TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VŨ BÍCH VÂN
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ-XÃ HỘI BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ
Hà Nội, năm 2010
A. Mở đầu
a.
Tính cấp thiết của đề tài
Nhiều thập kỷ qua, đặc biệt là những năm gần đây, nguồn lực của con
người với phát triển kinh tế - xã hội bền vững đã được nhiều giới quan tâm nghiên
cứu.
Vấn đề nguồn lực con người đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan
tâm từ lâu. Ngay từ đại hội III, con người đã được coi là nguồn vốn quý nhất. Đại
hội VII tiếp tục khẳng định: nguồn lực lớn nhất, quý nhất của chúng ta là tiềm lực
con người Việt Nam. Tại đại hội VIII, vai trò quyết định của con người trong phát
triển kinh tế - xã hội được đề cao: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Quan điểm này tiếp tục khẳng
định tại Đại hội IX và Đại hội X.
Những tiếp cận đa dạng về vấn đề này cũng như việc sử dụng nguồn lực con
người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của một số quốc gia trên thế giới
sẽ là cơ sở lý luận và thực tiễn cho những định hướng và giải pháp mang tính
nguyên tắc đối với Việt Nam.
Xuất phát từ ý nghĩa trên, tác giả đã lựa chọn để tài: “Nguồn lực con người
trong phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở Việt Nam”.
b.
Mục đích nghiên cứu
Giới thiệu khái quát những nghiên cứu về lý luận và thực tiễn về nguồn lực
con người trong phát triển kinh tế - xã hội bền vững;
Nêu kinh nghiệm và những thành tựu của 1 số nước trên thế giới về việc sử
dụng và đào tạo con người nhằm phát huy những năng lực hữu dụng của họ trong
phát triển kinh tế - xã hội bền vững;
Nêu những gợi mở ban đầu về việc đào tạo, nghiên cứu sử dụng hiệu quả
và đầu tư hợp lý cho con người để phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở Việt Nam
trong thời kỳ 2011 – 2020.
c.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài vận
dụng phương pháp trừu tượng hóa kết hợp với phương pháp hệ thống, logic và lịch
sử, phân tích và tổng hợp.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một
số công trình liên quan; phỏng vấn các nhà khoa học, các chuyên gia về xã hội
học, về nhân chủng học…
d.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Hoạt động của con người ( theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng ) thông
qua sự vận dụng những năng lực hữu dụng hiện có và tiềm tàng của họ nhằm tác
động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Phạm vi: Đề tài nghiên cứu thực trạng về việc sử dụng và đào tạo con
người nhằm phát huy những năng lực hữu dụng của họ trong phát triển kinh tế - xã
hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới; từ đó, nêu những định hướng và những giải
pháp đào tạo, nghiên cứu và sử dụng có hiệu quả và đầu tư hợp lý cho con người
Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020.
e.
Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn lực con người trong phát triển kinh
tế - xã hội bền vững.
Chương 2: Thực trạng tác động của nguồn lực con người trong phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp sử dụng và đào tạo nguồn lực con người nhằm phát
triển kinh tế - xã hội bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI BỀN VỮNG
Nhận thức đúng về nguồn lực con người gắn liền với sự nhận thức đúng về
phát triển kinh tế - xã hội bền vững đòi hỏi phải không ngừng nâng cao trình độ
con người một cách toàn diện: trí, đức, thể , mỹ.
1.1 Nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội bền vững
1.1.1 Khái niệm nguồn lực con người
Khái niệm về nguồn lực con người hay nguồn nhân lực khá đa dạng, được
đề cập từ nhiều góc độ khác nhau nhưng tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị, có
thể hiểu: Nguồn nhân lực hay nguồn lực con người là tổng thể số lượng dân và
chất lượng con người, là tổng thể thể lực, trí lực, kinh nghiệm sống, nhân cách,
lý tưởng, chất lượng văn hóa, năng lực chuyên môn và tính năng động trong
công việc mà bản thân con người và xã hội có thể huy động để phát triển kinh
tế - xã hội bền vững, để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho
nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
1.1.2. Phát triển nguồn lực con người
Trong các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội bền vững thì nguồn lực
con người ( nguồn nhân lực ) đóng vai trò quyết định. Nguồn nhân lực, đó chính là
toàn bộ những người lao động đang có khả năng tham gia vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội và các thế hệ những người lao động tiếp tục tham gia vào quá trình
ấy.
Phát triển nguồn lực con người là các hoạt động nhằm tạo ra nguồn nhân
lực với số lượng và chất lượng đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, đồng thởi bảo đảm sự phát triển của mỗi cá nhân. Phát triển nguồn
nhân lực là một bộ phận hợp thành quan trọng yếu trong chiến lược phát triển con
người. Trong công cuộc phát triển con người, cần coi trọng
1.2 Khái niệm và các lý thuyết về vai trò của nguồn lực con người trong
phát triển kinh tế - xã hội bền vững
Trong thời đại ngày nay, khi đề cập đến sự phát triển kinh tế - xã hội bền
vững của một quốc gia không thể không đề cập đến các mô hình phát triển kinh tế
- xã hội bền vững của cộng đồng quốc tế.
1.2.1 Khái niệm chung và những tiêu chí cơ bản về sự phát triển kinh tế - xã
hội bền vững
1.2.1.1 Khái niệm về sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững
Phát triển kinh tế - xã hội bền vững là một khái niệm dùng để chỉ tính ổn
định của trạng thái bên trong vốn có của quá trình tăng trưởng kinh tế, là tổng hợp
các thuộc tính cơ bản hay đặc trưng tạo thành bản chất của tăng trưởng kinh tế
trong một hoàn cảnh và một giai đoạn nhất định. Nó bao gồm các yếu tố như chất
lượng của nguồn nhân lực lao động, trình độ kỹ thuật và công nghệ khai thác
nguồn nhân lực sẵn có nhằm tạo nên năng suất lao động cao hơn và nền kinh tế
phát triển đem lại phúc lợi xã hội cao hơn, môi trường được bảo vệ tốt hơn… Chất
lượng tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế là hai mặt của một vấn đề,
có quan hệ qua lại và thống nhất với nhau
1.2.1.2 Những tiêu chí cơ bản về sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững
Tiêu chí về năng suất
Tiêu chí về phúc lợi xã hội
Tiêu chí về ổn định kinh tế và phát triển bền vững
1.2.2 Các lý thuyết về nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội bền
vững
Các nhà kinh tế học cổ điển AdamSmith ( 1723 – 1790 ) – nhà kinh tế
chính trị cổ điển Anh với tác phẩm nổi tiếng “Nghiên cứu về bản chất và nguồn
gốc của cải cách dân tộc” đã khẳng định: Lao động của con người là “Thước đo
thực tế của giá trị”.
David Ricardo ( 1772 – 1832 ), người đưa kinh tế chính trị cổ điển Anh lên
đỉnh cao, chứng minh rằng: tăng trưởng kinh tế là kết quả của tích lũy, tích lũy là
hàm của lợi nhuận, lợi nhuận phụ thuộc và chi phí sản xuất lương thực, chi phí này
lại phụ thuộc vào đất đai. Do đó, đất đai là giới hạn đối với tăng trưởng và ông đã
xác định: Lao động của con người là nguồn gốc duy nhất của giá trị.
Lý luận của Các Mác về lực lượng sản xuất gồm hai bộ phận: Lực lượng
sản xuất vật chất và nguồn lực con người.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, triết lý kinh doanh đã có một bước ngoặt
từ quan niệm coi công nghệ là trung tâm sang coi con người là trung tâm, ưu tiên
con người ở các khía cạnh tri thức, trình độ chuyên môn và động cơ lao động.
Bước sang thế kỷ 21, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại càng tác động
mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội và tạo ra được những bước nhảy
vọt. Kinh tế tri thức hình thành và ngày càng đóng vai trò nổi bật trong quá trình
phát triển lực lượng sản xuất xã hội
1.3 Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về nguồn lực con người
trong phát triển kinh tế - xã hội bền vững
Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng CSVN lần thứ X năm 2006 đã rút ra 5 bài
học kinh nghiệm lớn từ thực tiễn tới đổi mới đất nước và để ra tư tưởng chỉ đạo về
phát triển kinh tế - xã hội bền vững giai đoạn 2006 – 2010. Trong báo cáo chính trị
đã chỉ ra: “Đẩy nhanh tiến độ tăng trưởng kinh tế đạt được bước chuyển biến quan
trọng về nâng cao hiệu quả kinh tế và tính bền vững của sự phát triển”.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII ( 6/1991 ) , Đảng CSVN đã đưa
ra tư tưởng đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế - xã hội, của
sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và khẳng
định: “Nguồn nhân lực dồi dào, con người Việt Nam là nguồn nhân lực quan trọng
nhất”.
Rõ ràng, đường lối của Đảng và nhà nước Việt Nam đã tạo một bước ngoặt
quan trọng trong xác định vị trí và vai trò của con người Việt Nam trong sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
1.4 Kinh nghiệm phát huy nguồn lực con người trong phát triển kinh tế
- xã hội bền vững của một số nước và bài học rút ra cho Việt Nam
1.4.1 Kinh nghiệm của Nhật Bản
Đó là tư tưởng “Thoát Á” xuất hiện ngay từ thế kỷ XIX và được xem là
kim chỉ nam cho chủ trương cải cách văn hóa Nhật Bản để phát triển kịp các nước
phương Tây.
1.4.2 Kinh nghiệm của Trung Quốc
Luôn khẳng định rằng bồi dưỡng và giáo dục nhân tài là vấn đề có tính
chiến lược1.Xây dựng hiện đại hóa đòi hỏi phải bồi dưỡng hàng loạt nhân tài đủ
tiêu chuẩn, trong đó có những nhân tài hàng đầu dạt chất lượng quốc tế.
1.4.3 Kinh nghiệm của một số nước Đông Nam Á
Singapore, Malaixia, Thái Lan
1.4.4 Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Đối với Nhật Bản, việc lựa chọn tài năng quản lí được coi là thế mạnh của
quốc gia này, khi đội ngũ công chức của Nhật Bản luôn được đánh giá là có chất
lượng cao. Chính phủ đã tập trung đầu tư vào khoa học cơ bản và kích thích sáng
tạo.
Trung Quốc, công xưởng của thế giới đạt được những kì tích kinh tế trong
những thập kỉ qua chủ yếu là nhờ áp dụng công nghệ cao, nhanh chóng làm chủ
được công nghệ nước ngoài thông qua một nguồn nhân lực được đào tạo tốt.
Chính phủ Trung Quốc luôn xem bồi dưỡng, giáo dục đào tạo và bồi dưỡng nhân
tài và phát triển khoa học công nghệ là những chiến lược quốc gia quan trọng.
Singapore, Malaysia, Thái Lan việc coi trọng vai trò chủ đạo của nguồn nhân lực
trong phát triển kinh tế - xã hội đã giúp các quốc gia này luôn đạt được mục tiêu
đề ra trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Những bài học kinh nghiệm nêu trên là quý giá, thiết thực có thể gợi mở về
các giải pháp đào tạo, sử dụng có hiệu quả, đầu tư hợp lí cho nguồn nhân lực con
người nhằm phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở Việt Nam giai đoạn
2011 – 2020.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1 Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn
đổi mới
Sau nhiều nỗ lực thực hiện cải cách và hội nhập, bước chuyển mang tính
bứt phá này dựa trên hai nội dung cốt yếu là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
nhiều thành phần kinh tế, và chuyển từ phát triển khép kín sang đẩy mạnh mở cửa,
hội nhập kinh tế quốc tế, đã đưa đến những thành công đáng khích lệ, làm thay đổi
cả lượng và chất đời sống kinh tế - xã hội theo 3 nhóm tiêu chí sau:
- Nhóm tiêu chí tăng trưởng kinh tế, nhóm tiêu chí chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
nhóm tiêu chí phát triển bền vững
2.2. Thực trạng nguồn lực con người của Việt Nam
Lý thuyết và thực tiễn phát triển ở tất cả các nước trên thế giới đã cho thấy
nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình tăng trưởng và
phát triển nền kinh tế quốc dân. 2.2.1. Thực trạng về thể chất, về trình độ văn hóa
và kỹ thuật chuyên môn
Về thể lực và sức khỏe theo đánh giá của các chuyên gia, thể lực và sức khỏe
của người Việt Nam hiện nay chỉ dừng lại ở mức độ trung bình, theo bản thống kê
về chỉ số phát triển con người HDI Việt Nam đứng thứ 112/177 nước trên thế giới.
Về trình độ văn hóa, kỹ thuật chuyên môn. Việt Nam là một trong số ít các
quốc gia ở khu vực có tỷ lệ người lớn biết chữ và trẻ em trong độ tuổi đến trường
khá cao: khoảng 94% dân số biết chữ. Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với mức bình
quân của thế giới là 81,7%.
Về số lượng. Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực tương đối dồi dào so
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Đến hết năm 2007, cả nước có trên
44 triệu lao động trên tổng số 85 triệu dân, đứng thứ 2 trong khu vực và thứ 13
trên thế giới về quy mô dân số.
Về cơ cấu dân số. Cơ cấu dân số cũng thay đổi mạnh, đặc biệt là cơ cấu dân
số theo nhóm tuổi. Tỷ lệ người trong độ tuổi lao động tăng từ 51% lên 65%.
Tương ứng, tỷ lệ những người ngoài độ tuổi lao động giảm từ 49% xuống còn
35%.
Về chất lượng. Ba mươi năm qua, lực lượng lao động có trình độ có trình độ
chuyên môn kỹ thuật ở nước ta đã tăng từ 7,6% năm 1986 lên gần 30% năm 2007.
2.2.2. Chỉ số HDI của người Việt Nam
Chỉ số do Liên hợp quốc nêu ra về phát triển con người (HDI) của Việt Nam
tăng lên khá vững chắc trong vòng hơn 10 năm qua, từ 0,539 năm 1905 lên 0,725
năm 2009 và dự báo năm 2010 là 0,750.
2.2.3. So sánh năng lực của con người Việt Nam với các quốc gia khác
Sau hơn 30 năm tiến hành CNH, vẫn còn khoảng 70% lao động hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp. Tỷ lệ học sinh, số trường các cấp học, số trường đại
học, tỷ lệ tốt nghiệp đại học, tỷ lệ TS trên triệu dân của Việt Nam đều cao hơn so
với tất cả các nước có mức thu nhập bình quân theo đầu người tương đương với
Thái Lan. Tuy nhiên, Báo cáo phát triển thế giới năm 2006 của WB đưa ra nhận
định: Việt Nam chỉ có 2% dân số được học từ 13 năm trở lên, tụt hậu khá xa so
với các nước trong khu vực. Việt Nam xếp hạng chót trong khu vực với tỷ lệ 10%
số người trong độ tuổi 20-24 học đại học, trong khi tỷ lệ này ở Trung Quốc là
15%, Thái Lan là 41% và Hàn Quốc là 89%. Theo điều tra của WEF năm 2005,
nguồn nhân lực Việt Nam về chất lượng được xếp hạng 53/59 quốc gia được khảo
sát, song mất cân đối nghiêm trọng. Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp Đại học có
1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này
trên thế giới là 1,4 và 10. Ở Việt Nam cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong
khi đó của thế giới là 100, của Trung Quốc là 140. 2.3. Đánh giá vai trò của nguồn
lực con người Việt Nam đối với sự phát triển kinh tế xã hội bền vững trong thời
gian qua.
2.3.1. Thực trạng về hiệu quả sử dụng nguồn lực con người trong phát triển
kinh tế xã hội
Trên thực tế, Việt Nam đang đứng trước những thách thức không nhỏ trong
việc đào tạo và sử dụng nguồn lực con người chất lượng. Với tốc độ tăng dân số
khá cao, hàng năm có khoảng 1,5 tới 1,7 triệu lao động trẻ tham gia thị trường lao
động, tức cung lao động trên thị trường lao động Việt Nam luôn dồi dào và lớn
hơn cầu về lao động. Song phần lớn lại là lao động phổ thông và được phân bố chủ
yếu trong khu vực nông nghiệp nơi kỹ năng, tay nghề và trình độ của người lao
động không cần cao.
Thực tế còn cho thấy, hiệu quả lao động của Việt Nam hiện còn thấp so với
khu vực và kinh tế thế giới. Để cải thiện tình hình này, việc xây dựng và sử dụng
một cách hiệu quả nguồn lực con người chất lượng cao được xem là yếu tố then
chốt.
2.3.2. Phát huy năng lực, đãi ngộ và tôn vinh người tài
Trong cuộc sống đổi mới hiện nay, việc sử dụng người tài đức lại càng
được quan tâm. Tại Hội thảo về chủ đề Học Bác: Trí thức mạnh, đất nước mới
hưng thịnh do Hội khoa học – kỹ thuật Hà Nội tổ chức ngày 17/5/2010, các nhà
khoa học, trí thức mong muốn phát huy bài học lịch sử về “Chiếu cầu hiền”, trong
dụng trí thức và nhân tài của Chủ tịch Hồ Chính Minh. Đây là nội dung quan trọng
của tư tưởng Hồ Chí Minh
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NGUỒN LỰC CON
NGƯỜI NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI BỀN
VỮNG Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020
3.1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở Việt Nam giai
đoạn 2011-2020
Ở Việt Nam, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã được nhận thức
rất sớm và thể hiện trong nhiều chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt
Nam. Mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 là phấn đấu tăng trưởng
kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát triển con
người.
Từ thực tiễn, dự thảo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 –
2020 như sau: “Đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự
phát triển… giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng”
và xác định “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững
là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”, với các nội dung chủ yếu là “Phải phát
triển bền vững kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất
lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển
theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức”.(Bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng tại Hội nghị cấp cao ASEAN 16 – tháng 4/2010).
3.2. Quan điểm định hướng về phát triển kinh tế - xã hội bền vững và định vị
nguồn lực con người đối với phát triển kinh tế - xã hội
3.2.1. Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng
xã hội
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là 2 yếu tố cơ bản của sự phát
triển, đồng thời cũng là 2 trong số những mục tiêu cơ bản của các quốc gia. Giữa
việc tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện công bằng xã hội có mối quan hệ mật
thiết hai chiều với nhau. Mối quan hệ hai chiều giữa tăng trưởng và công bằng xã
hội được thể hiện: Tăng trưởng kinh tế là điều kiện thực hiện công bằng xã hội;
tăng trưởng kinh tế cao và bền vững là biểu hiện của công bằng xã hội. Để phát
huy thành tựu đã đạt được do thực hiện phương châm nói trên, trong thời gian tới
Việt Nam vẫn cần tiếp tục coi trọng các vấn đề sau:
- Tăng trưởng kinh tế tạo ra điều kiện vật chất để thực hiện công bằng xã
hội;
- Tăng trưởng kinh tế đến đâu phải thực hiện ngay công bằng xã hội đến
đó.
- Phải triệt để khắc phục chế độ phân phối bình quân; càng không thể thực
hiện các chính sách bảo đảm công bằng xã hội vượt quá khả năng mà nền kinh tế
cho phép.
3.2.2. Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với phát triển con người Việt
Nam theo mục tiêu “Tất cả vì con người, vì hạnh phúc, tự do, toàn diện của
con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội
và tự nhiên”
Một chân lý đơn giản và quen thuộc được thừa nhận rộng rãi từ lâu là “con
người là yếu tố trung tâm của mọi sự phát triển”.
Con người là đối tượng mà quá trình phát triển kinh tế - xã hội phải hướng
vào phục vụ. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là nguồn lực của sự
phát triển. Như vậy, từ quan điểm trên hình thành 2 khái niệm là “con người mục
tiêu” và “con người nguồn lực”. Nói con người mục tiêu hàm ý con người là đối
tượng mà mọi quá trình phát triển đều hướng vào, phát triển là vì con người vì
cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Còn con người nguồn lực hàm ý con người
với sức mạnh thể lực và trí tuệ của mình là nguồn lực quan trọng nhất, là phương
tiện để tiến hành quá trình phát triển kinh tế xã hội.
3.2.3 Đào tạo và phát triển nguồn lực con người phải tính đến xu hướng hội
nhập quốc tế và sớm tiếp cận kinh tế tri thức
Sự phát triển nguồn nhân lực để hỗ trợ cho sự cạnh tranh toàn cầu đang trở
thành nhu cầu cấp bách của nhiều quốc gia. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
ở nước ta đang đối mặt với toàn cầu hóa một cách gay gắt. Nguồn nhân lực ở nước
ta là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia hoạt động
hiện nay chiếm khoảng trên 50 triệu người Việt Nam. Nguồn lao động tuy dồi dào
về số lượng nhưng chất lượng thấp nên vẫn thiếu hụt, gây trở ngại cho quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó, đào tạo và phát triển con người toàn diện
trước mắt và lâu dài, nhu cầu nội lực và hội nhập quốc tế trong thời kỳ công
nghiệp hóa hiện nay là vấn đề cấp bách, tạo tiền đề tiếp cận nền kinh tế tri thức và
xây dựng xã hội tri thức trong tương lại.
3.3. Giải pháp phát triển nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội ở
Việt Nam
3.3.1. Giải pháp nâng cao thể chất con người Việt Nam
Nâng cao thể chất, sức khỏe là tiền đề, là bước đột phá để nâng cao chất
lượng nguồn lực con người, vì sức khỏe là mẹ của mọi thành công trước mắt cũng
như lâu dài. Để không ngừng nâng cao thể chất, sức khỏe con người cần thực hiện
các biện pháp chủ yếu sau:
Tăng cường công tác truyền thông, giáo dục về sức khỏe và dinh dưỡng cho
mọi người; Mở rộng mạng lưới y tế dự phòng, tăng cường công tác chăm sóc sức
khỏe cộng đồng. Đầu tư, nâng cấp hạ tầng cơ sở các bệnh viện, mua sắm thiết bị y
tế hiện đại.
3.3.2. Nhóm giải pháp về phân bổ ,nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực con
người trong phát triển kinh tế - xã hội bền vững
Trong điều kiện tiến đến cơ cấu dân số “vàng” hiện nay, Việt Nam cần tận
dụng cơ hội hiếm có này để phát huy mọi năng lực của một nguồn lực dồi dào. Bởi
vì, ở góc độ kinh tế, khi xem xét mối tương quan tiêu dùng và tích lũy, người ta
thường so sánh bộ phận dân số “trong độ tuổi lao động” và bộ phận dân số “ngoài
độ tuổi lao động”.
3.3.2.1 Tiếp tục điều chỉnh và hoàn thiện cơ cấu phân bổ nguồn lực con
người, cơ cấu nghề nghiệp và phân công lao động xã hội phù hợp với quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa
Điều chỉnh và hoàn thiện cơ cấu phân bổ nguồn lực con người theo khu vực
kinh tế.
Điều chỉnh cơ cấu nghề nghiệp và phân công lao động xã hội, phù hợp với dịch
chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để điều chỉnh cơ cấu nguồn lực con người theo hướng chuyển dịch như
trên, Việt Nam cần tập trung đẩy mạnh thực hiện các chương trình phát triển các
ngành như sau:
- Ngành thương mại, dịch vụ, du lịch
- Ngành công nghiệp
- Ngành nông nghiệp
3.3.2.2. Đổi mới phương pháp đánh giá con người và sử dụng con người nhằm
phát huy cao hiệu quả năng lực thành công của họ
Để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, cần áp dụng những hình thức vật
chất (đối với nhân viên làm việc theo sản phẩm, đối với kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp và trợ cấp cùng các khoản thu nhập thêm khác), kích thích tinh thần
(nâng cao chất lượng cuộc đời làm việc, quản trị chương trình mục tiêu, chương
trình nâng cao hiệu quả làm việc nhóm) và các hình thức khuyến khích khác.
Ngoài các yếu tố kể trên, để sử dụng và phát huy năng lực hữu dụng hiện có
và tiềm tàng của nguồn lực con người, Việt Nam cần:
a. Đổi mới chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động gắn kết với cơ chế
thị trường.
b. Có chính sách hữu hiệu để thu hút lao động đã qua đào tạo đến làm việc
ở các vùng nông thôn, miền núi.
3.3.3. Nhóm giải pháp về đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo
con người
Đây là nhóm giải pháp cơ bản để nâng cao giá trị con người trong phát triển
kinh tế - xã hội bền vững ở Việt Nam.
Trong thời đại ngày nay, GD&ĐT là con đường tốt nhất để con người luôn
tiếp cận kịp thời những thông tin mới cập nhật, làm giàu theo nguồn tri thức và
năng lực sáng tạo của mình. Hướng tới phát triển bền vững, không thể không nói
tới vai trò quan trọng của chất lượng nguồn lực con người. Trong bất kỳ quá trình
nào, nguồn lực con người chính là nhân tố quyết định việc tổ chức, sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực khác. Để có được nguồn nhân lực có kỹ năng, GD&ĐT
đóng một vai trò cơ bản trong quá trình đào tạo. Khi nguồn lực con người được coi
là yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất, của sự phát triển của mỗi quốc gia,
GD&ĐT là phương tiện chủ yếu quyết định nguồn lực con người, là nền tảng của
chiến lược con người.
3.3.3.1- Nâng cấp và hiện đại hóa từng bước hệ thống các trường từ mầm
non đến đại học, trung tâm và các viện nghiên cứu
Thiết kế một chương trình giảng dạy hiệu quả và hợp lý đòi hỏi một kế
hoạch, một mô hình và môi trường học tập tương ứng. Điều đó đặt ra phải hiện đại
hóa hệ thống trường lớp. Trường lớp cần được trang bị công nghệ hiện đại hỗ trợ
cho việc dạy và học mới mang lại hiệu quả cho cải cách.
3.3.3.2- Thực hiện một cuộc “cách mạng học tập” để nâng cao chất lượng
đào tạo ngang tầm khu vực và thế giới.
Để thực hiện đường lối “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế” cần có một cuộc
cách mạng trong học tập.
3.3.3.3- Xây dựng và hoàn thiện mô hình “Xã hội học tập” ở Việt Nam.
Đây là một sáng kiến lớn nhằm tạo điều kiện cho mọi người được hưởng
thủ nền giáo dục quốc gia. Mọi người, không phân biệt tuổi tác, giới tính, giàu
nghèo đều được học tập, “học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân”.
Đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, mở rộng các phương thức đào tạo
từ xa và các trung tâm học tập cộng đồng.
3.3.3.4- Thực hiện đồng thời xã hội hóa giáo dục với quốc tế hóa giáo
dục; đề cao vai trò của nhà nước trong giáo dục
Cần kết hợp xã hội hóa giáo dục với quốc tế hóa giáo dục.
Việt Nam hiện đã và đang đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục, nhưng
cần nhanh chóng quốc tế hóa giáo dục.Thực hiện xã hội hóa và quốc tế hóa giáo
dục không có nghĩa là xem nhẹ vai trò chủ đạo của Nhà nước trong giáo dục và
đào tạo. Nhà nước Việt Nam cần đầu tư nhiều hơn nữa cho sự nghiệp “trăm năm
trồng người”.
3.3.4- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội (ASXH)
1. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện về hệ thống Luật về ASXH
2. Điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện các chính sách ASXH: chính sách Bảo
hiểm Xã hội, Bảo hiểm y tế cộng đồng, xóa đói giảm nghèo, trợ cấp thất nghiệp
cho cả người lao động chính thức và phi chính thức.
3. Hoàn thiện cơ chế tài chính cho ASXH
4. Đổi mới chính sách trợ cấp xã hội và ưu đãi xã hội, bao gồm cả trợ cấp
đột xuất và trợ cấp thường xuyên. Đặc biệt ở Việt Nam trong những năm gần đây
thường xuyên xảy ra thiên tai, tai nạn tạo nhiều rủi ro cho nhân dân.
C. KẾT LUẬN
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở Việt Nam đang được thực
hiện với mục tiêu chung là ra sức phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại hóa. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi phải có
nhiều yếu tố, nhiều điều kiện khác nhau, nhưng yếu tố chủ yếu và có tính quyết
định này vẫn là yếu tố nguồn lực con người. Dù cho xã hội có những công cụ sản
xuất tiên tiến và hiện đại đến đâu, xong nếu thiếu những con người có trình độ học
vấn, kỹ thuật cao, có lòng nhiệt tình và say mê lao động, sáng tạo… vẫn chưa đủ
để tạo nên những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Trong bất
kỳ thời đại nào nguồn lực con người vẫn là lực lượng sản xuất cơ bản, hàng đầu
của toàn xã hội. Bởi vậy, làm thế nào để khai thác được tất cả những năng lực hiện
có và tiềm tàng to lớn, vô tận của nguồn lực con người nhằm tạo ra sự phát triển
kinh tế - xã hội bền vững là phương tiện để đạt mục tiêu trên.
Để tạo ra được nguồn lực con người có thể tạo những điều kỳ diệu trong
phát triển kinh tế - xã hội bền vững, và qua thực tiễn phát triển ở Việt Nam, đòi
hỏi phải đổi mới, nâng cao chất lượng GD&ĐT. Trên cơ sở quán triệt các quan
điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề này, điều quan trọng là
phải cụ thể hóa các quan điểm đó, áp sát hiện trọng phát triển GD&ĐT, định
hướng thực hiện các giải pháp trước những thách thức đang được đặt ra, tạo điều
kiện để GD&ĐT phát triển trong quan hệ gắn bó với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ở góc độ tương quan giữa lĩnh vực này với kinh tế, khi đang
đứng trước đòi hỏi lớn về chất lượng và hiệu quả cùng với thách thức lớn về
nguồn lực con người, cần thiết phải tăng cường sự phối hợp liên ngành để một mặt
giải quyết tốt bài toán đào tạo gắn với sử dụng; mặt khác, quá trình đổi mới thể
chế kinh tế được đẩy mạnh nhằm tạo ra mooii trường khuyến kích sự tham gia của
tất cả các lực lượng xã hội vào sự nghiệp phát triển GD&ĐT. Trong điều kiện hiện
nay, để đẩy nhanh sự phát triển CNH-HĐH đất nước phải phát triển GD&ĐT
nhằm thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất và lấy đó làm khâu đột phá cho
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở Việt Nam không chỉ giai đoạn
2011 – 2020, mà còn cho cả giai đoạn tiếp theo.
Hà Nội, tháng 10 năm 2010
- Xem thêm -