TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
CHÂU VĂN ÚT
MSSV: 6095830
NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN NAM CAO
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ văn
Cán bộ hƣớng dẫn: ThS.GVC. CHIM VĂN BÉ
Cần Thơ, năm 2013
ĐỀ CƢƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ DẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG MỘT: QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ VỀ LÍ
THUYẾT HỘI THOẠI
I. QUAN NIỆM CỦA NGUYỄN ĐỨC DÂN
1. Về lí thuyết hội thoại
1.1. Khái niệm hội thoại
1.2. Cấu trúc hội thoại
1.3. Các yếu tố cấu trúc hội thoại
1.3.1. Cấu trúc lượt lời
1.3.2. Cấu trúc mở thoại
1.3.3. Cấu trúc cặp thoại
1.3.4. Sự liên kết phát ngôn
2. Về lí thuyết hành động ngôn từ
2.1. Hành vi ngôn ngữ
II. QUAN NIỆM CỦA ĐỖ HỮU CHÂU
1. Về lí thuyết hội thoại
1.1. Khái niệm hội thoại
1.2. Vận động hội thoại
1.2.1. Sự trao lời
1.2.2. Sự trao đáp
1.2.3. Sự tương tác
1.3. Nguyên tắc cộng tác hội thoại
2. Về lí thuyết hành động ngôn từ
2.1. Phát ngôn ngữ vi
2.2. Các hành vi ngôn ngữ
I. QUAN NIỆM CỦA CHIM VĂN BÉ
1. Về lí thuyết hội thoại
1.1. Khái niệm về hội thoại
1.2. Cấu trúc hội thoại
1.2.1. Mở thoại
1.2.2. Trao lời
1.2.3. Đáp lời
1.2.4. Xen lời
1.2.5. Kết thoại
1.3. Nguyên lí cộng tác hội thoại
2. Về lí thuyết hành động ngôn từ
2.1. Hành động ngôn từ
3. Độc thoại nội tâm
4. Hệ quy chiếu trong việc đánh giá ngôn từ nhân vật
CHƢƠNG HAI: NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN NAM CAO
I. SƠ LƢỢC VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP NAM CAO
II. GIỚI HẠN VĂN BẢN TRUYỆN VÀ PHƢƠNG HƢỚNG TIẾP CẬN
1. Giới hạn ngữ liệu
2. Phương hướng tiếp cận
III. BẢNG THỐNG KÊ CÁC CUỘC HỘI THOẠI, LƢỢT THOẠI,
ĐỘC THOẠI NỘI TÂM.
IV. CÁC CUỘC HỘI THOẠI, ĐỘC THOẠI ĐIỂN HÌNH
1. Ngôn ngữ đối thoại
1.1. Ngôn ngữ đối thoại thể hiện tâm lí nhân vật
1.2. Ngôn ngữ nhân vật thể hiện tính cách nhân vật
1.3. Ngôn ngữ đối thoại thể hiện phẩm chất nhân vật
2. Ngôn ngữ độc thoại
2.1 Ngôn ngữ độc thoại thể hiện tâm trạng nhân vật
2.2. Ngôn ngữ nhân vật thể hiện chiều sâu suy nghĩ nhân vật
PHẦN KẾT LUẬN
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nam Cao là một nhà văn lớn của trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn
1930 – 1945. Những câu chuyện trong tác phẩm là hiện thực xã hội lúc đương thời, nó
thật bình dị và gần gũi. Nhiều tác phẩm của Nam Cao được dệt nên từ những “cái
hằng ngày” chủ yếu liên quan đến cuộc sống riêng tư của các nhân vật, những sự việc
vặt vãnh, nhỏ nhoi, tủn mủn… Nhưng cái nhỏ nhoi đời thường ấy lại có sức mạnh ghê
gớm và đã trực tiếp tác động đến những vấn đề có tính chất nhân bản.
Có thể nói, Nam Cao là nhà văn của Chủ nghĩa hiện thực tâm lí. Cái quan trọng
hơn hết trong nhiệm vụ phản ánh chân thực cuộc sống là cái chân thực của tư tưởng,
của nội tâm nhân vật. Xét đến cùng, cái quan trọng nhất trong tác phẩm không phải là
sự kiện, biến cố mà là con người trước sự kiện và biến cố đó. Vì thế mà trong tác phẩm
của Nam Cao, chi tiết tâm lí nhân vật là cái hứng thú cho người đọc. Ở đó chúng ta
còn thấy được tâm hồn con người là những tấm bi kịch và bi hài kịch của những tư
tưởng, ý tưởng nội tại. Nam Cao lấy thế giới nội tâm nhân vật làm đối tượng chính cho
miêu tả. Như một nguyên tắc, các sự kiện, biến cố, tình tiết chỉ giữ vai trò kích thích
các nhân vật để cho các nhân vật bộc lộ những nét tâm lí, tính cách của mình. Và Nam
Cao đã hướng ngòi bút của mình vào việc khám phá con người trong con người, miêu
tả và phân tích chiều sâu tâm lí nhân vật. Nam Cao đã mở ra một khuynh hướng khám
phá mới cho phương pháp hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam. Có thể nói
rằng, cảm hứng phân tích phê phán thấm nhuần trong toàn bộ sáng tác của Nam Cao.
Nó là một đặc điểm nổi bật, trở thành “linh hồn” chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao.
Những trang văn của Nam Cao toát lên một tấm lòng của một con người đau
đời và thương đời da diết. Nam Cao rất yêu những mảnh đời đã bị diềm dưới đáy của
xã hội. Đó là những mảnh đời bị đẩy vào lối cùng đường, không đạt được gì trong
cuộc đời, không đủ khả năng phát huy những tiềm tàn ưu việt của mình.
Để nắm bắt được và chứng minh cho những điều đã nói trên thì chúng ta cần
phải khai thác ngôn ngữ của các nhân vật trong truyện. Chính vì vậy mà chúng tôi
quyết định chọn đề tài “Ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao” làm đề tài
cho luận văn tốt nghiệp.
1
2. Lịch sử vấn đề
Nam Cao gặp nhiều lận đận trên con đường văn chương. Nam Cao bắt đầu cầm
bút viết văn từ năm 1936 và bắt đầu thử bút trên nhiều thể loại như: thơ, kịch, truyện
ngắn, tiểu thuyết, kí… nhưng không thành công. Nam Cao thất vọng và nghi ngờ khả
năng văn chương của mình. Với một niềm đam mê cháy bỏng, cuối cùng Nam Cao
cũng được khẳng định mình trên văn đàn văn chương bằng tập truyện ngắn đầu tay
“Đôi lứa xứng đôi” do nhà xuất bản Đời mới ấn hành. Cuộc đời Nam Cao lại ngắn
ngủi, Nam Cao đã mất vào năm 1951 trên chiến trường khu 3. Chính vì vậy mà số
lượng tác phẩm Nam Cao để lại không nhiều. Nhưng bằng ngòi bút của mình, Nam
Cao đã tạo dựng nên một bức tranh sinh động về xã hội đương thời. Để khắc hoạ một
bức tranh về xã hội được sinh động như thế thì ngôn ngữ là một trong những yếu tố
không thể không nhắc đến.
Về ngôn ngữ truyện của Nam Cao, có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong
bài viết của Bích Thu về Sức sống của một sự nghiệp văn chương cũng đã điểm qua
đôi nét về phong cách, thi pháp, ngôn ngữ và giọng điệu trong các tác phẩm của Nam
Cao. Nhưng trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi tập trung trên bình diện ngôn ngữ
mà thôi. Về ngôn ngữ, Bích Thu cũng đã đưa ra quan điểm của mình ở hai khía cạnh là
ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại để thấy được cái tài hoa Nam Cao. Ngôn
ngữ đối thoại, Bích Thu viết: “Sự thành thạo trong sử dụng ngôn ngữ của Nam Cao
thể hiện ở ngôn ngữ đối thoại mang đầy chất văn xuôi đời thường, ngoài việc thực
hiện chức năng tự sự còn là để khắc hoạ tính cách, nội tâm nhân vật”[16; 33]. Như
vậy, vai trò của ngôn ngữ trong một sáng tác văn chương là rất quan trọng, không thể
coi nhẹ vì nó làm nên sự sống còn của một tác phẩm. Bên cạnh ngôn ngữ đối thoại thì
chúng ta cần nhìn nhận về giá trị độc thoại nội tâm của nhân vật. Bích Thu cũng đã đề
cập đến như sau: “Nam Cao có nhiều đóng góp trong việc miêu tả lời thoại nội tâm,
đặc biệt trong sự tiếp thu một cách sáng tạo chắt lọc phương pháp dòng ý thức của
văn học phương Tây trong các sáng tác, tạo điều kiện đi sâu vào phân tích tâm lí nhân
vật, khiến nhân vật đối diện với chính mình, tự phơi bày, tạo ra những cuộc tranh luận
ngầm, bộc lộ ý kiến cá nhân của nhân vật về một vấn đề đang được quan tâm: nhân
cách trong cuộc đời, trong sáng tạo nghệ thuật”.[16; 33]
2
Tuy nhiên bài viết này chỉ nhận định khái quát chưa đi sâu khai thác triệt để để
chứng minh tầm quan trọng của đối thoại, độc thoại. Nhưng giá trị của bài viết này
không có nghĩa là không có cơ sở, không có giá trị ứng dụng.
Nguyễn Đăng Mạnh cũng có một vài nhận xét về ngôn ngữ của Nam Cao trong
bài viết Về Nam Cao và truyện ngắn của Nam Cao, Nguyễn Đăng Mạnh nhận định:
“Nam Cao có nhiều đóng góp xuất sắc về ngôn ngữ văn xuôi. Sự hấp dẫn của văn Nam
Cao một phần quan trọng là do sức hấp dẫn của một thứ ngôn ngữ phong phú về từ
vựng, về cú pháp, về giọng điệu. Một thứ ngôn ngữ đi sát với đời sống, nhiều khi cứ
như là buông thả theo lối khẩu ngữ dân gian có vẻ dài dòng, luộm thuộm, kì thực đã
vận dụng tiếng nói của đời sống một cách chủ động với một trình độ nghệ thuật
cao.”[16; 439] Nguyễn Đăng Mạnh đã đánh giá cao về ngôn ngữ của Nam Cao, nó
vừa phong phú lại gần gũi với quần chúng. Có lẽ vì thế mà hầu hết các tác phẩm điều
được hưởng ứng tích cực từ các bạn độc giả. Tìm đến văn của Nam Cao là tìm đến
những cái thân quen thường ngày nhưng lại rất độc đáo, hấp dẫn lạ kì. Về ngôn ngữ
độc thoại cũng được nêu lên trong bài viết này: “Dưới mái liều tranh, người nông dân
của Nam Cao thường một mình một bóng, tự mình lại nói chuyện với mình, độc thoại
nội tâm triền miên, âm thầm buồn tủi. Cũng có khi có hai ba người ngồi nói chuyện
với nhau, giọng rì rầm điều điều buồn nản”. [16; 435] Qua nhận định vừa dẫn, ta thấy
người nông dân trong tác phẩm Nam Cao cũng mang nhiều nỗi suy nghĩ. Tất cả những
suy nghĩ trong một tâm trạng buồn tủi. Tâm trạng đó cũng có liên quan tới hoàn cảnh
của cuộc sống, cái hoàn cảnh được nói ở đây không gì khác hơn chính là những hoàn
cảnh khó khăn, bần cùng. Khi khai thác ở khía cạnh này thì nó lại làm cho giá trị của
tác phẩm được nâng lên gấp nhiều lần.
Khi nhận xét về phong cách truyện ngắn Nam Cao, Bùi Công Thuấn cũng đã
nêu lên quan điểm của mình trong Phong cách truyện ngắn của Nam Cao trước cách
mạng. Trong bài viết này, Bùi Công Thuấn đã nghiên cứu về phong cách nghệ thuật,
phong cách ngôn ngữ và phong cách tác giả, Bùi Công Thuấn nhận định: “Bút pháp
tâm lí và tính triết lí trong những truyện ngắn của Nam Cao là đặc sắc và có giá trị
bao trùm lên ngôn ngữ có chất nông dân Bắc Bộ và chất trí thức tiểu tư sản bế tắc, bi
tráng của Nam Cao. Cũng chính sự thể hiện tâm lí và những nhận thức triết lí của
Nam Cao là những đóng góp độc đáo làm nên giá trị riêng của Nam Cao”.[16; 380]
Theo cách nhận định này, chúng ta có thể hiểu tâm lí và cái triết lí có trước để làm
3
nhân tố quyết định cho ngôn ngữ của nhân vật. Nhưng cái cốt lõi ở đây đó là tâm lí,
triết lí gì? Phản ứng bằng những phát ngôn có đúng với tâm trạng, triết lí đó hay chưa?
Làm những điều đó là điều không dễ. Nhưng đối Với Nam Cao thì những vấn đề tâm
lí, triết lí được khai thác và thể hiện một cách triệt để tạo ra một nét rất riêng, rất độc
đáo.
Một đặc điểm của thi pháp truyện Nam Cao của Phạm Quang Long có đoạn
viết: “Một trong những đặc điểm nổi bật của truyện Nam Cao là ông sử dụng rất tài
tình cả một hệ thống các tình huống nhận thức – lựa chọn gắn chặt với những tình
huống tâm lí và trên cơ sở miêu tả, lí giải một khía cạnh phong phú, phức tạp của quá
trình này mà đi sâu vào thế giới tâm lí của con người, vào những đối thoại tư tưởng
giữa nhà văn với người đọc không phải dưới dạng triết lí trừu tượng mà là những triết
lí, những quan điểm đạo đức, nhân sinh ấy được cảm nhận từ hệ thống hình tượng, từ
những rung động thẩm mĩ”.[16; 381] Nhận định này, Phạm Quang Long chủ yếu khai
thác trên bình diện tình huống nhận thức – lựa chọn gắn với tình huống tâm lí. Đó là
cơ sở là nền tảng để mà đi sâu khai thác tâm lí nhân vật. Với đặc điểm thi pháp này thì
Phạm Quang Long chưa đi sâu khai thác ngôn ngữ của nhân vật chỉ nhấn mạnh vào
tình huống và tâm lí. Nên chưa làm nổi bật hết tầm quan trọng của ngôn ngữ trong tác
phẩm của Nam Cao.
Trong bài Nam Cao và nghệ thuật sáng tạo tâm lí, Hà Minh Đức khẳng định
những ý đóng góp của Nam Cao ở phương diện miêu tả tâm lí nhân vật qua các độc
thoại nội tâm. Qua đó nhằm khắc hoạ những nỗi u uất, buồn tủi của một con người
trước một hoàn cảnh cụ thể, trong đó có những con người nhỏ bé như nông dân nghèo,
nông dân bị bần cùng hoá trong xã hội. Hoặc có thể là những độc thoại mang cảm xúc
tươi vui chung của mọi người: “Nam Cao không phải là nhà văn đầu tiên sử dụng độc
thoại nội tâm, nhưng là tác giả vận dụng nhiều nhất và hiệu quả nhất độc thoại nội
tâm và cả nhân vật nông dân cũng độc thoại nội tâm. Độc thoại nội tâm xen giữa
dòng đối thoại, đi sâu vào hồi tưởng quá khứ và mong ước mai sau. Độc thoại nội tâm
trong tâm trạng cô đơn độc của nhân vật. Độc thoại nội tâm trong không khí vui
chuyện chung của nhiều người.”[16; 409]
Đó là một trong số nhiều bài viết nhận xét về ngôn ngữ trong các tác phẩm
truyện của Nam Cao. Mỗi bài viết được đặt dưới một góc nhìn khác nhau, nhưng
chung quy lại ở tất cả bài viết điều nâng cao về giá trị to lớn của ngôn ngữ nhân vật
4
trong truyện. Nó là đầu mối để chúng ta nắm bắt và lột tả hết tâm lí của nhân vật hay
tâm trạng của nhân vật.
3. Mục đích nghiên cứu
Ngôn ngữ nhân vật trong truyện của Nam Cao không cầu kì mà nó rất đậm chất
đời thường. Tìm hiểu ngôn ngữ nhân vật là rất quan trọng nó như thể là chiếc chìa
khoá vàng cho chúng ta khám phá thế giới nội tâm, cảm xúc con người trước cuộc
sống thực. Quan trọng hơn chúng ta có thể giải thích những biến đổi tâm lí của nhân
vật, tính cách của nhân vật, cuộc đời của nhân vật thông qua quá trình vận động tâm lí
của nhân vật. Đồng thời giúp đánh giá đúng bản chất bên trong con người họ. Đề tài
nghiên cứu này cho chúng ta thấy được cái độc đáo Nam Cao trong lối cách sử dụng
ngôn từ trong truyện nhằm phơi bày hết những hiện thực xã hội lúc bấy giờ.
4. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi khảo sát trên sáu tác phẩm truyện ngắn của Nam Cao. Trong bài
nghiên cứu này chúng tôi tập trung khai thác ngôn ngữ của các nhân vật trong truyện
từ các cuộc hội thoại và độc thoại cụ thể trong tác phẩm. Qua đó giúp chúng ta nắm
bắt được tâm lí cũng như tính cách nhân vật.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này chúng tôi vận dụng nhiều phương pháp kết
hợp với nhau.
Chúng tôi phân tích các cuộc hội thoại, lượt thoại và độc thoại nội tâm trong tác
phẩm truyện ngắn của Nam Cao theo tiêu chí là thể hiện tính cách, phẩm chất, tâm lí
nhân vật đối với các cuộc đối thoại và lượt thoại. Riêng đối với độc thoại nội tâm,
chúng tôi phân tích trên tiêu chí là những độc thoại đó thể hiện chiều sâu suy nghĩ hay
là phẩm chất của nhân vật.
Về thống kê, chúng tôi sẽ lập bảng để thống kê lại từng tác phẩm có bao nhiêu
cuộc thoại, lượt thoại và độc thoại. Phân loại, chúng tôi sẽ phân loại từng nhân vật theo
suốt từng tác phẩm một cách cụ thể (tác dụng của thao tác này nhằm để tiện đánh giá
tâm lí nhân vật theo suốt tác phẩm).
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG MỘT
QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ VỀ LÍ THUYẾT
HỘI THOẠI VÀ LÍ THUYẾT HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ
I. QUAN NIỆM CỦA NGUYỄN ĐỨC DÂN
1. Về lí thuyết hội thoại
Trong quyển Ngữ dụng học, tập một, Nguyễn Đức Dân đã dành chương ba để
viết về lí thuyết hội thoại. Trong đó ông đã nêu ra những vấn đề đại cương, cấu trúc
của cuộc hội thoại.
1.1. Khái niệm hội thoại
Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của con người. Đề cập
đến vấn đề này Nguyễn Đức Dân đã khẳng định: “Trong giao tiếp hai chiều, bên này
nói bên kia nghe và phản hồi trở lại. Lúc đó vai trò của hai bên thay đổi: Bên kia trở
thành bên nói và bên nói lại trở thành bên nghe. Đó là hội thoại. Hoạt động giao tiếp
phổ biến nhất, căn bản nhất của con người là hội thoại.”[6 ; 76]
Theo quan điểm này của Nguyễn Đức Dân thì giữa người nói và người nghe có
sự tương tác với nhau và có sự luân phiên lượt lời với nhau để tạo thành một cuộc hội
thoại.
1.2. Cấu trúc hội thoại
Nguyễn Đức Dân cho rằng trong một cuộc hội thoại gồm ba phần: Mở thoại,
thân thoại, và kết thoại.
Phần mở thoại là lúc bắt đầu cho cuộc hội thoại, luôn luôn do một bên chủ
động.
Thân thoại là phần nằm giữa phần mở thoại và kết thoại.
Kết thoại là lúc kết thúc do một bên chủ động đề ra.
1.3. Các yếu tố cấu trúc hội thoại
1.3.1. Cấu trúc lƣợc lời
Nguyễn Đức Dân xác định đơn vị cơ bản của hội thoại là lượt lời. Có nghĩa là
người thứ nhất nói xong lượt lời của mình - giữ vai trò là người nói, còn những người
khác giữ vai trò là người nghe, lần lượt đến những người nói tiếp theo. Đương nhiên sẽ
không thành lượt lời khi mà nhiều người nói cùng một lúc. Tuy là vậy nhưng cũng có
6
trường hợp ngoại lệ của nó: “Chỉ có ngoại lệ là khi một đám đông đứng trước một cá
nhân trong một hội thoại xưng tụng, thề nguyền trong các nghi lễ tôn giáo, đồng thanh
hô, hò reo; vạn tuế, muôn năm, hoan hô, đúng rồi, xin thề, quyết tâm, đả đảo, rõ…”
[6 ; 87 ]
Ở phần nội dung này Nguyễn Đức Dân cũng đưa ra một số vần đề như trao lời,
tranh lời. Trao lời là sự chuyển lời tự nhiên có ý thức chủ động của người đang giữ
lượt lời. Một người có thể trực tiếp chuyển giao lượt lời cho một đối tượng xác định.
Trái với trao lời là tranh lời, còn gọi là ngắt lời. Đây là những lời nói “xen ngang” vào
lời của người khác. Hoặc vì tưởng nhầm là họ đã nói xong, hoặc vì một phản ứng tức
thời, tích cực hay tiêu cực như: “Đúng quá!”, “hoan hô”, “phải vậy thôi”, “không
đúng”, “tầm bậy!”, “làm gì có chuyện đó!”,“tôi xin giải thích ngay điều này”, “vậy
mà cũng nói”…Như thế lượt lời có thể chuyển sang lượt lời của người khác một cách
không tự nhiên.
1.3.2. Cấu trúc mở thoại
Khi một lời nói được phát ra và kết quả của lời nói này sẽ làm cho người khác
nói ra một hay một chuỗi những lượt lời tiếp theo. Và lời nói đó chính là lời mở thoại.
Khi người con nói với bố “bố ạ !” thì có nghĩa là người con muốn nói với bố một
chuyện gì đấy. Đấy là lời mào đầu hay mở thoại.
1.3.3. Cấu trúc cặp thoại
Nguyễn Đức Dân cho rằng, các cặp thoại không phải được nói ra một cách ngẫu
nhiên tùy tiện. Chúng được tổ chức, thực hiện theo một quy cách chặt chẽ, tuân theo
những quy tắc chi phối hội thoại, việc gì sẽ dẫn tới việc gì, ai nói và sẽ nói khi nào...
Trong một cặp thoại, lượt lời thứ nhất có chức năng định hướng cho lượt lời thứ hai.
Khi nói một điều người ta dự đoán, chờ đợi một điều gì khác sẽ xảy ra. Sau khi thực
hiện một hành vi ngôn ngữ, người ta chờ đợi một hành vi ngôn ngữ đáp ứng. Sau một
nội dung mệnh đề, người ta chờ đợi một nội dung mệnh đề. Nghĩa là hai lượt lời có
quan hệ mật thiết với nhau.
Các cập hành vi ngôn ngữ như: Hỏi – trả lời (/ đáp); chào – chào; đề nghị - đáp
ứng; đề nghị - bác bỏ; mệnh lệnh – sự tuân theo (chỉ tuân theo lời nói).
Cấu trúc cặp thoại lƣợt lời ƣa dùng
Trong cuộc hội thoại, có nhiều lượt lời thứ hai ưa dùng. Trong cùng một lượt
lời thứ nhất sẽ tạo ra nhiều lượt lời thứ hai khác nhau, trong đó có những lượt lời ưa
7
dùng hơn và những lượt lời ít dùng hơn. Nguyễn Đức Dân cũng đã nhận định: “Lượt
lời ưa dùng thường ngắn hơn lượt lời ít dùng thường dài hơn.” [6; 102]
Cấu trúc cặp thoại lời chêm xen
Ở một lượt lời trong cặp thoại có thể xuất hiện những lời chêm xen. Lời chêm
xen này không làm cho đặc điểm căn bản của lượt lời bị phá vỡ, cho nên nó không ảnh
hưởng tới sự tiếp tục bình thường của cặp thoại. Gọi là lời chêm xen vì nó không cùng
một cấp độ với những câu khác trong một lượt lời. Lời chêm xen có ý nghĩa là làm cho
người đối thoại lưu ý để nhằm vượt qua những khó khăn trước một trở ngại nào đó để
cuộc hội thoại được diễn ra bình thường. Những trở ngại này thường liên quan tới
những phương châm hội thoại và nói chung là phương châm ứng xử xã hội. Một khi đã
vượt qua được trở ngại, người ta không chú ý tới những lời chêm xen đó nữa. Chẳng
hạn, giữa cặp thoại có thể xuất hiện lời nhắn chào, thăm hỏi xã giao không liên quan
tới chủ đề chính của cặp thoại.
1.3.4. Sự liên kết phát ngôn
Trong một văn bản giữa các câu, giữa các đoạn có sự liên kết chặt chẽ với nhau.
Các phát ngôn trong hội thoại phải tuân theo nguyên lí liên kết, cũng gọi là nguyên lí
mạch lạc (A: coherence principle). Theo đó, mỗi phát ngôn phải là một mắc xích trong
một chuỗi phát ngôn có liên kết với nhau, mỗi phát ngôn có liên kết chặt chẽ với nhau
hay nhiều phát ngôn trước đó đáp ứng hiệu lực tại lời và phù hợp với những tiền giả
định ngữ dụng của những phát ngôn đi trước. Có sự phân biệt liên kết các phát ngôn
với sự liên kết tối thiểu trong văn bản (A: text cohesion).
1.4. Nguyên lí cộng tác hội thoại
Nguyên lí cộng tác hội thoại, Nguyễn Đức Dân đã tiếp thu từ H.P. Grice: “Hãy
làm cho phần đóng góp của mình ở giai đoạn mà cuộc hội thoại được xem xét đúng
như mục đích hay phương hướng mà cuộc thoại đòi hỏi và mình chấp nhận tham gia”.
Ở nguyên lí này có bốn tiểu nguyên lí hay là bốn phương châm như sau:
(1) Phương châm về lượng
Hãy làm cho phần đóng góp của mình có lượng tin đúng như nó được đòi hỏi
cho mục đích của hội thoại.
Đừng đóng góp lượng tin của mình nhiều hơn điều mà nó được đòi hỏi.
(2) Phương châm về chất
Đừng nói những điều mình tin là sai.
8
Đừng nói những điều mà mình không có bằng chứng chính xác.
(3) Phương châm quan hệ
Hãy đóng góp những điều có liên quan (A: relevant).
(4) Phương châm cách thức
Hãy nói rõ ràng, đặc biệt là:
Tránh tối nghĩa.
Tránh mơ hồ.
Ngắn gọn.
Có mạch lạc.
2. Về lí thuyết hành động ngôn từ
2.1. Hành vi ngôn ngữ
Hành vi ngôn ngữ là một thuật ngữ được dịch thuật từ từ speech acts. Thuật
ngữ này được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng và Nguyễn Đức Dân cũng dùng thuật ngữ
này. Ở phần nội dung này Nguyễn Đức Dân tiếp thu kết quả nghiên cứu của Austin.
Hành vi ngôn ngữ trong một phát ngôn có 3 loại:
(1) Hành vi tạo lời
Austin đặt tên cho hành động “nói một điều gì đó” là hành vi tạo lời (A:
Locutionaly acts). Có ba phương diện khác nhau của hành vi này. Quan sát một phát
ngôn, trước hết ta thấy hành vi ngữ âm (A:phonetic acts) để tạo ra chuỗi âm thanh làm
nên phát ngôn đó. Tất cả mọi cách thức âm thanh để thực hiện một âm tố, một từ thuộc
lớp từ vựng hay ngữ pháp nào đó với những kiểu nhấn giọng, ngữ điệu được xác định
được gọi là hành vi đưa giọng (A: phatic acts). Một cách tổng quát, hành vi được thực
hiện một câu hay những thành tố của nó với những “nghĩa” đã xác định nào đó cũng
như “sự quy chiếu” xác định được gọi là hành vi tạo vật (A: rhetic acts)”.
(2) Hành vi tại lời
Austin đặt vấn đề: nói một điều gì đó là thể hiện một hành động gì đó nghĩa là
thế nào? Trong giao tiếp, chúng ta có những hành vi như hỏi, trả lời, ra lệnh, yêu cầu,
đề nghị, khẳng định, cam kết, khuyên bảo… Muốn thể hiện chúng ngay trong lời nói
(A; in saying something) thì cần nói “một điều gì đó”. Cái hành vi này được gọi là
hành vi tại lời (A: illocutionary act).
(3) Hành vi mượn lời
9
Khi thực hiện một hành vi tại lời chúng ta có hai loại hiệu quả khác nhau. Thứ
nhất đó là giá trị tự tại của hành động tại lời. Thứ hai đó là hiệu quả mà người nói chủ
động gây ra đối với người nghe.
II. QUAN NIỆM CỦA ĐỖ HỮU CHÂU
1. Về lí thuyết hội thoại
Trong quyển Đại cương ngôn ngữ học tập hai, Đỗ Hữu Châu cũng nêu ra một
số vấn đề về hội thoại.
1.1. Khái niệm hội thoại
Về hội thoại, Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường
xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn
ngữ khác.”[5 ; 201]
Theo quan điểm của Đỗ Hữu Châu thì ngôn ngữ là phương tiện chính để con
người hình thành nên cuộc hội thoại, bên cạnh đó ngôn ngữ còn đóng vai trò quan
trọng trong hoạt động ngôn ngữ khác.
1.2. Vận động hội thoại
Trong bất kì cuộc hội thoại nào cũng có ba vận động chủ yếu đó là trao lời, trao
đáp và cuối cùng là sự tương tác.
1.2.1. Sự trao lời
Chuỗi đơn vị ngôn ngữ được một nhân vật hội thoại nói ra, kể từ lúc bắt đầu
cho đến lúc chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia nói ra chuỗi lượt lời của mình là
một lượt lời.
1.2.2. Sự trao đáp
Cuộc hội thoại được chính thức hình thành khi người nghe đáp lại lượt lời của
người nói. Giữa người nói và người nghe có sự trao đáp lượt lời với nhau. Sự hồi đáp
có thể thực hiện bằng các yếu tố phi lời hoặc bằng lời, thường thấy hai yếu tố này cùng
đồng hành với nhau.
1.2.3. Sự tƣơng tác
Trong cuộc hội thoại, các nhân vật tham gia hội thoại có chịu ảnh hưởng nhau,
tác động qua lại với nhau làm biến đổi lẫn nhau. Trước một cuộc hội thoại giữa các
nhân vật tham gia hội thoại có sự khác biệt, đối lập về hiểu biết, tâm lí, tình cảm, ý
muốn…Không có sự khác biệt này thì giao tiếp thành thừa.
10
1.3. Nguyên tắc cộng tác hội thoại
Về nguyên tắc cộng tác, Đỗ Hữu Châu cũng đã vận dụng, tiếp thu kết quả
nghiên cứu của Grice. “Hãy làm cho phần đóng góp của anh, chị đúng như nó được
đòi hỏi mà nó xuất hiện phù hợp với đích hay phương hướng của cuộc hội thoại mà
anh chị đã chấp nhận tham gia vào”.
Ở nguyên lí này có bốn phương châm sau:
(1) Phương châm về lượng
Hãy làm cho phần đóng góp của anh có lượng thông tin đúng như đòi hỏi
Đừng làm cho phần đóng góp của anh có lượng thông tin lớn hơn đòi hỏi
(2) Phương châm về chất
Đừng nói những điều mà anh tin rằng không đúng
Đừng nói những điều mà anh không có bằng chứng xác thực
(3) Phương châm quan hệ
Hãy quan yếu
(4) Phương châm cách thức
Tránh lối nói tối nghĩa
Tránh lối nói mập mờ
Hãy ngắn gọn
Hãy nói có trật tự
2. Về lí thuyết hành động ngôn từ
2.1. Phát ngôn ngữ vi
Phát ngôn ngữ vi là những phát ngôn mà khi người ta nói chúng ra thì đồng thời
người ta thực hiện ngay cái việc được biểu thị trong phát ngôn.
Khi chúng ta nói “Chúng tôi xin đảm bảo đây là hàng thật. Nếu sai, chúng tôi
xin chịu bồi thường.” Trong phát ngôn này ta thấy một hành vi bảo đảm.
2.2. Các hành vi ngôn ngữ
Khi chúng ta nói năng là chúng ta hành động, chúng ta thực hiện một loại hành
động đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ. Theo Austin thì có ba loại hành động ngôn
ngữ lớn. Đó là hành vi tạo lời (acte locutoire), hành vi mượn lời (acte perlocutoire) và
hành vi ở lời (acte illocutoire).
11
Hành vi tạo lời là hành vi sử dụng các yếu tố ngôn ngữ như ngữ âm, từ các kiểu
kết hợp thành câu... để tạo ra một phát ngôn về hình thức và nội dung. Một bộ phận
của hành vi là ở đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học tiền ngữ dụng học.
Hành vi mượn lời là những hành vi “mượn” phương tiện ngôn ngữ hay nói
đúng hơn chính là mượn những phát ngôn để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào
đó ở người nghe, người nhận hay chính cả người nói.
Ví dụ: khi nghe thông báo trên một đài phát thanh “Ngày mai, 25 tháng 7 ở Hà
Nội sẽ có mưa lớn, gió mạnh sức gió cấp 4, cấp 5 tức 40 đến 50 km một giờ”. Khi
nghe phát ngôn này một số người rất lo lắng và tỏ ra bực mình nếu họ là những người
ở xa cơ quan công tác, một số khác lại tỏ ra thờ ơ, một số khác lại vui mừng vì trời đỡ
oi bức.
Hành vi ở lời là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả
của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng
ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận.
Ví dụ: Về hành vi ở lời: hỏi, yêu cầu, ra lệnh, mời, hứa hẹn…Khi chúng ta hỏi
ai về cái gì đó thì người được hỏi có nhiệm vụ trả lời cho chúng ta cho dù có thể trả lời
không biết.
III. QUAN NIỆM CỦA CHIM VĂN BÉ
1. Về lí thuyết hội thoại
Trong quyển Ngôn ngữ văn chương Việt Nam, Chim Văn Bé cũng đã đề cặp
đến một số vấn đề về lí thuyết hội thoại.
1.1. Khái niệm về hội thoại
Khái niệm hội thoại được Chim Văn Bé giải thích: “Hội thoại là một quá trình
tương tác trực tiếp bằng lời giữa những người đang tham gia vào hoạt động giao tiếp,
diễn ra trong một thoại trường (không gian, thời gian) cụ thể, xoay quanh đề tài và
chủ đề nào đó.
Sản phẩm hoàn chỉnh của một quá trình hội thoại là ngôn bản hội thoại, còn
đơn vị cơ sở của bản hội thoại là đoạn ngôn hay đoạn thoại.[ 2; 99 ]
Theo tác giả thì giữa những người tham gia hội thoại có sự tương tác lẫn nhau.
Và sự tương tác này được đặt trong một không gian và thời gian cụ thể vì thời gian và
không gian có ảnh hưởng ít nhiều đến cuộc hội thoại. Và cuộc nói chuyện này cũng
12
cần phải theo một đề tài hay chủ đề nào đó. Có như thế thì cuộc hội thoại mới được
hình thành.
1.2. Cấu trúc của hội thoại
Về cấu trúc của hội thoại, Chim Văn Bé đã nhìn nhận ở hai phương diện: tĩnh và
động. Xét ở phương diện động thì cuộc hội thoại diễn ra như một quá trình vận động.
Ở phương diện tĩnh thì hội thoại được xem như là một sản phẩm đã được tạo tác.
1.2.1. Mở thoại
Mở thoại là một hành động nói ra lượt lời để nhằm mục đích dẫn dắt vào cuộc
thoại. Có hai cách mở thoại, có thể người nói mở thoại bằng cách trực tiếp hay gián
tiếp, nó còn phụ thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp và mục đích giao tiếp. Cách mở thoại
gián tiếp là chào, hỏi thăm sức khoẻ. Cách mở thoại trực tiếp là đề nghị đối tác trao đổi
ý kiến về một đề tài nào đó. Lượt lời thực hiện chức năng mở thoại gọi là lời khai
thoại. Lời khai thoại có thể là toàn bộ hay một bộ phận nào đó trong lượt lời được nói
ra.
Ví Dụ:
“Ông lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi:
- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?
- Là con thầy mấy lị con u
- Thế nhà con đâu?
- Nhà ta ở làng Chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố, trả lời khe khẽ:
- Có”
“Ông lão ôm khích thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:
- À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bảo và rành rọt:
- Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má:
- Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.”
(Kim Lân: Làng)
13
1.2.2. Trao lời
Trao lời là hành động nói ra và hướng lượt lời của mình đến đối tác. Mỗi lượt
lời là một phát ngôn, có thể tương đương với một từ, một câu hay một chuỗi câu dài.
Sản phẩm của hành động trao lời là lời trao.
1.2.3. Đáp lời
Đáp lời là hành động nói ra lượt lời của mình nhằm hồi đáp lại hành động trao
lời của đối tác. Sản phẩm của đáp lời là lời đáp.
Xét trong mối quan hệ với lời trao, lời đáp có thể là tương thích hay không
tương thích. Lời đáp tương thích là lời đáp có đáp ứng lời trao theo hướng khẳng định
hay phủ định. Sự tương thích có thể hiện trên bề mặt ngôn từ hay thể hiện gián tiếp
qua mối quan hệ giữa các hành động qua lời.
“Ông Cứu tiến lên gần nhỏ nhẻ thưa:
- Lại quan lớn, còn vong hồn của con kia. Nếu có thế nào, con con cam chịu tội
trước của quan. Xin quan lớn cho phép con mai táng, con xin hậu tạ quan lớn.
Quan lại nhìn ông Cứu bằng đôi mắt dịu dàng của một người có trái tim dễ cảm.
Ngày hỏi:
- Anh định tội bao nhiêu?
- Lại quan lớn, con xin khấn một nén.
Quan cười:
- Anh phải biết cứ tiền dầu xăng khứ hồi ô tô về đây cũng đáng một nén rồi.”
(Nguyễn Công Hoan: Thịt người chết)
Lời đáp không tương thích là lời đáp không đáp ứng lời trao, có thể kênh giao
tiếp bị nhiễu hay người nói bị tổn thương, nghe không chính xác lời trao nên đáp lời
lệch lạc. Lời đáp không tương thích còn có thể do nguyên nhân tâm lí nào đó, khiến
cho người đáp “đánh trống lãng”.
“Bà cô thị Nở chỉ vào tận mặt cháu mà đay nghiến:
- Phúc đời nhà mày, con nhé. Cả ôm lấy ông Chí Phèo.
Thị cười và nói lãng:
- Hôm qua làm biên bản, Lí Cường nghe đâu đã tốn gần một trăm. Thiệt người
lại thiệt của.”
(Nam Cao: Chí Phèo)
14
“Anh xe nhấp nhổm chạy rảo cẳng vài bước, rồi lại tiến bước như trước. Một
lúc, anh mới đáng bạo hỏi một câu rõ khôn:
- Bà tìm ai thưa bà?
- Tôi tìm người quen.
- Người quen bà ở phố nào?
- Anh cứ kéo đi.”
(Nguyễn Công Hoan: Ngựa người và người ngựa)
Hành động trao lời và đáp lời tạo thành quan hệ trao – đáp, là hạt nhân của vận
động hội thoại. Quan hệ trao – đáp trong hội thoại sẽ tạo nên các tác động qua lại giữa
các đối tiếp, làm thay đổi tri thức, thái độ, ý thức, tình cảm… của các đối tác. Sự tương
tác có thể diễn ra theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực. Trong tương tác tích cực là
tương tác hợp tác, qua đó, khoảng cách về tri thức, thái độ, ý chí, tình cảm… Giữa các
đối tác được rút ngắn dần, hội thoại diễn ra trong không khí thân thiện, nhịp nhàng.
Tương tác tiêu cực là tương tác bất đồng, đối chọi nhau về lập trường, thái độ, ý chí,
tình cảm giữa các đối tác, làm cho cuộc tthoại không đạt được mục đích giao tiếp,
thậm chí dẫn đến xung đột, cuộc thoại trở thành cuộc cãi lộn. Lời trao và lời đáp hợp
thành cặp trao – đáp hay cặp kế cận (adjacency pair) trong.
1.2.4. Xen lời
Xen lời là hành động ngắt lời, nói chen vào khi đối tác chưa kết thúc lượt lời.
Kết quả của hành động xen lời là lời xen.
“Xuân ngẩn ngơ mà rằng:
- Tự nhiên người ta đánh con, người ta đuổi con, người ta áp chế…
-Thôi đi, anh đừng chối!”
Thế anh này, anh hỏi gì?
Xuân lúng túng xua tay:
- Bẩm…bẩm… bà lớn Phó Đoan hôm qua…
Văn Minh cắt ngay:
- Im! Anh phải gọi là bà Phán, không thì bà không bằng lòng.”
(Vũ Trọng Phụng: Số đỏ)
15
1.2.5. Kết thoại
Kết thoại là hành động kết thúc cuộc thoại. Người nói có thể kết thúc cuộc thoại
bằng cách thông báo trực tiếp, hay bằng một lời chào hay lời hẹn. Lượt lời thực hiện
chức năng kết thúc cuộc thoại là lời kết thoại.
“- Này bác Tràng! Bác tràng!...
Sau một khuôn cửa tối, một cái đầu trọc thò ra gọi giật giọng. Tràng lật đật
quay lại.
-Về muộn mấy? Hẵng vào chơi cái đã nào.
Tràng đứng lại thoái thác:
-Thôi, ông để cho đến hôm khác.
Cái đầu trọc nháy nháy một con mắt, hất hất về phía người đàng bà hóm hỉnh:
- Cánh nào đấy?
- À hà… người quen. Thôi để hôm khác, ông nhá.”
(Kim Lân: Vợ nhặt)
1.3. Nguyên lí cộng tác hội thoại
Về nguyên lí cộng tác hội thoại, Chim Văn Bé đã tiếp thu kết quả nghiên cứu
của Grice. Trong phần nghiên cứu về nguyên lí cộng tác hội thoại Nguyễn Đức Dân và
Đỗ Hữu Châu đã lượt bỏ một siêu phương châm của Grice.
Để làm rõ những quan điểm của Grice về lí thuyết hội thoại, Chim Văn Bé
cũng đã trích dẫn nguyên văn có kèm lời dịch.
“Make your contribution such as is required, at the state at which it occurs, by
the accepted purpose or direction of the talk exchange in wich you are engaged.”(
Hãy làm cho phần đóng góp của bạn đúng như được đòi hỏi, ở giai đoạn mà nó xuất
hiện, phù hợp vói mục đích hay phương hướng của cuộc trò chuyện mà nó tham gia
vào).
Nguyên lí này có bốn phạm trù, mỗi phạm trù có “siêu phương châm”, phương
châm và các tiểu phương châm:
“I. Maxims of quantity (which relate to the amount of informative to be
provided):
1. Make your contribution as informative as is required for the current purpose
of the exchange.
2. Do not make your contribution more in formative than is required.
16
- Xem thêm -