Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ nôm bác học...

Tài liệu Ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ nôm bác học

.PDF
252
306
71

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÊ THỊ HỒNG MINH NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN TP. HỒ CHÍ MINH – 2002 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án: LÊ THỊ HỒNG MINH 3 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. Nguyễn Lộc và PGS.TSKH. Bùi Mạnh Nhị đã hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này. Xin cảm ơn quý thầy cô giáo, các cấp lãnh đạo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và các sinh viên đã hỗ trợ, động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành luận án. Tác giả luận án: LÊ THỊ HỒNG MINH 4 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 3 LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 4 MỤC LỤC .................................................................................................................... 5 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................ 8 PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 9 1.MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI.............................................................................9 2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ......................................................................................................... 11 3.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ...............................................................14 4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................................................16 5.NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN ...............................................................17 6.CẤU TRÚC LUẬN ÁN ..................................................................................................17 CHƯƠNG 1: XÁC ĐỊNH NGÔN NGỮ ĐỐI THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI CỦA NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC ...................................... 17 1.1.KHÁI NIỆM ĐỐI THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI ............................................................18 1.2.VẤN ĐỀ CHỌN VĂN BẢN ........................................................................................24 1.2.1.Vấn đề chọn văn bản đối với Truyện Kiều ...........................................................24 1.2.2.Vấn đề chọn văn bản ở các tác phẩm khác ...........................................................29 1.3.XÁC ĐỊNH NGÔN NGỮ ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI CỦA NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC .....................................................................................34 1.3.1. HIỆU ĐÍNH MỘT SỐ CÂU ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI TRÊN CƠ SỞ CÁC VĂN BẢN ĐÃ CÓ ........................................................................................................39 1.3.1.1.Xác định lại: đối thoại hay độc thoại? ..........................................................39 1.3.1.2.Điều chỉnh lại lời đối thoại, độc thoại ..........................................................40 1.3.2.XÁC ĐỊNH BỔ SUNG NHỮNG CÂU ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI MỚI .........46 TIỂU KẾT .........................................................................................................................49 5 CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC................................................................................................................... 50 2.1.TÍNH TRANG NHÃ, UYÊN BÁC TRONG NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC ......................................................................................................50 2.1.1.NGÔN NGỮ ƯỚC LỆ, TƯỢNG TRƯNG TẠO NÊN TÍNH TRANG NHÃ, UYÊN BÁC LÀ MỘT ĐẶC ĐIỂM CỦA THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI ........50 2.1.2.NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA NGÔN NGỮ ƯỚC LỆ, TƯỢNG TRƯNG TRONG NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC .....................................54 2.1.3.CÁCH THỨC TẠO NGÔN NGỮ ƯỚC LỆ, TƯỢNG TRƯNG CHO NHÂN VẬT CỦA TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC ..............................................................66 2.2.TÍNH BÌNH DÂN CỦA NGÔN NGỮ SINH HOẠT ĐỜI THƯỜNG, NGÔN NGỮ DÂN GIAN TRONG NGÔN NGỮ NHÂN VẬT .............................................................70 2.2.1.NGÔN NGỮ SINH HOẠT ĐỜI THƯỜNG ........................................................72 2.2.2.NGÔN NGỮ VĂN HỌC DÂN GIAN .................................................................83 2.2.2.1.Sự có mặt của thành ngữ, tục ngữ trong lời nói: ..........................................83 2.2.2.2.Ca dao dân ca trong ngôn ngữ nhân vật.......................................................93 TIỂU KẾT .......................................................................................................................100 CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC ............................................................................................ 102 3.1.VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰ VÀ KỊCH ..........................................................................................................................................102 3.2.VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC .................................................................................................................................106 3.2.1.CÁC HÌNH THỨC NGÔN NGỮ NHÂN VẬT .................................................108 3.2.2.VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC ............................................................................................................................. 112 3.2.3.MỘT SỐ TÍNH CÁCH ĐẶC SẮC THỂ HIỆN RÕ VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM ............................................................................125 6 3.2.3.1.Nhược Hà: ...................................................................................................125 3.2.3.2.Thể Vân: ......................................................................................................131 3.2.3.3.Thúy Kiều: ...................................................................................................138 3.2.3.4.Hoạn Thư: ...................................................................................................153 3.2.3.5.Thúc Sinh: ...................................................................................................164 3.3.MỘT SỐ ĐIỂM HẠN CHẾ: ....................................................................................170 TIỂU KẾT: ......................................................................................................................171 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 173 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ...................................................... 177 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 178 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 188 BẢNG 1.1a: .....................................................................................................................188 BẢNG 1.1b: .....................................................................................................................190 BẢNG 1.3: .......................................................................................................................193 BẢNG 2. la: .....................................................................................................................194 BẢNG 2.2: .......................................................................................................................198 BẢNG 3.2: .......................................................................................................................207 BẢNG 3.3: .......................................................................................................................210 BẢNG 4.1a: .....................................................................................................................212 BẢNG 4. 2: ......................................................................................................................219 BẢNG 5.1a: .....................................................................................................................225 BẢNG 5.3: .......................................................................................................................233 BẢNG 6.1b: .....................................................................................................................246 BẢNG 6.2: .......................................................................................................................247 BẢNG 6.3: .......................................................................................................................251 7 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT (Xếp theo ký tự đầu của chữ viết tắt) -BK-TTK - Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim -ĐDA - Đào Duy Anh -Gs. - Giáo sư - HT - Truyện Hoa tiên - HXH - Hoàng Xuân Hãn -HHY - Hoàng Hữu Yên - LVT - Truyện Lục vân Tiên - LT - Lửa Thiêng -NỌT - Nguyễn Quảng Tuân - NTG - Nguyễn Thạch Giang - NTTX - Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nxb. - Nhà xuất bản - NĐM - Truyện Nhị độ mai -PGs. - Phó giáo sư -Sđd - Sách đã dẫn -ST - Truyện Song Tinh -SKTT - Sơ kính tân trang -TCVH - Tạp chí văn học -TV. - Tân Việt -TSKH - Tiến sĩ khoa học -Tr. - Trang - TK. - Truyện Kiều 8 PHẦN MỞ ĐẦU 1.MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI Truyện thơ Nôm bác học là một thành tựu lớn của văn học Việt Nam, một thách thức đối với thời gian, đối với lịch sử văn học nước Việt. Với những kiệt tác như Truyện Kiều, Sơ kính tân trang, Truyện Hoa tiên... truyện thơ Nôm bác học thế kỷ XVIII _ XIX đã góp phần đưa giai đoạn văn học này lên vị trí đỉnh cao của văn học dân tộc. Suốt ba thế kỷ qua, đặc biệt kể từ khi Truyện Kiều ra đời, truyện thơ Nôm bác học thu hút hàng trăm ý kiến của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình văn học lớn, nhỏ trong nước và cả ngoài nước. Các ý kiến ấy có thể trái ngược hoặc bổ sung cho nhau khi đánh giá về nhân vật này hay nhân vật kia, nhưng cùng đi đến một sự thống nhất chung: truyện thơ Nôm bác học là sản phẩm tài hoa của các nhà thơ Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX. Nhiều công trình đã nghiên cứu hết sức công phu về các mặt tư tưởng, nghệ thuật, ngôn ngữ... của các tác phẩm truyện thơ Nôm giai đoạn này và đạt được những thành tựu xuất sắc, góp cho sự đánh giá truyện thơ Nôm bác học thêm chính xác, giúp giá trị các truyện thơ Nôm giai đoạn này thêm tỏa rộng, lan xa. Truyện thơ Nôm bác học đặc sắc trên nhiều phương diện, trong đó phải kể đến thành tựu rực rỡ của ngôn ngữ nhân vật, đặc biệt là ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều. Ngôn ngữ nhân vật là yếu tố có tính chất quyết định đối với kịch và có vai trò đặc biệt quan trọng đối với truyện, nhất là thể loại tiểu thuyết. Những thiên tài, những nhà văn lớn khi xây dựtig hình tượng nhân vật, đều hết sức chú ý phương diện này. M.Bakhtin đã chứng minh: qua ngôn ngữ nhân vật và chủ yếu bằng ngôn ngữ nhân vật, Đôxtôjêvxki đã sáng tạo ra tiểu thuyết phức điệu, tạo nến sự cách tân vĩ đại cho văn học Nga và cho tiểu thuyết hiện đại thế giới. Thế nhưng, ở nước ta, ngôn ngữ nhân vật chưa được cả người sáng tác lẫn người nghiên cứu quan tâm đúng mức. Trong văn học Việt Nam, các tác giả thực sự xây dựng được ngôn ngữ nhân vật không nhiều. Theo Phan Ngọc thì cho đến cuối thế kỷ XX, mới chỉ có ba tác giả làm được việc này: Nguyễn Du, Vũ Trọng Phụng và Nam Cao [98, tr.131]. Công trình nghiên cứu về ngôn ngữ nhân vật lại càng ít ỏi, mặc dù ngôn ngữ nhân vật chiếm một phần không nhỏ trong tác phẩm. Các truyện thơ Nôm bác học tiêu biểu đều có tỉ lệ ngôn ngữ nhân vật từ 1/3 đến 1/2 dung lượng số câu thơ. Có thể thấy rõ điều này qua: 9 Tỉ lệ ngôn ngữ nhân vật như vậy là rất lớn. Hơn nữa, ngôn ngữ nhân vật là một yếu tố quan trọng để khu biệt thể truyện thơ với ngâm khúc, là một thành phần thi pháp, một phong cách nghệ thuật có thể góp phần khu biệt truyện thơ nôm bác học với truyện thơ Nôm bình dân, có vai trò không nhỏ trong việc phát triển tình tiết câu chuyện, xây dựng tính cách nhân vật và thể hiện chủ đề của tác phẩm. Thế nhưng, có rất ít bài nghiên cứu về ngôn ngữ nhân vật. Có thể đơn cử về tác phẩm của Nguyễn Du: cả một khối lượng đồ sộ hàng trăm đầu sách và hàng mấy trăm bài viết về Truyện Kiều, trong đó, có nhiều công trình, bài viết lấy dẫn chứng, ví dụ từ ngôn ngữ nhân vật để làm rõ những luận điểm văn học: tính cách nhân vật, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, vấn đề điển hình hoá v.v..., nhưng hầu hết các bài viết ấy chỉ dùng ngôn ngữ nhân vật như một phương tiện phục vụ cho một hướng nghiên cứu nào đó, chứ chưa xem nó thực sự là đối tượng nghiên cứu, mặc dù tác giả có những đoạn phân tích về ngôn ngữ nhân vật rất đặc sắc. Như vậy, theo chúng tôi, việc tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá về vai trò và những đóng góp của ngôn ngữ đối thoại và độc thoại cho sự thành công của tác phẩm là một việc cần 10 thiết, không chỉ trên bình diện lý luận, phê bình mà còn có thể giúp ích cho những người sáng tác. 2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Có lẽ bài viết Về ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Lộc đăng trên Tạp chí Văn học (tháng 11/1965) - 14 trang - là công trình đầu tiên đề cập đến hướng khai thác này. Hơn mười năm sau mới có một bài viết 13 trang tiếp nối đề tài trên, với cùng một tiêu đề: Về ngôn ngữ nhân vật "Truyện Kiều" (TCVH số 3 - 1977). Sau đó, tác giả Đặng Thanh Lê đã hoàn chỉnh bài viết thành một phần của chuyên luận Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm (1979). Về sau, trong công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều (1985), tác giả Phan Ngọc cũng đã dành một phần ương chuyên luận để nói tới đối thoại và độc thoại cửa nhân vật. Năm 1997, Đinh Thị Khang có bài "Ngôn ngữ nhân vật trong truyện Hoa Tiên" [143]. Trong bài viết của mình, tác giả Nguyễn Lộc đề cập đến hai vấn đề chủ yếu của ngôn ngữ nhân vật: đặc điểm ngôn ngữ nhân vật và chức năng biểu hiện tính cách của ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều. Về đặc điểm, Nguyễn Lộc đã chỉ ra: ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều một mặt có "yếu tố hiện thực chủ nghĩa", mặt khác, "có khá nhiều yếu tố có tính ước lệ" [88, tr.62] - một đặc điểm phổ biến của ngôn ngữ văn học thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX. Giáo sư lý giải các yếu tố hình thành tính chất ước lệ của ngôn ngữ nhân vật - một đặc điểm loại hình có tính chất loại biệt trong nghệ thuật biểu hiện của văn học phong kiến. Đó là sự cách điệu của thơ lục bát, sự cố định hóa đối tượng so sánh của thể tỷ trong ca dao, nhưng, chủ yếu vẫn là phương thức diễn đạt qua những công thức biểu hiện của ngôn ngữ văn học đương thời. Từ thực tiễn tác phẩm, Nguyễn Lộc rút ra nhận xét: nhân vật chính diện thiên về tính chất lý tưởng hóa, thuộc phạm trù cao cả, nên thường sử dụng ngôn ngữ ước lệ. Nhân vật phản diện khi ra vẻ chính diện cũng dùng nó. Đối với thành phần ngôn ngữ có tính chất hiện thực chủ nghĩa, ông chủ yếu phân tích về đặc điểm sử dụng: nó phần lớn được dùng cho nhân vật phản diện. Nhân vật chính diện lúc rơi vào những mâu thuẫn gay gắt, những biến cố phức tạp của cuộc đời, ngôn ngữ cũng tăng cường yếu tố này - khi mà những phương tiện nghệ thuật mang tính ước lệ không đủ sức dung nạp, biểu hiện. Tuy nhiên, giáo sư chưa chú trọng đi sâu vào những nhân tố làm nên tính chất hiện thực này. 11 Nói về vai trò chính của ngôn ngữ nhân vật, qua sự phân tích các đối tượng: Thuý Kiều, Tú Bà, Hoạn Thư, Thúc Sinh... Nguyễn Lộc đã chứng minh: ngôn ngữ nhân vật là một phương tiện vô cùng quan trọng để bộc lộ tính cách, góp phần cá thể hoa nhân vật, thể hiện đặc sắc hình tượng tác phẩm. Ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều vừa kế thừa và phát huy truyền thống của thể loại truyện thơ Nôm, vừa là một bước phát triển cao so với truyện Nôm đương thời. Về hạn chế, Nguyễn Lộc cho rằng: ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều còn hạn chế về phương diện cá thể hóa nhân vật; vai trò thuyết minh của tác giả khá lớn, có khi đã xâm nhập vào ngôn ngữ nhân vật. Ở công trình Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, khi đề cập đến "nghệ thuật xây dựng Truyện Kiều", Đặng Thanh Lê đã giành hai mục nhỏ để nói về ngôn ngữ đối thoại và độc thoại. Đặt ngôn ngữ đối thoại của Truyện Kiều trong cái nền ngôn ngữ đối thoại của truyện Nôm nói chung, tác giả khẳng định: nó đóng vai trò quan trọng trong "biểu hiện cảm nghĩ và quyết định hành động của nhân vật đứng trước một tình huống, một mâu thuẫn", và trong "trình bày bước phát triển của sự kiện, tình tiết" [81, tr.232]. Theo Đặng Thanh Lê, ngôn ngữ đối thoại Truyện Kiều có hai đặc điểm lớn. Sự thống nhất cao giữa nội dung tư duy cảm xúc với hình thức ngôn ngữ là đặc điểm chi phối chủ thể sử dụng ngôn ngữ (nhân vật chính diện hay phản diện) và tính chất ngôn ngữ hội thoại (ngôn ngữ quý tộc hay ngôn ngữ nhân dân, ngôn ngữ công thức ước lệ hay ngôn ngữ có màu sắc hiện thực chủ nghĩa). Đặc điểm thứ hai là tính nhân dân ương ngôn ngữ nhân vật. Tính chất này được hình thành từ ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ văn học dân gian. Nó có mặt trong lời nói của hầu hết các nhân vật Truyện Kiều. Về ngôn ngữ độc thoại miêu tả nội tâm nhân vật, Đặng Thanh Lê xem đây là một yếu tố quan trọng để xây dựng tính cách, là nguyên nhân sự phát triển hành động của nhân vật, phát triển tình tiết diễn biến cốt truyện. Nó thường được Nguyễn Du sử dụng "ở nhữĩig chặng đường có ý nghĩa bước ngoặt đối với vận mệnh nhân vật, ở những trường hợp kịch tính cao của tình huống, của sự bộc lộ tính cách" [81, tr.251]. Công trình của Đặng Thanh Lê là một bổ sung quan trọng, thú vị đối với bài báo của Nguyễn Lộc. Ở chuyên luận Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Phan Ngọc xem Truyện Kiều là một tiểu thuyết tâm lý, thể hiện qua ba yếu tố: ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ 12 nhân vật và ngôn ngữ thiên nhiên. Phan Ngọc cho rằng trước Nguyễn Du chỉ có lời nói mà chưa có ngôn ngữ nhân vật - với tính cách là một phạm trù mỹ học. Ngay cả tuồng cũng chỉ mới xây dựhg được ngôn ngữ tính cách. Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều ít dùng để làm những việc giao tiếp hàng ngày như chào hỏi, kể chuyện... Nó là ngôn ngữ tâm trạng biểu lộ thái độ của nhân vật. Nó xuất hiện như một kiểu lựa chọn, có cấu trúc nghệ thuật, lớp từ vựhg và kiểu cú pháp riêng, ngoài sự giao tiếp thực tiễn còn là phương tiện bộc lộ tính cách. Sự thể hiện quá trình diễn biến chủ quan của nội tâm nhân vật là một thành tựu xuất sắc của Truyện Kiều. Theo Phan Ngọc, Nguyễn Du đã dùng "lối phân tích tàn nhẫn" - học ở Phật giáo - để đi sâu phân tích đời sống tâm lý của họ. Kết quả là các nhân vật của ông "không nằm gọn trong bất kỳ khung đạo lý nào có sẩn" [98, tr.139], trở thành nơi tập trung mọi mâu thuẫn, khiến cho mọi ý kiến bàn cãi trái ngược nhau về họ mãi không có điểm dừng. Tuy nhiên, có chỗ, theo chúng tôi, Phan Ngọc dường như đã nhầm giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả. Chẳng hạn ông phân tích rất hay về tâm trạng nhân vật Mã Giám Sinh lúc tính toán việc "nước trước bẻ hoa", nhưng lại không xem đó là ý nghĩ của nhân vật họ Mã mà là "sự phân tích nội tâm do ngôn ngữ tác giả đảm nhiệm" [98, tr.113]. Dù có đôi điều cần lưu ý thêm như đã nêu, có thể nói, công trình của các giáo sư Nguyễn Lộc, Đặng Thanh Lê, Phan Ngọc đều có nhữlig khái quát và những phân tích, kiến giải sâu sắc đối với ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều, đặt cơ sở nền móng cho những người nghiên cứu đi sau tiếp tục khai thác về ngôn ngữ đối thoại, độc thoại. Ngoài ra, trong chuyên luận, trong bài viết của các tác giả nêu trên và của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình, nhiều nhà vãn, nhà thơ có tên tuổi khác như Hoài Thanh, Lê Trí Viễn, Xuân Diệu, v.v... có nhiều đoạn phân tích rất thành công về ngôn ngữ nhân vật để làm sáng tỏ những giá trị khác của tác phẩm. Đáng chú ý có công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Lê Đình Kỵ (1992). ở mục "Nhân vật và tính cách", Lê Đình Kỵ coi độc thoại nội tâm của Truyện Kiều không phải dùng để giải thích hay báo trước sự diễn biến của câu chuyện mà là "sự lên tiếng của tâm tình", là "tâm hồn tự soi bóng" [74, tr. 228], "làm cho sự thể hiện thấm nhuần cảm xúc", "qua đó vấn đề xã hội đặt ra trở thành sinh động và ám ảnh" [74, tr. 231]. Bên cạnh đó, giáo sư đã có những đoạn phân tích hết sức đặc sắc lời nói nhân vật khi làm rõ "con người của Truyện Kiều". 13 Đối với Truyện Kiều, một tác phẩm được nói đến nhiều, mà số bài viết về ngôn ngữ nhân vật mới chỉ có chừng ấy thì đối với các tác phẩm khác của giai đoạn này, sự nghiên cứu về ngôn ngữ nhân vật lại càng ít ỏi hơn. Chúng tôi chỉ gặp một bài của Đinh Thị Khang viết về ''Ngôn ngữ nhân vật trong truyện Hoa Tiên". Một số nhận xét về chức năng của đối thoại trong Hoa Tiên có phần trùng hợp với ý kiến của Đặng Thanh Lê đối với Truyện Kiều nên chúng tôi không nhắc lại ỏ đây. Song, Đinh Thị Khang cũng đã có những phát hiện khá thú vị: yếu tố quyết định tính chất và hình thức biểu đạt của ngôn ngữ đối thoại là nội dung đối thoại và chức năng của nhân vật đối thoại. Bên cạnh đó, Đinh Thị Khang đã chú ý tới sự phân bổ của ngôn ngữ đối thoại và chỉ ra: "ngôn ngữ đối thoại chỉ thực sự xuất hiện tập trung vào cuộc gặp gỡ và cuộc tình" của hai nhân vật chính. Tác giả bài viết cũng đã đề cập đến ngôn ngữ nhân vật đã góp phần cá thể hoa nhân vật như thế nào: Phương Châu chủ động đến với tình yêu nên dùng những từ mang sắc thái chủ động; Dao Tiên thường nói những điều hợp với đạo đức, lễ giáo... Tuy nhiên, ý kiến này theo chúng tôi là chưa thoả đáng. Không phải vì Đinh Thị Khang nhận xét không tinh mà là vì đây là đặc điểm chung của hầu hết các nhân vật chính diện trung tâm của truyện thơ Nôm bác học chứ không riêng gì của Hoa Tiên. Và thực sự là, các nhân vật Truyện Hoa Tiên hầu như ngôn ngữ không thể hiện rõ màu sắc cá tính. Vì vậy, theo chúng tôi, đây là ngôn ngữ của loại nhân vật hơn là ngôn ngữ "cá thể hoá" nhân vật. Như vậy, vấn đề ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của nhân vật trong truyện thơ Nôm bác học thế kỷ XVIII - XIX không phải là một "điểm trắng trong khoa học" mà là một vấn đề mới được xem xét một cách tản mạn, cần được tìm hiểu sâu hơn, đầy đủ và có hệ thống hơn. Thực hiện đề tài "Ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ Nôm bác học", chúng tôi cũng nhằm mục đích ấy. 3.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Một vấn đề khá hóc búa đặt ra đối với chúng tôi là: dùng tiêu chí nào để phân biệt giữa truyện thơ Nôm bác học và truyện thơ Nôm bình dân! Đã có rất nhiều ý kiến xung quanh vấn đề này [61, tr.23-49]. Có thể xem truyện thơ Nôm bác học là loại truyện thơ có cốt truyện lấy từ truyện hoặc tiểu thuyết Trung Quốc, có tên tác giả, ngôn ngữ có tính chất uyên bác, được gọt giũa, trau chuốt hơn, còn truyện thơ Nôm bình dân có cốt truyện phần lớn lấy từ truyện cổ tích, truyện dân gian Việt Nam, không có tên tác giả, ngôn ngữ mộc mạc, có tính chất kể chuyện..? Nếu dựa vào những tiêu chí đó thì sẽ lý giải như thế nào đây về 14 những truyện thơ Nôm có tính chất tự truyện như Sơ kính tân trang, Lục Vân Tiên hay về Phan Trần, Nhị độ mai - những truyện Nôm khuyết danh mà cốt truyện dựa theo truyện Tàu, văn phong vừa có chất bác học, vừa đậm chất dân dã? Cũng thật khó phân loại Quan Âm Thị Kính lấy đề tài từ tích Phật hay Bích câu kỳ ngộ lấy tích truyện dân gian với những chi tiết dã sử nhưhg nhiều câu thơ rất mực cao sang. Và chắc chắn một điều là người sáng tác ban đầu của các truyện thơ Nôm khuyết danh phải là các nhà nho, thậm chí là những nhà nho hay chữ. Không có trình độ học vấn, không thể kiến thiết nên những tòa lâu đài bằng văn chương như thế được. Như vậy, sự khoanh vùng văn chương bác học nói chung, truyện thơ Nôm bác học nói liêng, ở đây, chỉ có tính chất tương đối. Thành tựu của truyện thơ Nôm bác học chủ yếu tập trung ở giai đoạn thế kỷ XVIII XIX nên chúng tôi cũng tập trung nghiên cứu ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của các nhân vật trong những tác phẩm của giai đoạn văn học này. Do hạn chế về trình độ, thời gian và tư liệu, chúng tôi chỉ chọn một số tác phẩm tiêu biểu như: Truyện Song Tinh (ST), Truyện Kiều (TK), Sơ kính tân trang (SKTT), Truyện Hoa tiên (HT), Truyện Nhị độ mai (NĐM). Nguyễn Đình Chiểu có nhiều truyện thơ, nhưng chúng tôi chỉ chọn Truyện Lục Vân Tiên (LVT) để khảo sát vì nó chẳng những là tác phẩm truyện thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ đất Ba Tri mà còn vì nó có đề tài phù hợp với cái mạch chung của các truyện thơ Nôm giai đoạn này. Chúng tôi không phủ nhận tính chất bình dân của Lục Vân Tiên, nhưng theo chúng tôi quan niệm thì đây là một truyện thơ Nôm bác học vì nó có tên tác giả (hai tiêu chí chủ yếu lâu nay vẫn dùng để phân biệt truyện Nôm bác học với truyện Nôm bình dân là: tác giả và hình thức nghệ thuật [61, tr.43]). linh chất dân gian của tác phẩm là tính chất dân gian của một truyện thơ Nôm bác học. Dù được lưu truyền ương dân gian, được truyền tụng, hát xẩm, nói thơ... nhưng không phải vì thế mà quyền sở hữu tác giả của Nguyễn Đình Chiểu cũng như dấu ấn con người của Nguyễn Đình Chiểu bị mất đi. Ta có thể thấy dấu ấn ấy qua ngôn ngữ đầy cá tính của các nhân vật Hớn Minh, thầy pháp... Bản thân nội dung nghệ thuật thi pháp của Lục Vân Tiên cũng phản ánh được một số đặc điểm chung của thi pháp truyện thơ Nôm bác học. Và, vì tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu là tác phẩm có tính chất bản lề, khép lại một giai đoạn của truyện thơ Nôm trung đại, manh nha những yếu tố cận đại, mở đường cho tiểu thuyết hiện đại ra đồi, nên chúng tôi xem đây là tác phẩm để tham khảo thêm, chứ không coi là đối tượng khảo sát chính. Do yêu cầu của tính chính xác, khoa học trong nghiến cứu, chúng tôi thấy trước hết cần “Xác định ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của nhân vật trong truyện thơ Nôm bác 15 học”. Hơn nữa, xác định ngôn ngữ nhân vật còn góp phần giúp chúng ta tìm hiểu về phong cách, thi pháp của các nhà thơ. Vậy nên, chúng tôi có thêm một chương nói về vấn đề này. Trong các truyện thơ Nom bác học được chọn khảo sát, Truyện Kiều là tác phẩm có ngôn ngữ nhân vật thành công hơn cả, vì vậy, chúng tôi sẽ tập trung phân tích chủ yếu ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của tác phẩm này. Ngồn ngữ nhân vật có ý nghĩa đối với nhiều phương diện của tác phẩm, nhưng nổi bật nhất vẫn là vai trò quan trọng của nó trong việc xây dựng tính cách nhân vật. Do đó, khi nói về vai trò của ngôn ngữ đối thoại và độc thoại, chúng tôi chủ yếu xem xét nó ở phương diện nêu trên. Mục tiêu của chúng tôi không phải là phân tích tính cách nhân vật, mà qua một vài gương mặt của Truyện Kiều và một số truyện thơ Nôm bác học tiêu biểu, tìm hiểu ngôn ngữ nhân vật đã có đóng góp gì trong việc xây dựng tính cách, qua đó, làm rõ một số nét đặc sắc, những đóng góp của đối thoại, độc thoại trong thành tựu chung của tác phẩm. Một vài vấn đề khác, chẳng hạn: ngôn ngữ đối thoại và độc thoại tạo tình huống kịch, chúng tôi có điểm qua trong luận án, nhưng không viết thành chương mục riêng, vì đặc điểm này không phổ biến trong các tác phẩm. 4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thực hiện luận án này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành văn học và ngôn ngữ, chủ yếu là thống kê, phân tích và so sánh. Cụ thể như sau: _ Dùng phương pháp phân tích cấu trúc câu kết hợp với phân tích nội dung và phân tích một số nét tiêu biểu trong phong cách tác giả để xác định câu đối thoại, độc thoại trong các tác phẩm truyện thơ Nôm bác học tiêu biểu trên cơ sỏ tham khảo những văn bản đã có. _ Phân tích tính chất, vai trò, chức năng ngôn ngữ nhân vật dựa trên những dữ liệu thống kê ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của từng tác phẩm. _ Đối chiếu, so sánh ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của nhân vật Truyện Kiều với ngôn ngữ nhân vật của Kim Vân Kiều truyện. Đối chiếu ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của các truyện thơ Nôm bác học cùng thời để thấy được thành tựu, sự sáng tạo và những đóng góp của các tác giả trên phương diện này. 16 5.NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN Trong khả năng có hạn của mình, tác giả luận án cố gắng xác định lại đường biên một số câu đối thoại và độc thoại của nhân vật truyện thơ Nôm bác học; bổ sung thêm một số câu mới mà các nhà làm văn bản chưa xác định; định danh cho một số dạng thức đối thoại và độc thoại của tác phẩm văn học mà các nhà ngôn ngữ chưa đề cập đến. Trên cơ sở các bài nghiên cứu, phê bình của những người đi trước, chúng tôi hệ thống lại các vấn đề cơ bản của đối thoại và độc thoại như vai trò, đặc điểm của ngôn ngữ nhân vật; và phân tích tính cách nhân vật dưới góc độ ngôn ngữ đối thoại và độc thoại như một sự minh họa về những đóng góp của ngôn ngữ nhân vật trong việc làm nên thành công của các tác phẩm và của giai đoạn văn học. 6.CẤU TRÚC LUẬN ÁN PHẦN MỞ ĐẦU NỘI DUNG CHÍNH Chương 1: Xác định ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của nhân vật trong truyện thơ Nôm bác học. Chương 2: Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học. Chương 3: Vai trò của ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ Nôm bác học. KẾT LUẬN NỘI DUNG CHÍNH CHƯƠNG 1: XÁC ĐỊNH NGÔN NGỮ ĐỐI THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI CỦA NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC Lời văn của một tác phẩm văn học thường được cấu tạo bởi hai thành phần: ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả. Ngôn ngữ nhân vật tồn tại dưới hai hình thức: đối thoại và độc thoại. Với yếu cầu của đề tài: tìm hiểu về "Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện thơ Nôm bác học", việc đầu tiên chúng tôi quan tâm là: xác định trong văn bản Truyện thơ Nôm bác học, 17 đâu là ngôn ngữ độc thoại, đâu là ngôn ngữ đối thoại của nhân vật? Xác định đối tượng nghiên cứu càng chính xác thì càng có cơ sở để tìm hiểu, đánh giá đối tượng một cách đúng đắn, khoa học. Công việc này không đơn giản. Bởi Truyện thơ Nôm bác học được các nhà thơ viết ra bằng chữ Nôm. Sau đó, được các học giả sao chép, truyền tụng trước hết cũng bằng chữ Nôm. Cũng như các văn bản chữ Hán cổ, các văn bản chữ Nôm không có hệ thống dấu câu (chấm, phẩy, hai chấm, ba chấm, ngoặc đơn, ngoặc kép, v.v...) như hệ thống ký hiệu chữ viết hiện đại. Chỉ đến khi Truyện thơ Nôm bác học được phiên âm ra chữ quốc ngữ, những người làm văn bản, tùy cách hiểu, cách cảm của mình, mà sử dụng dấu câu định ra các đoạn dừng, ngắt khác nhau. Bởi vậy, cách sử dụng dấu câu để xác định phạm vi ranh giới lời độc thoại, đối thoại của nhân vật trong Truyện thơ Nôm bác học cũng thiếu sự thống nhất: dường như có bao nhiêu người nghiên cứu văn bản Truyện thơ Nôm bác học là có bấy nhiêu cách xác định ngôn ngữ nhân vật. Tuy nhiên, việc xác định lời đối thoại trong các văn bản, cơ bản vẫn là nhất trí. Sự khác biệt chỉ tập trung ở khu vực xác định ngôn ngữ độc thoại. Hầu hết văn bản các truyện thơ Nôm bác học cho đến nay đều chưa được chú ý thích đáng về vấn đề này. Đây là một vấn đề khá phức tạp: trong Truyện thơ Nôm bác học, đặc biệt là Truyện Kiều có rất nhiều đoạn sử dụng ngôn ngữ "pha" giữa lời độc thoại thể hiện ý thức của nhân vật với sự miêu tả, phân tích thế giới bên trong nhân vật của tác giả. Như vậy, việc xác định ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của nhân vật trong Truyện thơ Nôm bác học liên quan chặt chẽ tới việc dùng dấu câu và phân đoạn tác phẩm. về mặt này, các văn bản đều có nhữỉig điểm chưa hợp lý. Song, nó không thuộc phạm vi đề tài nên chúng tôi chỉ đề cập đến chỗ nào liên quan đến câu độc thoại, đối thoại mà thôi. Để xác định được chính xác ngôn ngữ nhân vật, chúng tôi dựa vào ý kiến của các nhà ngôn ngữ để đưa ra những khái niệm về đối thoại và độc thoại, làm cơ sở cho việc xem xét. 1.1.KHÁI NIỆM ĐỐI THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI Xoay quanh ngôn ngữ nhân vật có khá nhiều tên gọi và khái niệm: đối thoại, hội thoại, đàm thoại, bàng thoại, đối bạch, độc bạch, độc thoại, độc thoại nội tâm, tự thoại, lời trực tiếp, lời nội tâm... Trong hội thoại, một số nhà ngôn ngữ lại chia nhỏ hơn: song thoại, tam 18 thoại, đa thoại... Nhưng, tất cả, quy lại, có thể gói trong hai khái niệm chính: đối thoại (hay hội thoại) và độc thoại. Đối thoại và độc thoại gần đây đã trở thành "điểm nóng", trở thành vấn đề trung tâm của ngữ dụng học, tâm lý học, triết học về ngôn ngữ v.v... Từ khi ngữ dụng học được các nhà ngôn ngữ Việt Nam quan tâm, vấn đề lý thuyết hội thoại cũng dược họ lưu tâm tới nhiều hơn trước. Đáng chú ý có "Đại cương ngôn ngữ học", tập 2 (1993) của Đỗ Hữu Châu và "Ngữ dụng học" tập I (1998) của Nguyễn Đức Dân. Đỗ Hữu Châu có một chương nói về "Lý thuyết hội thoại" (chương IV). Ông xem "hội thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, thường xuyên, phổ biến của sự hành chức ngôn ngữ." [14, tr.276]. Tuy không đưa ra một định nghĩa cụ thể về đối thoại và độc thoại, nhưng khi đề cập đến "các vận động hội thoại", ông cho rằng "vận động giao tiếp thông thường bao gồm ba vận động: sự trao lời, sự trao đáp và sự tương tác" [14, tr.277]. Giáo sư xem "sự trao lời (allocutíon) là vận động người nói A nói ra và hướng lời nói của mình về phía người nhận B. Bình thường, A khác người nhận B, trừ trường hợp độc thoại (monologique). Tuy vậy, ngay cả trong trường hợp độc thoại, ở người nói cũng có sự phân đôi nhân cách: anh ta vừa là A vừa là B, và khi hoạt động theo nhân cách A hay nhân cách B, điều này diễn ra đồng thời, anh ta vẫn là hai nhân vật khác nhau, tuân theo hai loại quy tắc hoạt động khác nhau (...). Tình thế giao tiếp trao lời ngầm ẩn rằng người nhận B tất yếu phải có mặt, "đi vào trong diễn ngôn của A". Ở phần "sự trao đáp" (échange), giáo SƯ Đỗ Hữu Châu khẳng định: "diễn ngôn sẽ trở thành hội thoại khi người nghe B đáp lời", "sự đáp lời là một nhu cầu bức thiết của sự nói năng" [14, tr.278]. Ông cho rằng "có những diễn ngôn loại trừ sự đáp lời như diễn ngôn viết (nhưng không phải là hình thức thư tín) hoặc diễn ngôn miệng (tuyên án, truyền thanh, truyền hình...). Nhiùig, như đã nói, đây là sự loại trừ sự đáp lời trực tiếp, tức thời. Trong chiều sâu nhữiig diễn ngôn trên vẫn cần đến sự hồi đáp nào đó hoặc ở một, hoặc ở những người nghe. Nguyễn Đức Dân trong "Ngữ dụng học" cũng có một chương nói về hội thoại (chương III), nhưng quan niệm về đối thoại và độc thoại của ông có phần khác với Đỗ Hữu Châu. Ông cho rằng "trong giao tiếp có giao tiếp một chiều và giao tiếp hai chiều. Trong giao tiếp một chiều, chỉ có một bên nói còn bên kia tiếp nhận. Hình thức này gặp trong những mệnh lệnh quân sự, trong những diễn văn, trong lời của xướng ngôn viên truyền hình hoặc truyền 19 thanh... đó là độc thoại. Trong giao tiếp hai chiều, bên này nói bên kia nghe và phản hồi trở lại. Lúc đó, vai trò của hai bên thay đổi: bên nghe lại trở thành bên nói và bên nói lại trở thành bên nghe. Đó là hội thoại. Hoạt động giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất của con người là hội thoại." [21, tr.76]. Như vậy, cả Đỗ Hữu Châu và Nguyễn Đức Dân đều rất xem trọng vai trò của hội thoại. Tuy nhiên, cái mà Nguyễn Đức Dân gọi là "giao tiếp một chiều", ví dụ lời xướng ngôn viên truyền hình, truyền thanh..., và ông quan niệm đó là độc thoại thì Đỗ Hữu Châu lại xem đó là hội thoại "loại trừ sự đáp lời trực tiếp, tức thời" nhưng "trong chiều sâu những diễn ngôn ữên vẫn cần đến sự hồi đáp nào đó" [14, tr.278]. Những quan niệm khác nhau về đối thoại và độc thoại như trên cũng được thể hiện trong các từ điển. Một số từ điển không có định nghĩa về độc thoại, chỉ có khái niệm về đối thoại - mặc dù "độc thoại" là một từ được dùng khá phổ biến trong văn chương, nghệ thuật và cũng không xa lạ đối với đời sống hàng ngày, như "Từ điển tiếng Việt" của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội (1997) do Văn Tân chủ biên, hoặc "Từ điển tiếng Việt - tường giải và liên tưởng của Nguyễn Văn Đạm (1999). Lại có những từ điển mà khái niệm độc thoại được đưa ra rất chung chung và có thể gây nhiều tranh cãi: Độc thoại là "Nói một mình, trái với đối thoại" -như "Từ điển tiếng Việt" của Viện Ngôn ngữ học (1998) do Hoàng Phê chủ biên [161, tr.326]. Có khái niệm rõ ràng hơn là cuốn "Đại từ điển tiếng Việt" của Bộ Giáo dục và đào tạo, Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam (1999) do Nguyễn Như Ý chủ biên: Độc thoại là: Nói một mình, tự mình nói với mình mà không có người đối thoại; Độc thoại nội tâm: Lời nhân vật trong tác phẩm tự nói với mình về bản thân mình [10, tr.656]; Đối thoại: 1. Nói chuyện qua lại với nhau. 2. Bàn bạc, thương lượng giữa hai hoặc các bên có vấn đề tranh chấp [10, tr. 658]. Ngoài ra, "Từ điển Hán - Việt - Hán ngữ cổ đại và hiện đại" của Trần Văn Chánh (1999) còn có những khái niệm cụ thể hơn, xem độc bạch là nói một mình trên sân khấu [151, tr.1326], đối bạch là đối thoại giữa các vai ương tuồng, kịch và điện ảnh [151, tr.612]. Các khái niệm trên hoặc là khái quát cho ngôn ngữ hội thoại nói chung, hoặc là chuyên biệt cho một dạng của ngôn ngữ hội thoại (sân khấu, điện ảnh). 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan