, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp nhằm xác định rõ hơn vị thế, vai trò của Tòa án, hoàn thiện một bước cơ cấu tổ chức, thẩm quyền của hệ thống Tòa án, tăng cường 1 năng lực cho đội ngũ Thẩm phán nhằm hướng tới thực hiện đúng đắn nguyên tắc độc lập xét xử, nhất là trong quá trình xét xử các vụ án hình sự, đảm bảo mọi phán quyết của Hội đồng xét xử phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, vì xét xử các vụ án hình sự không chỉ liên quan đến tài sản, quyền nhân thân mà còn liên quan cả đến tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của con người. Do vậy, để có được một bản án khách quan, nghiêm minh, đúng pháp luật cần đến rất nhiều yếu tố, trong đó việc tuân thủ nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (sau đây gọi là nguyên tắc độc lập xét xử) có ý nghĩa quyết định. Vấn đề có ý nghĩa quan trọng như vậy nhưng trong thực tiễn việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cải cách tư pháp về bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Các công trình nghiên cứu về tư pháp tuy nhiều nhưng vẫn còn để ngỏ một số vấn đề quan trọng mà thực tiễn tư pháp hình sự đặt ra đối với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS. Những năm qua, có một số công trình nghiên cứu của các tác giả về nguyên tắc độc lập xét xử nhưng thường khai thác ở khía cạnh chung, từ góc độ tổ chức quyền lực tư pháp và hoạt động của Tòa án. Nguyên tắc độc lập xét xử thường được xem xét với tính cách là một nguyên tắc hiến định, chung cho tất cả các loại hình tố tụng tư pháp (tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính). Tuy vậy, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, chuyên biệt về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam. Mặt khác, trong thực tiễn nhận thức về nguyên tắc này trong các cơ quan và công chức nhà nước, kể cả công chức hoạt động trong lĩnh vực tư pháp chưa thật đầy đủ; hoặc nhận thức được nhưng do những lý do khách quan và chủ quan đã không thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Điều đó không chỉ ảnh đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người mà còn làm suy giảm niềm tin vào công lý. 2 Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, hội nhập về pháp luật và tư pháp ngày càng sâu rộng đòi hỏi hệ thống tư pháp của nước ta dần tiến đến các tiêu chuẩn của một nền tư pháp hiện đại, đủ khả năng bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân như Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định, nhằm thúc đẩy thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Điều đó vừa là nhu cầu tự thân của đổi mới hệ thống tư pháp, vừa là yêu cầu chung để xây dựng nền tư pháp tiến bộ, văn minh trong Nhà nước pháp quyền hiện đại. Việc nghiên cứu sâu và đầy đủ hơn nữa về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nhất là trong luật TTHS Việt Nam sẽ góp thêm cơ sở lý luận và thực tiễn để tạo lập một cơ chế pháp lý phù hợp, bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc này trong thực tiễn. Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài “Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” ở cấp độ luận án tiến sĩ là rất cần thiết. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án * Mục đích Mục đích của luận án là làm rõ cơ sở lý luận của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam; đánh giá việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong thực tiễn tư pháp hình sự; đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc này theo yêu cầu cải cách tư pháp. * Nhiệm vụ Để thực hiện mục tiêu nêu trên, luận án đề ra những nhiệm vụ sau đây: Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận của việc quy định nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam; tính tất yếu của nguyên tắc này trong thể chế tư pháp với các mô hình tố tụng hình sự khác nhau; khái niệm, đặc điểm, nội dung, các yếu tố ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử. Thứ hai, nghiên cứu các quy định pháp luật về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam từ 3 trước Cách mạng Tháng Tám đến nay. Đánh giá thực tiễn thực hiện nguyên tắc này theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Thứ ba, đề xuất, luận chứng các yêu cầu, giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án * Đối tượng nghiên cứu: là các vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam. * Phạm vi nghiên cứu: luận án tập trung xác định và giới hạn nghiên cứu đối với những yếu tố cơ bản nhất, cần thiết nhất tác động, ảnh hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự theo Bộ luật TTHS năm 2003. Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm đảm bảo khắc phục những bất cập, hạn chế khi áp dụng nguyên tắc này. Về không gian nghiên cứu: luận án chỉ tập trung nghiên cứu ở Việt Nam. Tuy nhiên, để phục vụ cho việc so sánh, đối chiếu cơ sở pháp lý và thực tiễn về nguyên tắc này ở Việt Nam, luận án có tìm hiểu các quan niệm, quy định pháp luật quốc tế về nguyên tắc độc lập xét xử. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận án nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Một số nguyên lý, quy luật và phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng được vận dụng để nghiên cứu luận án. Thông qua đó làm rõ mối tương quan giữa yêu cầu của pháp luật về độc lập xét xử và khả năng hiện thực để thực hiện các yêu cầu đó. Đồng thời xem xét các hiện tượng phát sinh trong quá trình thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử trong mối liên hệ hữu cơ với các yếu tố như chính sách hình sự, thể chế pháp lý, nhân lực, cơ sở vật chất bảo đảm cho hoạt động tư pháp độc lập. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận án gồm: 4 - Phương pháp phân tích được dùng để xác định mối liên hệ giữa cái chung (độc lập xét xử của tư pháp nói chung) với cái riêng (độc lập xét xử trong các thủ tục tố tụng tư pháp hình sự, dân sự, hành chính) và cái đặc thù (độc lập xét xử trong các vụ án hình sự) để chia nhỏ các vấn đề nghiên cứu một cách chi tiết, đầy đủ những biểu hiện cụ thể của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam. - Phương pháp tổng hợp để tóm lược một cách khái quát tất cả những vấn đề nhỏ đã được chia ra để nghiên cứu. Trên cơ sở đó xây dựng khái niệm về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật sau khi đã phân tích các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu. - Phương pháp điều tra xã hội học được vận dụng trong quá trình khảo sát thực tế, nhận định, đánh giá về việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam. - Phương pháp hệ thống được dùng nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS nước ta trước Cách mạng tháng Tám đến nay, trên cơ sở đó rút ra những nhận xét về tính thống nhất của việc quy định nguyên tắc này trong pháp luật TTHS, phù hợp với hệ thống pháp luật và điều kiện cụ thể của nước ta trong mỗi thời kỳ lịch sử. - Phương pháp so sánh được dùng khi đánh giá sự khác biệt hoặc tương đồng giữa các QPPL về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của các quốc gia theo các hệ thống pháp luật và các mô hình TTHS khác nhau. Đồng thời cũng dùng để so sánh các QPPL hình sự Việt Nam ở giai đoạn lịch sử này với giai đoạn lịch sử khác. - Phương pháp lịch sử cụ thể xem xét các quy định của pháp luật về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS ở từng giai đoạn lịch sử nhất định để bảo đảm tính khách quan, tránh việc áp đặt duy ý chí khi đánh giá về lịch sử pháp luật nói chung, lịch sử pháp luật TTHS nói riêng. 5 - Hướng tiếp cận của luận án: Tiếp cận dưới góc độ pháp lý hình sự và TTHS: Trên cơ sở lý luận và lịch sử về nhà nước, các học thuyết tổ chức quyền lực nhà nước về mô hình TTHS là cơ sở quan trọng để xem xét, nghiên cứu về nội dung, ý nghĩa và các yếu tố tác động đến việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam. Tiếp cận hệ thống: phân tích và đánh giá các nội dung và các yếu tố bảo đảm thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử trong một thể thống nhất. Tiếp cận liên ngành: có sự phối hợp của nhiều ngành khoa học xã hội nhân văn như luật học so sánh, xã hội học, khoa học lịch sử, chính trị học... 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Thứ nhất, luận án đã khái quát sự hình thành và phát triển của tư tưởng độc lập xét xử như là một giá trị chung, tiến bộ của nhân loại, đã được ghi nhận thành một nguyên tắc pháp lý quan trọng trong các đạo luật cơ bản của nhiều quốc gia, qua đó xác định tính chất đặc trưng của nguyên tắc độc lập xét xử trong luật TTHS. Thứ hai, luận án đã đưa ra khái niệm về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam; phân tích nội dung của nguyên tắc này trong xét xử vụ án hình sự. Thứ ba, luận án xác định được các yếu tố phổ quát và yếu tố đặc thù ảnh hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam. Thứ tư, trên cơ sở đánh giá thực trạng áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Bộ luật TTHS năm 2003, đưa ra các giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tình hình mới. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Kết quả của luận án góp phần làm rõ, phát triển và bổ sung cơ sở lý luận của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 6 trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS, làm cơ sở cho các hoạt động xây dựng pháp luật TTHS, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. - Kết quả nghiên cứu của luận án dùng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở đào tạo Luật. - Kết quả nghiên cứu luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan lập pháp và các cơ quan THTT trong lĩnh vực tư pháp, là nguồn tham khảo đối với việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS. Đồng thời góp phần tạo nhận thức đúng đắn cho cán bộ có chức danh tư pháp, cán bộ trong các tổ chức Đảng, đoàn thể và các cơ quan nhà nước về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Tòa án, khắc phục những hiện tượng can thiệp vào hoạt động xét xử, gây áp lực đối với Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử nói chung, xét xử các vụ án hình sự nói riêng. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm bốn chương như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Chương 2: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật tố tụng hình sự. Chương 3: Các quy định pháp luật về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng. Chương 4: Các giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử vụ án hình sự. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Nguyên tắc độc lập xét xử được quy định ngay từ Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán: “Mỗi Thẩm phán xử án quyết định theo pháp luật và lương tâm của mình. Không quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án” [118, tr.428]. Nguyên tắc này tiếp tục quy định tại Hiến pháp năm 1946 và các bản Hiến pháp sau này. Tuy nhiên, trong hoạt động tư pháp những năm đầu kháng chiến đã phát sinh một số vấn đề cần được nghiên cứu làm rõ đối với việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử. Điều này được thể hiện qua cuộc tranh luận gay gắt trên Báo Sự Thật của Đảng Cộng sản Đông Dương trong các năm 1947, 1948 giữa học giả Quang Đạm và một số cán bộ tư pháp về độc lập của Tòa án, qua đó làm sáng tỏ một số nội dung mới của nguyên tắc này trong thể chế của Nhà nước dân chủ nhân dân. Khi công cuộc đổi mới bắt đầu, cải cách tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử và bảo đảm cho Tòa án độc lập đã được nghiên cứu nhiều hơn so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật mới chỉ dừng lại ở mức độ ban đầu, mang tính khái lược, chủ yếu ở giáo trình Luật TTHS của các cơ sở đào tạo; Bình luận khoa học các điều luật của Bộ luật TTHS, sách chuyên khảo mà chưa có những nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về nguyên tắc này. Các công trình nghiên cứu giai đoạn này có một phần nội dung trực tiếp đề cập đến nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật như: cuốn Bình luận khoa học Bộ luật TTHS năm 1988 của Viện Khoa học pháp lý (NXB Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999) [114]; Bình luận khoa học Bộ luật TTHS năm 2003 do PGS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên (NXB Công an nhân dân 8 năm 2004) [125] chỉ ra cơ sở của việc quy định nguyên tắc này trong Bộ luật TTHS là xuất phát từ nguyên tắc Hiến định về tổ chức và hoạt động của Tòa án; Bình luận khoa học Bộ luật TTHS năm 2003 của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, NXB Chính trị Quốc gia năm 2005 [117] đã có sự phân tích sâu hơn nguyên tắc này. Bên cạnh đó có một số Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của các cơ sở đào tạo luật ở bậc đại học như: Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2001 do PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí chủ biên [14]; Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2011 do PGS.TS Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên [78] đều phân tích các nguyên tắc của luật TTHS và cụ thể là nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, ghi nhận đó là một nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư pháp; về nội dung, nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án được đề cập theo cách giải thích tại sao phải thực hiện sự độc lập này và các biện pháp đảm bảo cho Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Như vậy, các cuốn Bình luận khoa học Bộ luật TTHS và các giáo trình luật TTHS, sách chuyên khảo mới chỉ giới thiệu ở mức độ rất khái quát mà chưa bàn một cách toàn diện nội dung của nguyên tắc độc lập xét xử trong luật TTHS. Sau này, các cuốn sách chuyên khảo có nội dung liên quan nhiều đến nguyên tắc độc lập xét xử như: cuốn sách do GS.TSKH. Đào Trí Úc chủ biên: “Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002 [97]. Cuốn sách đã đề cập đến các khái niệm cơ bản như hệ thống tư pháp, cơ quan tư pháp, vai trò trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp; vai trò của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong hệ thống tư pháp; các nguyên tắc và điều kiện đổi mới hệ thống tư pháp, xác định độc lập xét xử là một trong những mục tiêu quan trọng của cải cách tư pháp. Cuốn sách do GS.TSKH. Lê Cảm và PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004 [6]. Cuốn sách là kết quả của hội thảo khoa học về chủ đề cải cách tư pháp do Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức, bao gồm nhiều bài viết của các nhà khoa học về quyền lực tư pháp, về thủ tục tố tụng tư pháp, về mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực tư pháp, hành pháp, lập pháp và những phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động 9 của các cơ quan tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó xác định độc lập xét xử là nguyên tắc cơ bản nhất của tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN, nêu được một số hạn chế trong thực hiện nguyên tắc này và kiến nghị giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử trong điều kiện cải cách tư pháp. Cuốn “Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền” do PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung chủ biên, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2004 [16]. Cuốn sách lần đầu tiên nêu khái niệm thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, thể chế tư pháp với việc thực hiện các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền và các loại hình thể chế tư pháp với một số mô hình tổ chức tư pháp đặc trưng trên thế giới. Tác giả cũng đã nêu và phân tích quá trình hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án và những vấn đề đặt ra cho cải cách tư pháp ở Việt Nam. Điểm nhấn của công trình này là nêu và phân tích được độc lập tư pháp là một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền, đề xuất một số biện pháp thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử trong tình hình hiện nay. Cuốn sách của TS. Tô Văn Hòa: “Tính độc lập của Tòa án - nghiên cứu pháp lý về các khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối với Việt Nam”, NXB Lao động, Hà Nội, 2007 [36], bàn về một số đặc trưng của hoạt động xét xử ở các nền tư pháp theo hệ thống pháp luật khác nhau. Đồng thời nêu những giá trị chung của tư pháp đó là nguyên tắc độc lập của Tòa án như là một nguyên tắc không thể thiếu trong tổ chức thực hiện quyền tư pháp ở các nhà nước đương đại. Tác giả cũng phân tích về nguyên tắc độc lập xét xử trong pháp luật Việt Nam, nêu ra giới hạn thời gian của nguyên tắc, sự bảo đảm hiến định, các biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử nói chung đối với các loại thủ tục tố tụng tư pháp, tính độc lập của cá nhân Thẩm phán... và đưa ra một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn nguyên tắc này. Cuốn sách của LS.TS. Lưu Tiến Dũng “Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam”, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2012 [20] đã làm rõ các cơ sở khoa học của độc lập xét xử, nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau nhưng đều có một kết luận thống nhất rằng độc lập xét xử là thuộc tính không thể thiếu được của bất kỳ nền tư pháp nào. Sự độc lập đó có thể theo chiều ngang hoặc chiều dọc, nhưng dù theo chiều nào thì bản lĩnh, sự kiên định và năng lực toàn diện của Thẩm phán vẫn là các yếu 10 tố quyết định cho sự độc lập của họ khi xét xử. Tác giả cũng nêu vai trò quan trọng của độc lập xét xử trong một Nhà nước pháp quyền và những yếu tố cơ bản bảo đảm độc lập xét xử. Thông qua việc đánh giá thực trạng các cơ sở hiến định và pháp luật về độc lập xét xử nhìn từ góc độ tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước và thực tiễn thi hành, nhận thức rõ vai trò quan trọng của độc lập xét xử trong một Nhà nước pháp quyền bảo đảm thực thi quyền con người, tác giả đã đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường độc lập xét xử trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và công cuộc cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta. Cuốn sách “Cải cách tư pháp vì một nền tư pháp liêm chính” do GS.TSKH. Đào Trí Úc và PGS.TS. Vũ Công Giao chủ biên, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014 [101] đã đề cập một số vấn đề lý luận về bản chất, đặc điểm, các nguyên tắc chủ đạo của quyền tư pháp, về tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, về tính độc lập như là một đặc trưng cơ bản nhất của quyền tư pháp, về vị trí trung tâm của Tòa án trong cải cách tư pháp ở Việt Nam trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Đồng thời cũng nêu các giải pháp bảo đảm sự liêm chính của tư pháp để Tòa án được độc lập. Cuốn “Độc lập tư pháp ở Việt Nam và tiêu chí đánh giá” do GS.TS Lê Hồng Hạnh và TS. Đặng Công Cường chủ biên, NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2015 đã nghiên cứu độc lập tư pháp trên cơ sở triết lý kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền bằng tư pháp độc lập. Coi độc lập tư pháp là “giá trị vĩ đại của nhân loại trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước” [34, tr.5]. Các tác giả nghiên cứu khá sâu về thực trạng độc lập tư pháp ở Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới; sự đánh giá của công chúng về độc lập tư pháp; đưa ra những khuyến nghị về độc lập tư pháp theo tinh thần cải cách tư pháp. Cuốn sách đã góp phần làm rõ hơn những trở ngại của độc lập tư pháp ở nước ta, xác định những trở ngại nào có thể khắc phục được trong điều kiện đặc thù của Việt Nam, tạo cho các cơ quan nhà nước cũng như các tổ chức xã hội bộ công cụ đánh giá độc lập tư pháp, mức độ đảm bảo công lý cho những cá nhân, tổ chức bị vi phạm, bị xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp. Ở cấp độ Luận án tiến sĩ, có Luận án của tác giả Nguyễn Hải Ninh “Các yếu tố bảo đảm độc lập xét xử ở Việt Nam hiện nay”, bảo vệ tại Viện Nhà nước và Pháp luật năm 2013, nghiên cứu từ khía cạnh các yếu tố vật chất và phi vật chất bảo đảm 11 cho độc lập xét xử, từ việc hoàn thiện thể chế pháp lý, cách thức tổ chức và quản lý các Tòa án, công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn, bổ nhiệm đội ngũ Thẩm phán, chế độ và chính sách đãi ngộ đối với họ, đến việc tạo cơ chế thích hợp để cho họ được thực sự độc lập như pháp luật quy định. Một số bài viết nghiên cứu khác của tác giả Nguyễn Hải Ninh: “Sự hình thành và phát triển tư tưởng độc lập xét xử”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10/2012 [58], “Quan niệm khoa học về độc lập xét xử”, Tạp chí Thanh tra số 10/2012 [57], các bài viết nêu được quá trình hình thành tư tưởng về độc lập xét xử trong lịch sử học thuyết về tư pháp và nội hàm chính của khái niệm độc lập xét xử là sự không lệ thuộc của Tòa án, Thẩm phán vào bất cứ cá nhân hay tổ chức nào, thiết chế nào trong khi xét xử vụ án để ra các phán quyết nghiêm minh, đúng pháp luật, bảo đảm công lý, công bằng. Một số đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ tuy không nghiên cứu trực tiếp về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS nhưng đã dành một phần nhất định trong nội dung để nghiên cứu nguyên tắc này dưới góc độ bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đề tài khoa học đặc biệt cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, Mã số QG.07.37 “Nâng cao hiệu quả của hệ thống tư pháp hình sự phục vụ Chiến lược cải cách tư pháp” do TSKH.GS. Lê Văn Cảm làm Chủ nhiệm, bảo vệ năm 2009 nghiên cứu sâu về tổ chức, cơ cấu của hệ thống tư pháp hình sự và vai trò của hệ thống đó trong việc thúc đẩy cải cách tư pháp [7]. Đề tài xác định bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án, trực tiếp là Thẩm phán, Hội thẩm sẽ là yếu tố rất quan trọng để công lý được thực hiện trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, bảo đảm hiệu quả của hệ thống tư pháp hình sự, quyền con người, quyền công dân. Đề tài khoa học cấp Nhà nước mã số KX04.06: “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” do TS. Uông Chu Lưu làm Chủ nhiệm, nghiệm thu 2006 [50] có nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến tính độc lập của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền XHCN. Đề tài đã nêu được khái niệm, vị trí, vai trò, của Tòa án trong bộ máy nhà nước, nội dung của thủ tục tư pháp hình sự và vấn đề nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án đối với các vụ án hình sự; khẳng định nguyên tắc độc lập xét 12 xử có được thực hiện nghiêm chỉnh thì hiệu quả xét xử mới được bảo đảm. Đề tài khoa học cấp nhà nước, Mã số ĐTĐL.2009G/13: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” do TS. Lê Hữu Thể làm Chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2011 [89] đã luận chứng, làm rõ những vấn đề lý luận chung về thủ tục tố tụng, mô hình TTHS; các nguyên tắc cơ bản của TTHS; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng. Trên cơ sở đánh giá đúng đắn những tồn tại, hạn chế, vướng mắc, bất cập trong pháp luật TTHS hiện hành khi thực hiện trong thực tiễn, chỉ ra những tiền đề, thách thức và các yêu cầu của cải cách tư pháp, trong đó độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm là một trong những vấn đề còn vướng mắc trong thực tiễn, cần được khắc phục bằng một cơ chế pháp lý phù hợp. Đề tài đã đề xuất các hướng hoàn thiện, đổi mới mô hình TTHS và pháp luật TTHS ở nước ta hiện nay theo hướng nâng cao năng lực của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, bảo đảm tốt hơn tính độc lập của Tòa án. Ngoài ra, còn có một số bài viết được công bố trên các tạp chí, diễn đàn khoa học pháp lý liên quan đến nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đó là bài viết của các tác giả như: Nguyễn Ngọc Chí: “Một số yếu tố ảnh hưởng đến nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2009 [13]; Đinh Thế Hưng: “Tiếp tục bàn về sự độc lập của Thẩm phán”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/2010 [42]; Trần Văn Độ: “Sửa đổi, bổ sung các quy định của Hiến pháp năm 1992 về các cơ quan tư pháp”, Tạp chí Cộng sản số 845 số 3/2013 [30]; Nguyễn Tất Viễn: “Trao đổi ý kiến: tổ chức Tòa án theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW về cải cách tư pháp, bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử, 2010[122]… Các công trình trên đều là những đề tài nghiên cứu hết sức quan trọng, đề cập sự độc lập của nhánh quyền lực tư pháp, của Tòa án là một thiết chế thực thi quyền lực tư pháp và Thẩm phán, Hội thẩm là những con người trong thiết chế đó có trách nhiệm thực hiện chức năng xét xử. Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả có kế thừa những kết quả nghiên cứu trên. Tuy nhiên có một điểm đặc biệt, chủ yếu những công trình khoa học trên được các tác giả nghiên cứu và tiếp cận vấn đề từ khía cạnh Luật học so sánh, Lý luận nhà nước và pháp luật, Luật Hiến pháp, nhìn 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan