Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Ngôn Ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương...

Tài liệu Ngôn Ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương

.DOCX
20
139
82

Mô tả:

Ngôn Ngữ trong thơ Hôồ Xuân Hương 1. Lời nói đầu Hồ Xuân Hương là một hiện tượng độc đáo của Việt Nam và có lẽ của cả thế giới. Độc đáo đến mức có lúc, có người coi đó là một ngoại lệ. Một hạt giống lạ do loài chim từ phương trời nào ngậm bay qua lỡ đánh rơi trên mảnh đất Việt. Trước, cùng và sau người nữ sĩ ấy, dòng văn chương Việt hẳn khó còn một ai như thế. Sức quyến rũ của Hồ Xuân Hương là khả năng sáng tạo ngôn ngữ hết sức độc đáo. Có thể nói cái tích cực lớn nhất, giá trị lớn nhất của thơ Hồ Xuận Hương là đả kích xã hội thối nát với tất cả uất hận của mình, bằng tất cả tài năng của mình. Sức mạnh của sự phẩn ứng có nguyên do trong sức mạnh của sự áp bức, và giới phụ nữ bị áp bức nhiều nhất, thì khi học vùng lên, họ càng không thể “mực thước”, “phải chăng”. Hồ Xuân Hương đã “nổi loạn” để chống lại sự bóp nghẹt con người của xã hội phong kiến bằng những bài thơ rất sống, rất đại chúng qua phong cách ngôn ngữ độc đáo: sử dụng sáng tạo ngôn ngữ văn học dân gian, vận dụng một cách tự nhiên mà điêu luyện ngôn ngữ đời sống, tạo nên tính đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ qua cách nói lấp lửng, nói lái, chơi chữ và sử dụng từ láy…Tất cả đã hội tụ và kiến tạo nên một Hồ Xuân Hương rất riêng, rất dân giã, rất Việt Nam. 2. Nội dung 2.1. Hồ Xuân Hương- Thời đại và cuộc đời, sự nghiệp 2.1.1.Thời đại Hồ Xuân Hương Lịch sử Việt Nam có lẽ không có thời nào tồi tệ cho bằng những năm cuối đời Lê. Năm 1767, Trịnh Sâm lên ngôi chúa mê tửu sắc, bị bệnh kỳ quái, sợ nắng gió, ngày đêm cứ phải ở trong cung kín như bưng. Yêu Thị Huệ, Trịnh bỏ con trưởng là Trịnh Khải lập con thứ là Trịnh Cán, gây ra bè đảng trong cuộc tranh giành quyền lực. Đàng trong quận chúa Nguyễn cứ lăm le ra đánh phá, quấy nhiễu. Trước hỗn cảnh đó, quan lại chỉ còn biết lấy nịnh hót, luồn cúi làm lẽ sống. Nhân dân sống trong cảnh loạn ly, các giá trị đạo đức bị băng hoại. Bao nhiêu nghĩa quân thần, tình gia quyến, bao nhiêu ước thúc luân lý…bị lật nhào. Bởi thế bao nhiêu cặn bã xã hội đều nổi trên mặt. Những bậc trưởng thứ, những vị có học nhìn thời cuộc đâm chán nản, trái lại những kẻ cơ hội thoả mãn những mưu đồ vô đạo, bất chính. Đây là giai đoạn suy tàn của những luân lý giáo điều Nho giáo và sự trỗi dậy của những tư tưởng cá nhân tự do, muốn đả phá và giải phóng khỏi những ràng buộc của những định kiến Nho giáo. Hồ Xuân Hương đã sống trong một giai đoạn sóng gió nhất với nhiều biến cố kinh thiên động địa nhất trong lịch sử chế độ phong kiến nước ta. Khi nói về thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến đã có câu: “Thơ thánh thơ tiên đời vẫn có, Tung hoành thơ quỷ hiếm hoi thay.” Vì sao gọi thơ Hồ Xuân Hương là thơ quỷ? Phải chăng tính chất quỷ đó được sinh ra từ một xã hội quỷ sứ? Hay là tính chất ngông nghênh, quậy chọc như quỷ sứ trong thơ bà! Tìm hiểu đôi nét về thời đại, sự nghiệp thơ để hiểu hơn về cuộc đời người đàn bà tài hoa mà bạc mệnh này. Hồ Xuân Hương sống vào thời vua Lê chúa Trịnh. Chế độ phong kiến đã trải qua một cuộc khủng hoảng cực kì trầm trọng. 2.1.2. Cuộc đời Hồ Xuân Hương Nghiên cứu Hồ Xuân Hương cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp. Theo các tài liệu lưu truyền thì Hồ Xuân Hương quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh lưu, tỉnh Nghệ An. Bà sống vàogiai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIIInửa đầu thế kỉ XIX. Hồ Xuân Hương là con của Hồ Phi Diễn nhưng lại là con của một người thiếp. Như thế ta thấy nàng không hề có một địa vị may mắn nào. Cái cảnh vợ lớn, vợ bé xưa nay chắc ai cũng có thể hình dung là nó kinh khủng đến mức nào. Tránh sự ghen tuông thù ghét, người cha dù thương con đến mấy cũng không dám bênh vực, chỉ biết yên lặng cho “trong ấm ngoài êm”. Nhưng một khi cái sợi dây liên lạc đó mất đi, người cha mất đi thì cảnh địa ngục trần gian diễn ra như một tất yếu. Hồ Xuân Hương đã sống trong cảnh ngộ đó. Khi cha nàng mất đi, hẳn nàng đã phải sống những tháng ngày đen tối, tủi nhục nhất. Cái đen tối ấy theo đuổi nàng mãi: Sinh làm con một người thiếp, sống cuộc đời làm kiếp vợ lẽ. Cả cuộc đời nàng không có lấy một ngày hạnh phúc, chưa bao giờ thấy nàng cười, nàng có cười vả chăng chỉ là cái cười mỉa mai, chua xót cho thân phận của mình. Căn cứ vào một số tài liệu, truyền thuyết, qua thơ văn thì thấy Bà thuở nhỏ thông minh, có đi học tuy không nhiều lắm. Đời sống bình thường không dư dật, không thiếu thốn. Giao du rộng rãi, là người phóng túng, đi nhiều và thân thiết với nhiều bạn trai trong số đó có cả Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều. Hồ Xuân Hương đi du lãm nhiều nơi, đây là một điều hiếm có với phụ nữ ttrong xã hội phong kiến. Nhiều danh lam thắng cảnh bà đã đặt chân đến ở các tỉnh Thanh Hoá, Ninh Bình, Nam Định, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên...Đó là chưa kể đến Vĩnh tường (Vĩnh phú) nơi chồng bà làm quan, và Nghệ An, quê hương cuả bà. Bà là người đa tình, có tài và biết mình có tài, bà mong mỏi có một người chồng xứng đáng. Nhưng cuộc đời, tình duyên của bà đầy ngang trái, đầy đau khổ. 2.1.3. Sự nghiệp thơ Hồ Xuân Hương Tác phẩm của Hồ Xuân Hương không có di cảo, những tác phẩm được coi là của bà đều do người sau ghi chép lại bởi thế tình trạng dị bản rất phổ biến. Về thơ, có khoảng một trăm bài được sáng tác chủ yếu bằng thể tứ tuyệt và thất ngôn bát cú trong đó bốn mươi bài có sự thống nhất về phong cách nghệ thuật. Ngoài ra còn có tập Lưu hương kí, tập thơ gồm hai mươi bốn bài thơ chữ Hán và hai tám bài thơ chữ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho trào lưu nhân đạo chủ nghĩa của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX. Bởi những sáng tác của bà đã nêu bật được những vấn đề riêng tư, những nỗi bất công mà người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịu đựng và tin tưởng đấu tranh để bênh vực quyền lợi phụ nữ. Thơ Hồ Xuân Hương có một số bài viết về cảnh ngộ riêng tư. Đó là nỗi niềm của một người phụ nữ giàu sức sống và hết sức tài hoa nhưng cuộc đời đầy bất hạnh. Những đề tài trong cuộc sống bình thường giản dị hàng ngày nhưng khi đi vào thơ Hồ Xuân Hương lại rất mới mẻ, sinh động, có tính chất úp mở hai nghĩa, một nghĩa đen phô ra, nói trực tiếp về đối tượng nhà thơ miêu tả, và một nghĩa ngầm nói về chuyện thầm kín trai gái. Song không phải như thế mà thơ của bà nhả nhớp, khêu gợi những dục vọng kín đáo của con người. Một mặt thông cảm, bênh vực và đề cao người phụ nữ, Hồ Xuân Hương còn lớn tiếng đả kích tất cả những nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến, bà vạch trần lối sống đạo đức giả, trái đạo đức của chúng. Hồ Xuân Hương kế thừa truyền thống của truyện tiếu lâm dân gian thường dùng cái tục làm phương tiện đả kích. Được sáng tác theo thể đường luật nhưng thơ Hồ Xuân Hương được dân tộc hóa cao độ. Bà đã gặt hái được không ít thành công trong việc đưa cuộc sống trần tục hàng ngày vào một thể thơ vốn đài các, quí phái. Hồ Xuân Hương lợi dụng triệt để kết cấu chặt chẽ của bài thơ đường luật với những câu đối nhau để tạo những mâu thuẫn có tính chất trào phúng trong những bài thơ châm biếm, đả kích. Về phương diện ngôn ngữ, Hồ Xuân Hương cũng có những sáng tạo và thành công đáng kể trong việc sử dụng ngôn ngữ đời thường, trong việc học tập ca dao, tục ngữ, thành ngữ để sáng tác thơ. Nữ thi sĩ tài hoa đã khai thác triệt để khả năng tu từ phong phú của ngôn ngữ dân tộc và đã mài sắc ngôn ngữ dân tộc của thời đại mình. 2.2. Những nét độc đáo trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Người nghệ sĩ tài năng là người nghệ sĩ biết sáng tạo “Chất liệu” ngôn ngữ của dân tộc để làm nên tác phẩm của mình, xây dựng hình tượng nghệ thuật của riêng mình và tạo cho mình một giọng điệu riêng, một phong cách riêng, không nhầm lẫn được. Văn hào Nga Chekhov đã khẳng định “Nếu tác giả nào không có lối nói riêng của mình thì người đó không bao giờ là nhà văn cả” Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên tạo nên phong cách tác giả. Nhà văn có phong cách ngôn ngữ là nhà văn biết sử dụng ngôn ngữ toàn dân, của dân tộc để tạo nên một giọng điệu riêng, một chất giọng riêng không hề nhầm lẫn mà được mọi ngưòi thừa nhận. Chất giọng riêng ấy trước hết thể hiện ở ngôn ngữ, sự sáng tạo ngôn ngữ. Sự sáng tạo ngôn ngữ này chính là sự đóng tạo của nhà văn làm phong phú thêm kho tàng ngôn ngữ của dân tộc. Bởi vậy khi khảo sát phong cách ngôn ngữ nhà văn chính là khảo sát chất giọng riêng của nhà văn, tìm ra qui luật riêng trong việc sử dụng ngôn ngữ và sự đóng góp của nhà văn trên phương diện ngôn ngữ. Trong thơ cổ điển của nước ta nếu xét khía cạnh tính cách đân tộc thì có lẽ thơ Hồ Xuân Hương “Thì treo giải nhất chị nhường cho ai ?” Thơ của bà đã thống nhất đến cao độ hai tính cách dân tộc và đại chúng. Xuân Hương học thông chữ Hán nhưng trong thơ mình Bà chỉ dùng thuần Việt trong lúc các nhà thơ khác cùng thời như Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan ... dung hòa giữa chữ Hán với tiếng Việt thì nữ sĩ Xuân Hương chỉ dùng tiếng việt trước sau như một. Bà không dùng chữ Hán có nghĩa là Bà nhất khoát thoát ly khỏi sự kìm cặp của lễ nghi phong kiến. Ngôn ngữ phong phú và tài dùng chữ của Xuân Hương là câu trả lời cho những ai không tin vào dân tộc mà cho rằng: Tiếng nói của mẹ đẻ là lạc hậu và nghèo nàn.. 2.2.1 Hồ Xuân Hương sử dụng sáng tạo ngôn ngữ văn học dân gian Thơ Hồ Xuân Hương mang đậm sắc thái của dân gian đặc biệ là sử dụng thành công và điệu luyện thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong sáng tác. Nếu như tục ngữ là những câu nói mang đặc điểm ngắn gọn, súc tích có hình ảnh giàu vần điệu nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức thực tiễn về tất cả mọi lĩnh vực của đời sống con người và cuộc đấu tranh sinh tồn của nhân dân lao động, thì thành ngữ là những đoạn câu, cụm từ tương đối ổn định, bền vững nhằm thể hiện một quan niệm dưới một hình thức sinh động, hấp dẫn có tác dụng tô điểm và nhấn mạnh ý nghĩa của những từ cần diễn đạt. Thành ngữ còn là một cấu trúc mở về mặt ý nghĩa. Cái ý không trọn vẹn trong thành ngữ, người sử dụng có thể làm cho nó trở thành trọn vẹn theo ý định chủ quan của mình. Đến với thơ Hồ xuân Hương thì chúng ta không khỏi ngỡ ngàng khi những từ ngữ trong thơ của bà hoàn toàn khác xa với sự trau chuốt, gọt giũa, khuôn sáo mà chúng ta thường bắt gặp trong ngôn ngữ thơ. Ở thơ của Hồ Xuân Hương thì chúng ta bắt gặp sự mộc mạc, giản dị, dễ hiểu của ngôn ngữ thơ bà vì ở đó bà đã sử dụng một cách sáng tạo của ngôn ngữ văn học dân gian là đưa vào trong thơ những thành ngữ, tục ngữ, ca dao gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân làm cho thơ của bà dễ nhớ, giàu hình tượng và độc đáo hơn. Từ đó thơ của bà không chỉ góp phần biểu đạt tư duy, trí tuệ Việt Nam mà còn góp phần biểu đạt tình cảm, tâm hồn dân tộc và Hồ Xuân Hương xứng đáng được người đời tôn vinh “Bà chúa thơ nôm” trong làng thơ Việt nam. Tất cả các thành ngữ nói về những hoạt động xã hội khác nhau như về hoạt động kinh tế “làm mướn không công”, “Thăm ván bán thuyền”; về quan hệ ứng xử: “Bạc như vôi”, “Cố đấm ăn xôi”, “Nóng nọc đứt đuôi”, “Cóc bôi vôi”, “Qua sông phụ sóng”, khi vào thơ Hồ Xuân Hương đều có một chức năng thể hiện duyên phận của người phụ nữ: Nói đến thành ngữ, tục ngữ thì có rất nhiều tác giả đã vận dụng vào trong thơ ca của mình cũng như trước thời Hồ Xuân Hương tác gia Nguyễn Trãi đã sử dụng rất nhiều thành ngữ, tục ngữ, ca dao vào trong thơ của mình. Chẳng hạn như trong tác phẩm “Quốc âm thi tập” thì ông đã sử dụng khá linh hoạt nhiều thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ, ca dao như : “ Ở đấng thấp thì nên đấng thấp Đen gần mực, đỏ gần son” ( Bảo kính cảnh giới, bài 21) Được lấy trong câu tục ngữ “ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” hay : “ Ở bầu thì dáng ắt nên tròn Xấu, tốt thì đều rặp khuôn” ( Bảo kính cảnh giới, bài 21) Được tác giả chuyển từ thành ngữ “ Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” hay trong bài “Mạn thuật, bài 10” tác giả viết: “ Lòng người tựa mặc ai ai Sự thế bằng cờ bước bước nghèo” Được tác giả lấy trong câu tục ngữ: “ Nhìn mặt mà bắt hình dong Con lợn có béo cổ lòng mới ngon”. Và còn rất nhiều nữa những thành ngữ,tục ngữ, ca dao được tác giả sử dụng trong “Quốc âm thi tập”. Đó là thứ ngôn ngữ lao động được ông gọt giũa, cách điệu hóa và nâng lên để diễn đạt những ý tưởng cô đúc, nhuần nhuỵ, và trong thơ Nguyễn Trãi những thành ngữ, tục ngữ đã trở thành công cụ của tư duy, giữ chức năng triết lí, giáo huấn là chủ yếu. Nói đến việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong sáng tác thì không thể không nhắc đến Nguyễn Du.Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã sử dụng rất độc đáo những thành ngữ, tục ngữ: “Ra tuồng mèo mả gà đồng, Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào” “Ở đây tai vách mạch dừng, Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi” Trong nhiều trường hợp, nhà thơ thường tách tực ngữ, thành ngữ ra từng bộ phận và xen vào những yếu tố phụ, hoặc để nhấn mạnh ý nghĩa của thành ngữ, tục ngữ, hoặc để làm cho nó phù hợp với vần điệu của câu thơ như: “Biết bao bướm lả ong lơi” Hay: “Nàng rằng: non nước xa khơi. Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm” Ca dao trong “Truyện Kiều” được nhà thơ sử dụng như một thứ chất liệu nghệ thuật, chứ không phải như những trích dẫn. Không có câu nào ông dùng lại nguyên vẹn, mà tất cả đều được nhào nặn, cấu tạo lại cho phù hợp với phong cách của nhà thơ trong tác phẩm. Như vậy, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi khi sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong sáng tác của mình đều có sự trau chuốt, gọt giũa, gia công một cách công phu. Ngược lại, thành ngữ, tục ngữ, ca dao đi vào thơ của Hồ xuân Hương một cách mộc mạc, giản dị và ngôn ngữ thơ của bà không khác gì ngôn ngữ của ca dao, tục ngữ. Có thể nói ngôn ngữ trong thơ của Hồ xuân Hương là ngôn ngữ thuần túy Việt Nam. Qua sự khảo sát trong số 39 bài thơ trong tập thơ Hồ Xuân Hương do tác giả Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu được nhà xuất bản văn học xuất bản 1987 đã phát hiện 15 trường hợp có xuất hiện yếu tố thành ngữ, tục ngữ trong câu thơ, đây quả là một con số không nhỏ, nó cho thấy thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong thơ Nôm Hồ xuân Hương có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng. Việc đưa thành ngữ, tục ngữ, ca dao vào trong tác phẩm được bà xử lí rất tinh tế, tài tình và nhuần nhuyễn, có những tác phẩm ngắn nhưng chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy tác giả đã 2 lần sử dụng yếu tố thành ngữ, tục ngữ. Chẳng hạn như trong bài “ Mời Trầu” có 2 câu thành ngữ “xanh như lá, bạc như vôi” được dùng trong câu thơ “ Đừng xanh như lá bạc như vôi” bài “ Khóc Tổng Cóc” lại có 2 câu thành ngữ khác là “nòng nọc đứt đuôi” và “gọt gáy bôi vôi” được vận dụng trong 2 câu thơ: “ Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé, Nghìn vàng chuộc dấu bôi vôi” Hoặc như bài “ Quan Thị” thì hai câu thơ: “ Đố ai biết đó vông hay trốc Còn kẻ nào hay cuống với đầu” Là hai hình ảnh hết sức ví von được rút ra từ 2 câu tục ngữ: “Ngồi lá vông, chổng mông lá trốc” và “Đầu trỏ xuống, cuống trỏ lên”. Đặc biệt, trong bài “ Làm Lẽ” với 8 câu thơ ngăn nhưng lại có 3 thành ngữ “ Năm thì mười họa chăng hay chớ” lấy từ ý của câu thành ngữ “Năm thì mười họa”, hay câu “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm” lấy từ ý của câu thành ngữ “ Cố đấm ăn xôi” hay câu “cầm bằng làm mướn, mướn không công” lấy từ ý của thành ngữ “mướn không công”. Ngoài ra còn có những bài khác cũng được vận dụng từ ý của thành ngữ, tục ngữ như: “ Tài tử văn nhân ai đó tả” (tự tình I), lấy ý của thành ngữ “tài tử, giai nhân”, “ ấy ai thăm ván cam lòng vậy” ( Tự Tình III) lấy ý thành ngữ “ thăm ván bán thuyền” hay “ Bảy nổi ba chìm với nước non” ( Bánh trôi nước) lấy của thành ngữ “ba chìm bay nổi”, “mỏi gối chôn chân vẫn muốn trèo” (Đèo Ba Dội) ý của thành ngữ “mỏi gối chôn chân”….. Đến với bài thơ "Bánh trôi nước", qua việc sử dụng thành ngữ tiếng Việt, Hồ Xuân Hương đã thể hiện rõ một quan niệm tiến bộ đó là con người (người phụ nữ) dù cuộc sống có gặp muôn và khó khăn, gian khổ, tưởng chừng như là ngõ cụt buộc phải đầu hàng số phận nhưng đằng sau tấm thân mảnh mai, yếu ớt ấy là một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của người phụ nữ luôn có ý thức tự vươn lên trước sự nghiệt ngã của cuộc đời. Hay trong bài thơ "Làm lẽ", Hồ Xuân Hương đã phản ánh chân thực và xúc động những thiệt thòi, bất hạnh của người phụ nữ trong thân phận làm lẽ mọn. Tỏ thái độ bất bình, phản kháng chế độ đa thê (Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng) một tập tục đã ngự trị dai dẳng và nghiệt ngã trong xã hội phong kiến... Hồ Xuân Hương đã vận dụng ý tưởng từ những tục ngữ, thành ngữ và ca dao một cách triệt để vào thơ của mình. Bà không sử dụng hoàn toàn câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ của dân gian mà chỉ chắt lọc lấy những chi tiết nổi bật, cần thiết từ những từ ngữ, thành ngữ; qua đó bộc lộ tình cảm và cảm xúc của nhà thơ. Vận dụng ý tưởng “ngủ ngày” trong câu tục ngữ "Đánh bạc quen tay, ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen mồm" để làm bài thơ “Thiếu nữ ngủ ngày”. Bài thơ Thiếu nữ ngủ ngày ta thấy Hồ Xuân Hương đã vẽ ra những nét chấm phá rất "hoàn thiện" và "toàn bích" trước vẻ đẹp trên thân thể của người thiếu nữ. Trong tục ngữ và theo lối suy nghĩ của nhân dân ta, kẻ hay ngủ ngày là những kẻ lười nhác, đây là thói quen xấu cần phải phê phán. Đến với Xuân Hương lại khác, khai thác ở một khía cạnh ngủ ngày nhưng ở một tư thế rất đẹp, đầy sức thanh xuân: “Đôi gò Đồng Đảo sương còn ngậm, Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông.” Bồng Đảo, Đào Nguyên là cảnh tiên, cái đẹp lý tưởng. Đôi gò đẹp tròn căng trên nương long ấy là đôi Bồng Đảo, cái lạch bên dưới là một lạch Đào Nguyên. Cả hai đều là tiên cảnh, ở đó là một sự sống tràn đầy, đây chính là cái đẹp hình thể cái đẹp của sự sống. Qua một số dẫn chứng trên chúng ta thấy rằng Hồ Xuân Hương khi đưa thành ngữ, tục ngữ vào thơ thường chủ yếu thông qua 2 phương thức. Thứ nhất, bà vận dụng trực tiếp thành ngữ, tục ngữ vào thơ, tức là lấy nguyên văn, nguyên dạng những câu thành ngữ, tục ngữ vốn có của dân gian để đưa vào thơ như trường hợp “ xanh như lá, bạc như vôi” trong câu thơ “ Đừng xanh như lá, bạc như vôi”, phương pháp này đòi hỏi tác giả là người hết sức giỏi về khả năng xử lí ngôn ngữ để có thể ghép những câu thành ngữ, tục ngữ vốn có là một “Khối từ ngữ đúc sẵn” vào với những từ ngữ chủ quan riêng của mình để tạo nên một câu thơ hoàn chỉnh mà không bị cứng nhắc, gượng ép về nghĩa cũng như về vần điệu. Thứ hai là bà chỉ lấy ý của thành ngữ, tục ngữ để chuyển vào trong thơ chứ không áp dụng hoàn toàn như ở cách thứ nhất. chẳng hạn như “Thăm ván bán thuyền” (Ấy ai thăm ván cam lòng vậy - Tự Tình III), “gọt gáy bôi vôi” (Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi - Khóc tổng cóc), “Mướn không công” (Cầm bằng làm mướn, mướn không công Làm Lẽ), cách xử lí này tạo nên bí ẩn, ý độc đáo cho câu thơ và tọa cho người đọc sự liên tưởng rộng hơn, thích thú hơn và đầy ấn tượng bởi ví dấu ấn thành ngữ, tục ngữ thường chỉ tồn tại phản phất trong câu thơ chứ không hiện hữu rõ ràng như ở cách thứ nhất. Như vậy những câu thành ngữ, tục ngữ qua ngòi bút tài hoa của Hồ xuân Hương dường như đã trở thành một thứ công cụ hết sức đắc trong việc tạo hình, tạo nghĩa cho thơ mà không cần nhờ tới những thứ mĩ từ khác. Thành ngữ, tục ngữ, ca dao cũng trở thành phương tiện đắc lực để bà thể hiện tình cảm, làm chức năng biểu đạt tâm trạng trong thơ bà với sự xuất hiện của thành ngữ, tục ngữ, ca dao; chúng đem lại tính gần gũi, bình dị, mộc mạc cho câu thơ, đồng thời tạo nên những chiều sâu về nghĩa thông qua sự liên tưởng, suy luận của người đọc. Từ đó cho thấy bà “chúa thơ nôm” Hồ Xuân Hương đã rất giỏi và thành công ở biệt tài trong việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ vào trong thơ nôm đường luật. Hồ Xuân Hương đã “tâm trạng hóa” thành ngữ, làm cho thành ngữ in đậm dấu ấn ca tính sáng tạo của bà. Trong khuynh hướng dân tộc và dân chủ, thơ Nôm Đường luật đã tìm về cội nguồn văn học dân gian, tiếp thu ở đó không chỉ nội dung mà cả hình thức biểu đạt. 2.2.2 Hồ Xuân Hương sử dụng sáng tạo ngôn ngữ đời sống. 2.2.2.1. Ngôn ngữ bình dân, lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân lao động trong thơ Hồ Xuân Hương Thơ Hồ Xuân Hương là một lối thơ rất tự nhiên, thật gần gũi với đời sống thường nhật, với lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân lao động. Lời thơ không cầu kỳ, gọt dũa mà vẫn thiết tha, nhẹ nhàng rót vào lòng người những cung bậc rất thánh thót, ngân vang. Thơ bà đã thoát ra ngoài khuôn sáo, ít dùng điển cố Hán văn. Với thơ Hồ Xuân Hương Đường luật Nôm tiếp tục xu hướng dân tộc hóa đồng thời chuyển nhanh trên con đường dân chủ hóa nội dung và hình thức thể loại. Xu hướng dân chủ hóa đường luật là xu hướng mạnh mẽ nhất ở hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương. Trong văn học trung đại Việt Nam, Hồ Xuân Hương gần như là trường hợp duy nhất không viết dưới bất cứ ánh sáng của học thuyết tôn giáo nào, một học thuyết chính trị nào từ phía tư tưởng chính thống. Thơ Hồ Xuân Hương là sự giải tỏa hoàn toàn khởi giáo điều phong kiến, là sự đoạn tuyệt khá triệt để với tinh thần “đẳng cấp” của Nho giáo. Với thơ Hồ Xuân Hương, Đường luật Nôm không còn ở địa vị “đẳng cấp trên” trong hệ thống thể loại văn học trung đại. Đến thơ Hồ Xuân Hương, Đường luật Nôm đã thực hiện một cuộc cách tân đầy ý nghĩa: cuộc đời thường, nguyên sơ, chất phác, dân dã trở thành đối tượng thẫm mĩ. Cái bản năng, tự nhiên, trần tục vốn xa lạ với phong cách trang trọng, cao quý của Đường luật bỗng trở nên thích dụng với phong cách trữ tình trào phúng của thơ Hồ Xuân Hương. Những ngôn ngữ bình dân, những lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân được Hồ Xuân Hương sử dụng rất thành công: “Này của Xuân Hương đã quyệt rồi.” “Lại đây cho chị dạy làm thơ.” “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung” “ Này chịem ơi chớvội cười…” Ngôn ngữ đời sống dưới tay Bà chúa thơ Nôm biến hóa khôn lường. Bà đúng là nghệ sĩ ngôn từ, biểu diễn ngôn ngữ trên những dòng thơ như nghệ sĩ xiếc dây. Ngôn ngữ đời sống trong thơ bà là ngôn ngữ thông tục nhất mà đắt nhất, hay nhất : “Thân này đâu đã chịu già tom?” (Tự tình I) “Ai về nhắn bào phường lòi tói, Muốn sống đen vôi quét trả đền”. (Mắng học trò dốt-II) Thơ Hồ Xuân Hương phát ra tự nhiên như những lời giao tiếp thường ngày, ta không thấy trong ngôn ngữ Bà sự gò bó, trau chuốt, gọt giũa hay gia công công phu nào để ép ngôn ngữ thơ vào khuôn khổ của thể thơ Đường Luật ngọn ngữ (thơ Hồ Xuân Hương khác ngôn ngữ thơ Bà Huyện Thanh Quan rất chuẩn mực bà là người có sự dụng vốn từ Hán Việt nhiều nhất).những từ Hán Việt làm đậm phong vị Đường thi cho thơ Bà Huyện Thanh Quan cả nội dung cảm hứng nghệ thật biểu hiện: “các từ Hán Việt nữ thi sĩ dùng đẩy ta vào thế giới muôn đời. Trên đời chỉ có những ông chài, những thôn vắng, những trẻ chăn trâu, những bến xe, những người đài cao, những người khách trọ, cảnh ấm lạnh của cuộc đời. Thơ Bà Huyện Thanh Quan tiêu biểu cho một tân hồn hoài cổ. Ngược lại, ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương cũng như thơ Hồ Xuân Hương là mang đậm đà phong vị dân giã, bình dân. 2.2.2.2. Âm thanh, màu sắc, hình khối của đời sống trong thơ Hồ Xuân Hương. Ngôn ngữ đời sống đi vào thơ Hồ Xuân Hương một cách rất tự nhiên, mang bản lĩnh nghệ thuật độc đáo, phi thường. Những danh từ, động từ, tính từ trong thơ Hồ Xuân Hương sẽ không có gì đặc biệt là ngôn ngữ đời sống nếu thiếu những từ làm định ngữ, làm bổ ngữ những từ này mới thực sự mang chất liệu đời sống hằng ngày vào sáng tác văn học. Những động từ trong thơ Hồ Xuân Hương giữ vị trí “đầu não”, vị trí “chúa tể”, nó là cuộc sống, hòn đá tảng của nhịp thơ; nó có khả năng gây biến động, gây “tai biến”, bất chợt và hùng hổ: “gió thốc”, “sương gieo” (Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc, Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.), “nảy” (nảy vừng quế đỏ, nảy nét ngang), “nhô” (nhô đầu dọc), “nổi chìm” (Bảy nổi ba chìm với nước non), “chành ra khép lại”…Các động từ trên gây những cú sốc, những phá huỷ và cả những xây dựng kế tục nhau, là những nhịp mạch hay linh hồn của thơ Hồ Xuân Hương. Thơ Hồ Xuân Hương tràn trề màu sắc và hầu như không mấy khi có những màu sắc ở độ không mà “đỏ loét”, “xanh rì”, “tối om”, “đỏ lòm lòm”,, chính mõm mòm”…Ở đây, các trạng từ giữ một chức năng quan trọng, nó đẩy màu sắc đến mức cực độ, nó tạo trong văn bản cái không đồng nhất, cái bất ngờ, nó gãy khúc. Nó có tác dụng chuyển nghĩa, từ cái bình thường sang cái ẩn dụ cơ thể người phụ nữ. Bằng một từ, có khi bằng một âm thanh hoặc một nhịp điệu bất bình thường, nhà thơ nói cái này song ý nghĩa của nó lại là cái khác: “Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm”. “phòm” mở đầu các từ “hom”, “dòm”, “khom”, “dom” ở bên dưới khiến cho người đọc “giật mình”, ngạc nhiên, nghĩa ngay đến “cái động” khác “Động Hương Tích”. Thơ Hồ Xuân Hương là một thế giới âm thanh rộn rã, náo động : “tiếng trống canh dồn”, tiếng “mõ khua”, chuột “rúc rích”, ong “vo ve” quạt “phì phạch” sóng vỗ “long bong”, gió “lách cách”, rồi “lõm bõm”, “phập phòm”, tiếng tiêu, chũm choẹ và “giọng hì”, giọng hỉ”, “giọng hi ha”… Những âm thanh ấy xâm nhập lẫn nhau, “cãi nhau chí choé”, cao thấp, nặng nhẹ vô cùng ồn ào… Hồ Xuân Hương như nghe thấy lớp âm thanh thứ hai của đêm vắng từ xa đứ tới, từ mông lung, từ vô vọng và sâu thẳm của trái tim. Hồ Xuân Hương là nhà thơ sử dụng ngôn ngữ để tạo hình. Không gian thơ Hồ Xuân Hương đầy ắp sự vật, mỗi sự vật mang một hình thù, mỗi bài thơ như một công trình kiến trúc nghệ thuật. Thơ Hồ Xuân Hương có rất nhiều hình học: “Vầng trăng khi khuyết lại khi tròn” , “Kẻ lạ bầu tiên”, “Khối tình cọ mãi với non sông”, “Mảnh tình một khối thiếp xin mang”, “Chành ra ba góc da còn thiếu”, “Giữa in chiếc bánh khuôn còn me, Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm”. Rồi “rộng”, “hẹp”, “ngắn”, “dài”, “nông”, “mỏng”, “dày”, và “sù sù”, và “tùm hum”, và “lam nham”, và “lúng phún”… Các hình thù kì lạ, đủ các cỡ ấy chuyển động, nó “uốn éo” (Ba chạc cây xanh hình uốn éo), nó “lom khom” (Con thuyền vô trạo cái lom khom), “khom khom”, “ngửa ngửa”, “doc”, “ngang”, “cúi”, “giang thẳng cánh”, “duỗi song song”; các hình thù ấy khi “lơ lửng”, khi “cheo leo”…Các hình thù ấy động đậy, cựa mình đâm lên, chọc xuống, tạo nên một không gian động trong một thời gian động. Nó thức tỉnh, khua động, gọi dậy sức sống, cái đẹp, tiềm năng của con người. Hồ Xuân Hương đặc biệt tài năng khi sử dụng các từ làm bổ ngữ và định ngữ. Chính yếu tố này lại gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc, làm nên cái đặc sắc, cái độc đáo, cái cá tính sáng tạo của thơ Hồ Xuân Hương. 2.2.2.2. Tiếng chửi và tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương a. Tiếng chửi trong thơ Hồ Xuân Hương Đã thế nàng lại sinh ra vào cái thời xã hội rối loạn, nhố nhăng cuối đời Lê. Con người Hồ Xuân Hương bị ném vào cái xã hội đó và rồi ta thấy đời nàng đã phải giãy giụa trong truỵ lạc lụt ngập của xã hội. Người ta nói: tất cả các yếu đuối của xã hội đương thời đã kết tinh lại ở nàng, nhào nặn với cá tính nàng mà làm nên một thi sĩ độc đáo. Xã hội Việt Nam thời ấy không hề chờ đợi có một người như Hồ Xuân Hương đến, nhưng nàng đã đến trong cái xã hội ấy ngay giữa lúc bọn đồ gàn ít chờ đợi nhất. Nàng đã đến với một trái tim và một đầu óc trọn vẹn nhất, với tất cả mọi giác quan còn tinh khôi, và đặc biệt là với đôi mắt tinh đời ấy, ta cứ tưởng tượng như chỉ cần một cái nhìn nàng đã thấy được tận gan ruột. Nữ sĩ đã vạch rõ cái chân tướng của cả những kẻ hiền nhân quân tử, những bậc trượng phu, anh hùng và đã đặt họ lại những chỗ ngồi đúng với giá trị thực của họ giữa lúc cả bọn đang múa máy quay cuồng, tâng bốc bợ đỡ nhau. Chứng kiến và nếm trải những bất công của xã hội thối nát như vậy, Hồ Xuân Hương đã bật ra những tiếng chửi. Hồ Xuân Hương là người có biệt tài sử dụng tiếng chửi trong thơ. Trong thơ bà có đến 4 lần bà thốt lên tiếng chửi. Hồ Xuân Hương với bản tính nghệ sĩ, giao tiếp rộng, không tránh được những va chạm trong xã hội phong kiến: “Đau đớn thay phận đàn bà Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu” Xuân Hương bị gia đình chồng đè nén vì thân phận làm làm. Nên bà chán ngán cảnh chồng chung bỏ nhà ra đi, thân phận Xuân Hương cũng như hoàn cảnh của kiếp đàn bà làm lẽ mọn: “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng, Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,” Cảnh chùa Quán Sứ thời loạn làm cho Xuân Hương nghi ngờ người đã xuất gia, tu lâu năm lên làm “Sư Cụ” như “phiến đá vĩ đại “ bao che đệ tử gây nên nghiệp chướng, không lo làm tròn phận sự tụng kinh gõ mõ, bỏ cảnh chùa vắng teo. Thời Hồ Xuân Hương, cuối đời Lê Trịnh, Phật giáo trước đã suy, nay lại càng suy đốn, số sư ngày càng đông ăn hại của dân, làm điều bậy bạ. Xuân Hương đay nghiến họ: “Quán sứ sao mà cảnh vắng teo Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao Chày kình, tiểu để suông không đấm Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo Sáng banh không kẻ khua tang mít Trưa trật nào ai móc kẽ rêu Cha kiếp đường tu sao lắt léo Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo” (Chùa Quan Sứ) Bọn quan thị Thị vào chầu thị đứng xem, thị thấy thèm thị không có ấy chỉ vì “không có ấy” mà được làm quan, lại nhiều lúc làm quan to. Hồ Xuân Hương vặt trụi họ ra: “Mười hai bà mụ ghét chi nhau Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu Rúc rích thây cha con chuột nhắt, Vo ve mặc mẹ cái ong bầu Đố ai biết đó vông hay trốc Còn kẻ nào hay cuống vàu đầu Thôi thế thì thôi, thôi mặc thế. Nghìn năm còn khỏi tiếng nương dâu.” (Quan thị) Như vậy, so với các nhà thơ khác thì thơ Hồ Xuân Hương có nhiều tiếng chửi hơn các nhà thơ khác. Nguyễn Du thì có 1 lần chửi: “Chém cha cái kiếp hoa đào”. Nguyễn Công Trứ thì cũng có 1 lần chửi: “Đéo mẹ nhân tình”. Tú Xương cũng thốt lên 1 lần chửi: “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”. Và tiếng chửi trong thơ Hồ Xuân Hương có nguyên do chính đáng cũng như có đối tượng cụ thể với những hàm ý khác nhau. b. Tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương Bên cạnh tiếng chửi thì tiếng cười cũng đi vào thơ Hồ Xuân Hương hết sức đặc sắc. Tiếng cười trong văn học dân gian khác với tiếng cười của nền văn học chính tống. Do quan niệm thế giới luôn đổi mới, luôn luôn tái sinh...Tiếng cười dân gian vừa phủ định vừa khẳng định, vừa huỷ diệt vừa tái sinh, vừa phê phán vừa tái tạo…Khi Nguyễn Du viết: “Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình” Hay Tú Xương viết: “Thật là vừa dốt lại vừa ngu” thì đó là những tiếng cười đả kích, “một nhát chết tươi”, không cho gượng gạo. Hồ Xuân Hương thì không. Khi bà viết: “Quân tử dùng dằn đi chẳng dứt Đi thì cũng dở, ở không xong” Hay: “Hiền nhân quân tử ai mà chẳng Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo” Hay: “Chúa giấu vua yêu một cái này” là bà đã vừa bỉ mặt các đầng, các bậc ấy cũng “như ma”như ai chứ có thần thánh gì đâu: vừa dẫn dắt họ trở về con người trần thế, tái tạo họ trong thế giới của đời người. Trong bức tranh chạm khắc “Quan quân ghẹo gái” tạo trên đình làng thế kỉ XVII, quan quân nghi vệ trẩy qua làng mà ai cũng” lom lom dòm” cô gái tắm dưới ao chỉ che có mỗi chiếc lá seb ở chỗ ấy…Hay câu chuện tiếu lâm “Đẻ ra sư”…Đó là vừa “huỷ diệt” vừa tái sinh” và cũng là phép “kéo xuống”, kéo từ Niết bàn xuống trần gian, kéo từ thượng tầng xuống hạ tầng phồn thực. Hồ Zxua6n Hương đã sử dụng thao tác đó trong nhiều bài thơ của mình. Bà đã kéo tất cả xuống, “hoàn tục” cho họ, cho họ “làm người” trở lại. Cái cười “hai chức năng” ấy, cái thao tác nghệ thuật ấy đã biến cải hẳn thể loại Đường luậtt nghiêm trang, đăng đối và đã làm nảy sinh một thế giới thơ mới, một mĩ học mới. 2.2.2.3. Đại từ nhân xưng, từ cảm thán trong thơ Hồ Xuân Hương Bà chúa thơ Nôm cũng rất giỏi sử dụng các đại từ nhân xưng, các từ để hỏi, các từ cảm thán. Riêng về cách dùng đại từ nhân xưng trong thơ của Hồ Xuân Hương cho ta thấy hình ảnh một Hồ Xuân Hương “nổi loạn”: “Khéo léo đi đâu lũ ngẩn ngơ ? Lại đây cho chị dạy làm thơ Ong non ngứa nọc châm hoa rữa, Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.” các từ cảm thán cũng được nữ sĩ sử dụng khá nhiều trong sáng tác của mình, mang lại những giá trị biểu cảm độc đáo: “nhé”, “nhỉ”, “thi thôi”, “thế thôi”… “Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì ?” “Dao cầu, thiếp biết trao ai nhỉ ?” (Bà Lang khóc chồng) “Thân này ví biết đường này nhỉ, Thà trước thôi đành ở vậy xong.” (Lấy chồng chung) “Thôi thế thì thôi, thôi cng được,” (Quan thị) Có cả khẩu ngữ , ví dụ như: sáng banh, trưa trật.. " Không có nhưng mà có mới ngoan" “ Không chồng mới chửa ấy mới ngoan Có chồng mà chửa thế gian sự thường” Hoặc : “ Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm Cầm bằng làm mướ , mướn không công” Hoặc: “Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ, Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha...” Những từ thuộc phong cách khẩu ngữ nhưng khi vào thơ Hồ Xuân Hương đã trở thành phong cách Hồ Xuân Hương. Với tài năng dùng chữ của mình Bà đã sáng tạo nên những dòng thơ, bài thơ rất dân dã, rất Việt Nam. Ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương bình dị như chính cuộc sống đời thường vậy. Ngôn ngữ trong thơ bà phần lớn dùng ngôn ngữ bình dân, rất hạn chế sử dụng từ ngữ Hán Việt. Sở dĩ như vậy bởi vì bản thân Hồ Xuân Hương chất chứa những tố chất thuần Việt của con người Việt Nam chất phác, mộc mạc; không khoa trương, không xa lạ với thứ ngôn ngữ của quần chúng nhân dân đa nghĩa, điêu luyện. Thật là tài tình, dân gian mà cổ điển, điêu luyện mà rất đỗi hồn nhiên. Thực thực, hư hư, đùa mà như thật, thật mà như đùa...Tất cả đã kiến tạo nên một hồn thơ Hồ Xuân Hương mang đậm phong vị quê hương, mang nhiều âm hưởng của ngôn ngữ dân gian truyền thống. 2.2.3. Tính đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ của Hồ Xuân Hương 2.2.3.1 Sự lệch chuẩn tạo nên tính đa nghĩa trong thơ Hồ Xuân Hương Ngôn ngữ nghệ thuật là chất liệu tạo nên tác phẩm văn chương. Bất kỳ nhà văn vĩ đại của dân tộc nào cũng sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình để sáng tác. Nhưng vấn đề là ngôn ngữ đó khi tạo nên ngôn ngữ nghệ thuật của một tác phẩm văn học nó không còn cái nguyên xi của ngôn ngữ đời thường, của thực tế cuộc sống. Ngôn ngữ đó chính là sản phẩm của trí tưởng tượng, của sự trải nghiệm và là tài năng của nhà văn. Cho nên ngôn ngữ nghệ thuật bao giờ cũng có tính đa nghĩa và có độ chênh lệch giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt tạo lập nên những tín hiệu ngôn ngữ mang ý nghĩa hình tượng. Người ta còn gọi là tính "mơ hồ "của ngôn ngữ, hay tính "lạ hóa" của ngôn ngữ. Nhà văn tài hoa là nhà văn tạo nên nhiều tầng ý nghĩa trong ngôn ngữ của mình Hiểu theo cách trên, rõ ràng sự "Lệch chuẩn " ngôn ngữ chỉ có được ở những nhà văn lớn, những nhà văn có phong cách. Chúng ta nên hiểu sự lệch chuẩn đó là sự sáng tạo ngôn ngữ chứ không phải là chống lại sự chuẩn mực chung của ngôn ngữ dân tộc. Trái lại sự lệch chuẩn ngôn ngữ góp phần làm phát triển ngôn ngữ tạo ra những chuẩn mới của ngôn ngữ, là sự mở rộng chuẩn mực ngôn ngữ. Bởi vì sự sáng tạo chân chính trong lời nói nhà văn xét đến cùng đều bắt nguồn từ khả năng tiềm tàng của ngôn ngữ, từ những qui luật sâu xa của hệ thống ngôn ngữ chung. Vậy chuẩn mực ngôn ngữ là gì? Là toàn bộ các phương tiện qui tắc thống nhất và ổn định về cách sử dụng ngôn ngữ, được qui định và phát triển trong xã hội ì một hiện tượng ngôn ngữ mang tính truyền thống được xã hội chấp nhận và sử dụng. Vì là truyền thống nên có tính chất bắt buộc. Và ngược lại sự lệch chuẩn lại là việc sử dụng ngôn ngữ có tính sáng tạo của cá nhân gắn liền với cách nhìn, quan điểm của người nói nhưng được xã hội chấp nhận. Những phương diện thường được các nhà văn sử dụng để tạo nên sự lệch chuẩn bao gồm: Các qui tắc tu từ về ngữ âm, từ vựng ngữ nghĩa, cú pháp và phương pháp diễn đạt và bố cục tác phẩm. Cái độc đáo trong thơ Hồ Xuân Hương chính là vi phạm một số qui tắc của ngôn ngữ tự nhiên, tạo nên một sự "Lệch chuẩn " khác lạ với ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn được xã hội chấp nhận tạo cho thơ Xuân Hương mang tính đa nghĩa, có nội dung khá phong phú , sinh động và hấp đẫn làm nên sức sống lâu bền với thời gian. Qua cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo của Xuân Hương, ta có thể nói đến một sự "nổi lọan " của thơ Nôm Xuân Hương. Sự nổi loạn trước hết là sự vi phạm qui tắc thông thường của thơ, những từ, những vần lắt léo tạo nên sự lệch chuẩn ngôn ngữ để tạo nên những nghĩa mới của Xuân Hương. Chính sự phá cách này đã tạo bứơc dừng, gây sự bỡ ngỡ, gây hứng thú bạn đọc tìm đến nghĩa hàm ẩn trong thơ của Xuân Hương. Mặt khác trong thơ của Bà còn sử dụng nhiều thủ pháp độc đáo khác trong cách dùng ngôn ngữ. 2.2.3.2. Cách nói lấp lửng, nói lái, chơi chữ và sử dụng từ láy tạo nên tính đa nghĩa trong thơ Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương có biệt tài sử dụng ngôn ngữ lấp lửng, cách nói lái, nói kiểu chơi chữ, sử dụng nhiều từ láy để tạo nên tính chất đa nghĩa. a. Cách nói lấp lửng. Hồ Xuân Hương sử dụng lối nói ỡm ờ, lấp lửng: “Hiền nhân quân tửai mà chẳng” “Chúa dấu vua yêu một cái này” “Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa” “Đá kia còn biết xuân già dặn” “Chảtrách người ta lúc trẻ trung” Nói úp mở: “Vịgìmột chút tẻo tèo teo” “Càng nóng bao nhiêu thời càng mát” “Thịt da đâu cũng thếmà thôi” “Của em bưng bít vẫn bùi ngùi” “Chiếnđứng không thôi lại chiến ngồi...” b. Sử dụng hình thức chơi chữ và nói lái Chơi chữ cũng là một trong những biện pháp tu từ quen thuộc được sử dụng trong nghệ thuật văn chương. Chơi chữ là một biện pháp nghệ thuật trữ tình đặc sắc. Hồ Xuân Hương đã sử dụng lối chơi chữ để biểu hiện các sự vật sự việc mà bà đang đề cập đến. Hai thủ pháp cơ bản trong cách chơi chữ của Hồ Xuân Hương là lối nói lái và chiết tự Hán. Hai thủ pháp này đã góp phần tạo nên dấu ấn đặc sắc trong việc thể hiện nội dung, chủ đề tư tưởng Hồ Xuân Hương. Trong hai câu thơ sau, tác giả đã dùng chữ “chửa” và chữ “mang” ở cuối câu đều là những chữ có thể hiểu hai nghĩa: “Cái nghĩa trăm năm chàng cóchửa? Mảnh tình một khối thiếp xinmang”. Từ “chửa” vừa có nghĩa “chưa”, vừa mang nghĩa “có thai”, vừa “mang” vừa có nghĩa “có bầu, mang thai”, vừa có nghĩa “xin chịu, chấp nhận, gánh vác”. Dùng từ Hán Việt: Ngọt bùi thiếp nhớmùi cam thảo Cay đắng chàng ơi vịquế chi Thạch nhũ,trần bìsao để lại. (Bà lang khóc chồng) “Cam thảo, quế chi, thạch nhũ, trần bì” là những từ chỉ vị thuốc nhằm tạo ra tính hai nghĩa cho câu thơ. Một mặt giúp người đọc tiếp nhận theo đúng nghĩa đen, mặt khác lại khiến cho người đọc liên tưởng đến tầng nghĩa sâu xa hơn. Phải chăng đó chính là những "sản phẩm" đáng được trân trọng mà trời đã ban cho các chị em phụ nữ chúng ta? Trong bài thơ "Khóc tổng cóc", nghệ thuật chơi chữ ở đây là sử dụng một lớp từ đồng nghĩa hay đúng hơn là trong một trường nghĩa chỉ các con vật lưỡng cư: cóc, chàng (chẫu, chàng), bén (nhái), nòng nọc, chuộc (chuộc chuộc), thể hiện độc đáo và cảm động nỗi đau khổ, tuyệt vọng của người vợ trước tang chồng. Thủ pháp thứ hai được tác giả hay sử dụng là lối nói lái, rõ ràng là có liên hệ trực tiếp với hàng loạt những hiện tượng ngôn ngữ trong sinh hoạt cộng đồng người việt: “Cái kiếp tu hành nặngđá đeo” “ Trái giócho nên phảilộn lèo” “ Hỏi thăm sưcụđáo nơi neo” “Chày kình tiểuđểsuông không đấm” “Bángọcon ongbé cái lầm” “Đét dồnlên đánh cuộc cờ người..” Hồ Xuân Hương sử dụng lối chơi chữ, lối nói lái một cách rộng rãi. Nhưng lối chơi chữ, nói lái của Hồ Xuân Hương không phải như của bọn nho sĩ phong kiến, chơi chữ là chơi chữ nho nhằm để khoe chữ, phô trương tri thức sách vở. Còn Xuân Hương chơi chữ hoặc để trào lộng, hoặc mỉa mai châm biếm làm cho câu thơ trở nên "duyên dáng" vô cùng. Xuân Hương là nhà thi sĩ độc nhất dùng những lời nói rất đỗi đời thường, nôm na, giản dị vào trong thơ và lại rất khéo rất táo bạo. Xuân Hương cũng là nhà thi sĩ độc nhất có ngòi bút tả thực rất độc đáo và sắc sảo thật đúng là một ngòi bút trào lộng bậc thầy của văn học Việt Nam trung đại. c. Từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương Từ láy là từ loại được sử dụng rộng rãi trong dân gian nói chung và trong thơ Hồ Xuân Hương nói riêng. Theo thống kê của Lã Nhân Thìn trong tổng số 268 câu thơ có 79 từ láy (chiếm 29,4%). Từ láy trong thơ có nhiều tác dụng, nó có chức năng hạn chế tính công thức ước lệ, làm cho câu thơ trở nên biểu cảm hơn, đậm tính dân tộc hơn và góp phần thể hiện phong cách tác giả. Thơ Hồ Xuân Hương là thơ của sức sống của chân đạp, tay vung, thơ của nhịp điệu cơ thể và cuộc sống con người, thơ của tâm trạng. Từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương thường có tác dụng biểu lộ tình cảm, thể hiện con người tác giả. Từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương rất phong phú: từ láy phụ âm đầu: “Da nóxù xì, múi nó dày”, “Xin đừngmân mónhựa ra tay”, “Nâng niuướm hỏi người trong trướng”, “Dắt díunhau lên đến cửa chiền”, “Đêm ngàylăn lócđám cỏ hôi”, “Phì phạchtrong lòng đã sướng chưa?” từ láy phần vần: “Sóng dồn mặt nước vỗlong bong”, “ Ai vềnhắn bảo phườnglòi tói”, “Con thuyền vôtrạo cúilom khom”, “Lách khe nước rỉ mólam nham”, “Kẽhầm rêu mốc trơtoen hoẻn”...; Vần trong từ láy trong thơ của Hồ Xuân Hương cũng được dùng rất độc đáo. Chẳng hạn khuôn vần "un" "um" dùng để cấu tạo một số từ mang nghĩa tập hợp nhiều sự vật, nhiều biểu hiện ở cả dáng vẻ và hành vi : Tùm hum, lún phún, um tùm, khúm núm. "Cửa son đỏ loét tùm hum nóc, hòn đá xanh rì lún phún rêu" (Đèo Ba Dội). Câu thơ thể hiện rõ gam màu "đỏ tùm hum", với hàng loạt những rêu xanh đang mọc "lún phún" trên đỉnh đèo. Bên cạnh lớp nghĩa đen là miêu tả cảnh vật hoang sơ, thanh tịnh, cảnh núi non hiểm trở của đèo của hang. Nhà thơ còn ngầm sử dụng một lớp nghĩa bóng đó là những hình ảnh biểu hiện tính phồn thực. Hình ảnh đèo, hang, giếng nước...đó chính là những bộ phận trên cơ thể người phụ nữ, một sự kết hợp âm dương hài hòa, mang đậm giá trị nhân văn nhân bản. Khuôn vần "eo" dùng để cấu tạo một số từ láy miêu tả tâm trạng buồn rầu, nhỏ bé, hiu quạnh, hàm ý chỉ sự khó khăn cách trở: Cheo leo, hắt heo, khéo khéo, leo teo, leo léo, tẻo tèo teo, lộn lèo, lắt lẻo...Trong bài thơ "Quán nước bên đường" Khuôn vần "eo" đã được bà sử dụng đến bốn lần :"hắt heo, leo teo, cheo leo, lộn lèo". Bài thơ là một loạt những cảnh tượng thật buồn, vắng lặng, heo hắt, con đường làng thì quanh co, nhà cửa thì tiêu điều, xơ xác, con người thì "leo teo", thưa thớt ...Tất cả hiện lên là một bức tranh thôn quê thật nghèo nàn, xác xơ. Chỉ bằng một khuôn vần "eo" với sự thông minh, khéo léo Hồ Xuân Hương đã tạo nên một loạt từ láy mang nhiều cung bậc của cảm xúc đem lại giá trị biểu đạt cao, nhằm đưa đến cho người đọc có một cảm giác man mác buồn, cô đơn, vắng lặng. Bên cạnh đó khuôn vần "om" cũng đã được Hồ Xuân Hương sử dụng khá nhiều trong các sáng tác của mình. Nếu như khuôn vần "eo", biểu hiện cảm giác buồn thì khuôn vần "om" lại biểu thị một ý nghĩa khác, nó thể hiện sự dở dang "Sau giận vì duyên để mõm mòm" (Ngẫu cảm), không vững vàng, yếu ớt "Đứng lom khom" (Trăng thu). Ở đây ta thấy nghĩa của từ láy biểu thị ở một mức độ mạnh hơn so với hình vị gốc : “Hỏm hòm hom, lõm bõm, om om, mõm mòm, phập phòm”...Điều đó cho thấy mức độ ngữ nghĩa cứ tăng dần lên, biểu thị sự gấp gáp, cuống quýt, dồn nén, một cảm giác như muốn nổ tung ra, bung ra, phơi bày ra tất cả để người đọc có thể hình dung một cách bao quát nhất. Phải chăng đó là con người Hồ Xuân Hương, một người không bao giờ tự bó hẹp mình trong một khuôn khổ, phạm vi nào cả mà lúc nào bà cũng tự đặt mình ngang hàng với các đấng mày râu để nói lên tiếng nói phê phán đả kích, châm biến xã hội bảo vệ quyền sống, quyền bình đẳng cho những người phụ nữ vốn chịu nhiều thiệt thòi, khổ đau. Đó mới chính là bản ngã Hồ Xuân Hương. Từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương còn có từ láy phần vần và phụ âm đầu: “Quảcaunho nhỏmiếng trầu hôi!”, “Thương chồng nên mới khóctỉ ti”, “Tiếng gàvăng vẳnggáy trên bom” Từ láy hoàn toàn, chủ yếu là láy từ: “ Bàyđặt kìa aikhéo khéophòm”, “Con đường vôngạn tốiom om”, “Lâng lângchẳng bợn chút lòng ai”…; Từ láy ba âm tiết trở lên: “tẻo tèo teo”, “hỏm hòm hom”…Về phương diện biểu hiện, từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương gồm: từ láy tạo thanh: “Phì phạch”, “ thánh thót”, “long bong”, “lõm bõm”…; từ láy chỉ màu sắc: “phau phau” (trắng phau phau ), “om om” (tối om om)…; từ láy chỉ hình dáng: “xù xì”,“khom khom”, “ngửa ngửa”, “nho nhỏ”…; từ láy thể hiện trạng thái, tính chất: “ Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”, “lều mái cỏ tranh xơ xác”…; từ láy thể hiện hành động: “Dắt díu”, “Nâng niu”, Của em bưng bít vẫn bùi ngùi”, “Lợp “mân mó”.. Từ láy là thứ ngôn ngữ được sử dụng khá phổ biến trong thơ ca dân tộc, hơn nữa từ láy bản thân nó còn mang lại giá trị biểu đạt rất cao. Nghĩa của từ láy khá phong phú, lấp lửng rất phù hợp với lối thơ nghịch ngợm, bông đùa. Điều đó đã góp phần làm cho câu thơ mang nhiều tầng nghĩa: Biểu lộ tình cảm, khắc họa hình tượng, đường nét, hình ảnh một cách rõ nét và phong phú hơn. Nó làm cho người đọc vừa dễ thuộc, dễ hiểu, dễ nhớ. Điều đó phần nào đã tạo nên một phong cách thơ Hồ Xuân Hương khó trộn lẫn với bất cứ nhà thơ đương thời nào. Chính cách dùng ngôn ngữ lấp lửng, lối chơi chữ, nói lái và sử dụng nhiều từ láy đã tạo nên tính đa nghĩa trong thơ bà. Người ta thường nói yếu tố tục trong thơ Hồ Xuân Hương. Nhưng về mặt ngôn ngữ, Hồ Xuân Hương chưa bao giờ tục. “cái miêu tả” và “cái ẩn dụ” trong ngôn ngữ nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương không phải hòa quyện vào nhau, tan biến vào nhau như nhiều ngôn ngữ khác. Chúng ngăn bởi một “tấm rèm”. Tấm rèm này nữa như phô bày nữa như che đậy, tạo nên sự hấp dẫn thường xuyên của thơ bà. Người đọc biết rõ cái gì sau “tấm rèm” nhưng vẫn hết sức ngạc nhiên bởi còn biết bao bí mật bất ngờ, kí lạ. Đố thanh giảng tục, tất cả trong thơ Hồ Xuân Hương qua ngôn ngữ lưỡng ý đều có một thế nước đôi, tạo nên một Hồ Xuân Hương rất riêng. Kết luận Hồ Xuân Hương đã có những đóng góp đáng kể trong việc vận dụng ngôn ngữ dân tộc vào mục đích đả kích, trào phúng. Sáng tác của Hồ Xuân Hương số lượng không nhiều, nhưng chắc chắn, nếu Hồ Xuân Hương không phải là một bậc thầy về ngôn ngữ dân tộc thì nhà thơ không thể nào viết phóng khoáng, tự nhiên, hóm hỉnh một cách đặc sắc như thế. Ngôn ngữ dân tộc dưới ngồi bút của Hồ Xuân Hương vừa súc tích, chính xác lại vừa uyển chuyển, linh hoạt, phong phú về nghĩa, đặc sắc về tạo hình, dồi dào về âm thanh, góp phần quan trọng bải biến thể thơ Đường luật vốn của Trung Quốc, không thoát thai từ ca dao như lục bát, đó là một thể loại khó làm, dễ đứng động thành ra công thức hoặc có đạt đến mức hay cũng thường mang dáng điệu nho sĩ, cao sang thành một thể thơ mang đậm phong vị Việt, nôm na, bình dân, tự nhiên với một thế giới đời thường thắm tươi, một thiên nhiên đầy sức sốngmột triết lí tự nhiên của cuộc đời trần thế, của sự say mê một cái đẹp góc cạnh, của sự vận động hối hả.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan